Bơm ròng tiền là gì

Bước sang nửa cuối 2020, tại hai cuộc họp gần nhau, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hai lần đặt vấn đề xem xét chính sách tài khóa và tiền tệ.

Lần thứ nhất, Thủ tướng đặt “đề bài”, việc duy trì chính sách tài khóa và tiền tệ như hiện nay có đúng hay không, khi mà nhiều nước bơm tiền, tăng thâm hụt ngân sách để kích thích tăng trưởng.

Lần thứ hai, Thủ tướng nhận định dư địa chính sách tài chính, tiền tệ còn lớn cho kích cầu; tiếp tục xem xét hạ lãi suất, giảm thuế phí.

Vậy, ở chính sách tiền tệ, bơm tiền hiện nay khác với trước đây như thế nào? Câu hỏi đặt ra, vì vẫn còn đó ám ảnh lạm phát phi mã và lãi suất leo thang trong quá khứ sau những cuộc bơm tiền lớn.

Câu chuyện của năm 2009

So sánh có những khập khiễng, song có những điểm hiện nay khá giống với năm 2009, ở đề bài bơm tiền kích thích tăng trưởng.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra năm 2008. Một năm sau, suy giảm kinh tế lan rộng. Các ngân hàng trung ương trên thế giới đồng loạt giảm lãi suất về gần 0, ồ ạt bơm tiền.

Việt Nam nằm trong vòng xoáy đó. Kích cầu trở thành yêu cầu trọng tâm. Trên Báo cáo thường niên năm 2009 của Ngân hàng Nhà nước, “nới lỏng” và “bơm tiền” cũng là những từ xuất hiện ngay các trang đầu.

Nhà điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam khi đó đã khởi động một năm bận rộn bằng 2 lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng VND. Mục đích nêu rõ: “Tăng cường cung ứng vốn, chống suy giảm kinh tế”.

Các lãi suất điều hành cũng đồng loạt giảm. Thời đó còn dùng lãi suất cơ bản. Riêng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu liên tiếp 2 lần giảm chỉ trong vòng hơn hai tháng.

Cùng đó, van bơm vốn trên thị trường mở [OMO] thường xuyên mở, bơm ròng quy mô ban đầu 6.000 tỷ đồng/phiên đến cuối năm lên tới xấp xỉ 15.000 tỷ đồng/phiên. Ngược lại, hoạt động điều tiết có thực hiện phát hành tín phiếu nhưng hầu như không thấm hút được tiền về [chỉ 2/68 phiên bán được tín phiếu với doanh số vỏn vẹn 102 tỷ đồng].

Kết năm 2009, quy mô bơm tiền được đo lường cụ thể. Tổng phương tiện thanh  toán tăng tới 28,99%, cao hơn nhiều so với mức 20,31% của 2008. Tăng trưởng tín dụng còn tăng cao hơn nữa với 37,53%, cũng cao hơn nhiều so với 23,38% của năm 2008.

Khi đó Ngân hàng Nhà nước lý giải, “chủ yếu do tác động của các chính sách kích thích kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế của đất  nước”.

Song song, 2009 có chính sách đặc biệt: cấp bù lãi suất cho vay 4%/năm. Tổng dư nợ được hỗ trợ lãi suất lên tới 385.824 tỷ đồng. Đây là quy mô lớn, vì khi đó dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế chỉ trong khoảng 1,7 - 1,8 triệu tỷ đồng.

2020 đang rất khác biệt

Sau câu chuyện bơm tiền 2009, kinh tế Việt Nam đón một năm 2010 khởi sắc trở lại của tăng trưởng GDP [đạt 6,78%, vượt mục tiêu 6,5%].

Nhưng đó cũng là khởi đầu cho cú hồi mã thương của lạm phát và lãi suất, khi bơm tiền vẫn ở quy mô lớn với tổng phương tiện thanh toán tiếp tục tăng tới 33,3%, tín dụng tăng tới 31,9% trong năm 2010.

Ngay năm sau, 2011, khủng hoảng và tình trạng mấp mé bờ vực đổ vỡ thanh khoản hệ thống ngân hàng xẩy ra, nợ xấu lộ thiên quy mô lớn, lạm phát và lãi suất leo thang…

Như trên, so sánh có những khập khiễng. Nhưng liệu câu chuyện bơm tiền hiện nay, khi vấn đề kích cầu và hỗ trợ tăng trưởng GDP đặt ra, có khiến những ám ảnh quá khứ đó trở lại?

Có quá nhiều khác biệt khi so sánh hiện nay với câu chuyện bơm tiền kích cầu năm 2009.

Về nguyên nhân và bối cảnh, cuộc khủng hoảng 2008 dẫn đến suy giảm và bơm tiền kích cầu 2009 có yếu tố bong bóng tài sản vỡ, cho vay dưới chuẩn vỡ… sau giai đoạn tăng trưởng nóng.

Nay, kinh tế toàn cầu và Việt Nam nói riêng có nguyên do đứt gãy, giãn đoạn và cả đổ vỡ chuỗi sản xuất, cung - cầu, dòng tiền bởi yếu tố tự nhiên và bất thường là Covid-19.

Nói cách khác, bơm tiền trong so sánh này có tác động và đứng trên hai nền khác nhau.

Năm 2009, nền bơm tiền còn bị bủa vây, sụt lún và tiêu hao mạnh mẽ bởi các “rốn” hút tiền lớn.

Trước hết, tỷ giá USD/VND tăng cao [năm 2009 tăng 5,6%], thâm hụt thương mại lớn, ngoại tệ phải bơm ra và qua đó hút VND về, trong khi ngoại tệ lại găm giữ trong dân cư và doanh nghiệp [khi đó đã từng phải có biện pháp kết hối], rồi phải chi ngoại tệ để nhập vàng về...

Thứ nữa, giá vàng trong nước tăng tới 60% năm 2009, tạo “rốn” hút tiền mạnh mẽ với nhiều làn sóng đầu cơ nóng bỏng.

Rồi kênh chứng khoán cũng hút tiền vào rất lớn, khi mà chỉ số VN-Index tăng tới 56,8% so với cuối năm 2008, tăng tới 110% so với điểm đáy ngày 24/2/2009 và giá trị giao dịch bình quân trên sàn tăng gấp đôi so với 2008.

Nay, các mặt trận vàng và ngoại tệ đã được bình ổn, không còn là những “rốn” đầu cơ hút tiền mạnh mẽ như trước. Thậm chí, Ngân hàng Nhà nước liên tiếp mua ròng lượng lớn ngoại tệ, cũng là một kênh bơm tiền ra mà trước đây không có nhiều điều kiện để thực hiện.

Cũng chính để trung hòa lượng lớn VND đưa ra mua ngoại tệ, phần lớn trong nửa đầu năm nay, thay vì bơm thì Ngân hàng Nhà nước lại phải liên tục hút bớt  lượng lớn tiền về, mà phải đến đầu tháng 6 vừa qua nguồn này mới dần trở lại thị trường. Rồi từ đó đến nay, van trên OMO cũng gần như không bơm ra “giọt” nào thay vì liên tục như hồi 2009.

Nguồn vốn hệ thống ngân hàng dồi dào hay khô hạn là trạng thái để xem xét bơm tiền. Trạng thái này phản ánh lên lãi suất. Năm 2009, lãi suất huy động VND có kiểu kẻ thẳng các kỳ hạn trên 10% [do cơ chế áp trần]. Hiện nay thì phần lớn đã rút xuống dưới 6,5%/năm; lãi suất liên ngân hàng đang duy trì đáy lịch sử gần 0% qua đêm và các kỳ hạn ngắn…

Một trong những khác biệt lớn nhất là sức hấp thụ vốn. 2009 bơm tiền càng nhiều càng… thiếu, khi thanh khoản và lãi suất dồn căng lên cuối năm; và như trên, cung tiền và tín dụng tăng tới 28,99% và 37,53%. Còn nay, đã nửa năm trôi qua tăng trưởng cung tiền và tín dụng vẫn loay hoay quanh 3%, mà một nguyên nhân chính là cầu yếu, sức hấp thụ vốn hạn chế.

Liên quan đến tín dụng và bơm tiền, khác biệt lớn nữa là cơ chế, giới hạn bởi các hàng rào pháp lý đã được thiết lập lại, với những khung khổ mới, chặt chẽ hơn. Ví dụ như, bơm tiền trước đây có đòn bẩy tín dụng kê từ hàng trăm tấn vàng thì nay đã loại trừ…

Tuy vậy, trước vấn đề Thủ tướng Chính phủ đặt ra nói trên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa qua cũng đã gợi mở hướng xem xét giải pháp mạnh, nếu cần, bơm tiền qua tái cấp vốn các dự án trọng điểm. Theo đó, hoạt động bơm tiền năm nay có thể sẽ thể hiện rõ hơn về lượng vào nửa cuối năm.

Tất nhiên, bơm tiền năm 2020 không chỉ riêng ở chính sách tiền tệ. Hiện Chính phủ cũng đang ráo riết thúc đẩy, để làm sao bơm được tiền ra ở kênh giải ngân đầu tư công, với quy mô lên tới 700.000 tỷ đồng mà nửa đầu năm mới chỉ thực hiện được khoảng 33%.

Ghi nhận trên thị trường ngày hôm qua [30/12], Ngân hàng Nhà nước bơm ròng lượng tiền đáng kể thông qua nghiệp vụ thị trường mở [OMO].

Trước đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì hoạt động chào thầu OMO với quy mô 5.000 tỷ đồng mỗi phiên, kỳ hạn 14 ngày và hầu như không có ngân hàng thương mại nào tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ này.

Sang đầu tuần này, mặc dù đã có vài tổ chức tín dụng tiếp cận, nhưng giá trị vay không đáng kể, đến cuối phiên 29/12 chỉ dừng ở mức 113,21 tỷ đồng. Và đến phiên hôm qua, đã xuất hiện giao dịch 449,2 tỷ đồng. Qua đó nâng khối lượng lưu hành trên kênh OMO lên 562,45 tỷ đồng.

Hiện đang là mùa cao điểm cuối năm, hệ thống ngân hàng thường có nhu cầu cao về thanh khoản tạm thời, trạng thái này sẽ kéo dài đến hết Tết Nguyên đán. Những năm trước, quy mô Ngân hàng Nhà nước bơm hỗ trợ thanh khoản có khi lên tới cả trăm nghìn tỷ đồng. Như vậy, nếu chỉ xét theo tính mùa vụ, giao dịch trên chưa quá nổi bật.

Tuy nhiên, nếu xét vào mức lãi suất cho vay lại thấy điểm đáng chú ý. Bởi lẽ, thông thường lãi suất liên ngân hàng vọt qua mức lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước cho vay thì các giao dịch này mới xuất hiện. Hiểu đơn giản, các tổ chức tín dụng vay mượn nhau trước với lãi suất rẻ, chỉ khi nào lãi suất cao quá mới sử dụng đến vốn từ nhà điều hành. 

Lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn ngày 29/12 so với ngày 28/12

Thế nhưng, như đã nói, một số tổ chức tín dụng đang phải tiếp cận nguồn hỗ trợ qua OMO với lãi suất cao. Mức lãi suất phải trả ở đây lên tới 2,5%/năm, ứng với kỳ hạn 14 ngày. Trong khi đó lãi suất VND giao dịch trên thị trường liên ngân hàng kỳ hạn 2 tuần bình quân hiện vẫn dưới 1,9%/năm, biến động không quá nhiều; hay như lãi suất huy động VND kỳ hạn 14 ngày đối với khách hàng cá nhân như tại Vietcombank chỉ 0,2%/năm…

Theo giới chuyên môn nhận định, diễn biến trên là sự biểu hiện của cung cầu không tìm thấy nhau trên thị trường liên ngân hàng và đây chỉ mang tính tạm thời. Với việc lãi suất liên ngân hàng đang ở mức thấp, lượng tiền Ngân hàng Nhà nước bơm hỗ trợ thanh khoản chưa quá đột biến.

Tại diễn biến liên quan đến thanh khoản, số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến ngày 24/12/2021, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt 12,97%, bứt tốc khá nhanh so với mức 10,1% của ngày 25/11. Tương đương các ngân hàng thương mại đã cung ứng ra thị trường gần 300.000 tỷ đồng trong hơn 1 tháng.

Hạ lãi suất tiền gửi xuống 9%/năm, thành lập công ty mua bán nợ nhà nước mua số nợ 100 nghìn tỷ đồng...Đó là những giải pháp được đưa ra tại cuộc họp nhóm 14 ngân hàng lớn nhất hệ thống, nhằm tìm cách đưa vốn vào nền kinh tế do Ngân hàng Nhà nước chủ trì vào sáng 31/5.

Ngân hàng đẹp như… tranh!

Tính đến 29/5, theo cập nhật từ bản tin “Thị trường tiền tệ ngoại hối” của một ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất, hệ thống hệ thống ngân hàng vẫn đang nhuốm một màu hồng đẹp đẽ. Cụ thể, nguồn cung tiền đồng trên thị trường tiếp tục dồi dào, kéo theo sự mất cân đối khi cung lớn hơn cầu. Các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng chỉ còn các kỳ hạn ngắn qua đêm và 2 tuần trong khi các kỳ hạn dài từ 1 tháng trở lên gần như biến mất khỏi hệ thống.Lãi suất thị trường 2 vô cùng thấp, kỳ hạn qua đêm đến 1 tuần phổ biến ở mức 1,5%/năm, từ 2 - 3 tuần chỉ còn 2% - 3%/năm trong khi 1 tháng là 4%/năm.Trong ngày 29/5, Ngân hàng Nhà nước đã đẩy vào thị trường qua nghiệp vụ OMO 821 tỷ đồng nhưng hút về 402 tỷ đồng, bơm ròng 419 tỷ đồng.Sự chênh lệch lãi suất giữa “đô” và “đồng” và một số yếu tố trợ lực khác tiếp tục kích thích những ai còn nắm giữ ngoại tệ bán ra, bồi đắp thêm nguồn cung trên thị trường, kéo theo lãi suất USD ổn định kể từ 19/3 đến nay. Lãi suất USD kỳ hạn qua đêm đến 1 tuần ở mức 0,5% - 1,2%/năm; 2 tuần - 1 tháng là 1,2% - 2,2%/năm, kỳ hạn 3 tháng chỉ 2,2% - 2,7%/năm.Cũng trong ngày 29/5, thị trường chứng kiến phiên giao dịch ngoại tệ khá sôi động với khối lượng 300 triệu USD mua vào và 350 triệu USD bán ra; tỷ giá chỉ duy trì sự ổn định như nhiều tháng trước đó.Đối với thị trường trái phiếu, không khí giao dịch tiếp tục trầm lắng vì các nhà đầu tư đang chờ đợi và nghe ngóng. Bởi thế, các kỳ hạn 2 năm - 3 năm - 5 năm, lãi suất lần lượt là 8,99% - 9,08% - 9,43%/năm. Thị trường ghi nhận kết quả phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm - 3 năm - 5 năm - 10 năm do Kho bạc Nhà nước phát hành đối với kỳ hạn ngắn 2 năm và 5 năm đã giảm 5 điểm cơ bản so với phiên đấu thầu ngày 11/5 trong khi khối lượng trúng thầu thấp. Cụ thể: kỳ hạn 2 năm gọi 2.000 tỷ đồng nhưng chỉ trúng thầu 1.100 tỷ đồng, kỳ hạn 3 năm gọi 3.000 tỷ đồng nhưng trúng thầu 1.350 tỷ đồng; 5 năm: gọi 3.000 tỷ đồng nhưng chỉ trúng thầu 8.00 tỷ đồng…Với những yếu tố trên, có thể nói hệ thống ngân hàng, ngoại trừ “mươi” ngân hàng trong diện “ốm yếu” đã bị khoanh vùng và “trị bệnh”, rất khó gây nhiễu thị trường như mong muốn của Ngân hàng Nhà nước thì phần còn lại, đặc biệt là nhóm 14 ngân hàng lớn nhất hệ thống, tạm gọi là “G14” sở hữu nhiều chỉ số đẹp như trong tranh mà đầu tiên là sự dư thừa thanh khoản như nói trên.Điều này không chỉ được minh chứng qua lãi suất, qua cung cầu vốn trên thị trường 2 mà còn từ con số do Ngân hàng Nhà nước công bố tại cuộc họp “G14”: tính đến hết tháng 5/2012, số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước đã vượt lên so với mức quy định tới 40 nghìn tỷ đồng!Tiếp đó, quan sát diễn biến tỷ giá và xa hơn là sự cân bằng cán cân thanh toán tổng thể, cho thấy xu hướng ổn định vẫn tiếp tục và nhiều nhà phân tích dự báo rằng, triển vọng này vẫn được duy trì thêm một thời gian dài.Đối với thị trường vàng dù vẫn chênh lệch cao hơn so với giá vàng thế giới khoảng 2 triệu đồng/lượng nhưng sự “tác oai, tác quái” của chúng đối với thị trường ngoại tệ gần như không còn.Nhưng hệ thống ngân hàng đẹp để làm gì khi mà tại cuộc họp “G14” diễn ra sáng 31/5, một con số được nhà điều hành cho biết là tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống vẫn âm 0,2% so với 31/12/2011?

Tăng tín dụng bằng cách nào?

Tại cuộc họp “G14” nói trên, nhằm mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng như mục tiêu Chính phủ đã đặt ra, Ngân hàng Nhà nước đưa ra một số giải pháp tương đối quyết liệt.Thứ nhất, sẽ điều chỉnh trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn xuống còn 9%/năm và có thể đây là lần điều chỉnh cuối cùng từ nay đến hết năm trong khi đối với trần lãi suất tiền vay, có thể được ấn định ở mức 12% - 13%/năm. Điểm khác biệt ở đây là lãi suất tiền gửi chỉ áp dụng với kỳ hạn ngắn [dưới 1 năm], còn trung và dài hạn cho phép ngân hàng thương mại tự thỏa thuận với khách hàng.Tuy nhiên, điều này khó tránh khỏi tình trạng lách luật vì thiếu chế tài. Những ngân hàng nhỏ thiếu thanh khoản, có thể biến những khoản tiền gửi ngắn hạn sang trung, dài hạn để hút vốn và đó là tiền đề cho sự lộn xộn trên thị trường mà Ngân hàng Nhà nước đã bỏ nhiều công sức để dẹp bỏ lâu nay. Nhất là khi số ngân hàng này hầu như không thể vay vốn trên thị trường 2 do bị mất niềm tin dù lãi suất ở mức rất thấp như nói trên.Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tái cấp vốn cho các lĩnh vực ưu tiên như “tam nông” và một số lĩnh vực khác.Thứ ba, yêu cầu tổ chức tín dụng điều chỉnh lãi suất cho vay đối với những hợp đồng cũ để giảm tải chi phí cho khách hàng; điều kiện cho vay không nên quá chặt chẽ nhưng vẫn đảm bảo chuẩn tín dụng.Thứ tư, để giải bài toán nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước dự kiến thành lập công ty mua bán nợ với số nợ mua có thể lên tới 100 nghìn tỷ đồng. Mục đích của giải pháp này nhằm lành mạnh hóa bảng cân đối tài sản của các ngân hàng thương mại cũng như của doanh nghiệp và nhờ đó, ngân hàng sẽ đẩy mạnh tín dụng vào nền kinh tế, tháo gỡ sự ngưng trệ lưu chuyển dòng vốn giữa ngân hàng và doanh nghiệp.Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước có thể trình Chính phủ thành lập quỹ hỗ trợ cho vay đối với những đối tượng thu nhập trung bình để họ mua nhà ở. Khả năng này một mặt nhằm giải tỏa một lượng lớn tài sản là bất động sản đang nằm bất động, mặt khác, góp phần ổn định an sinh xã hội.Có thể những giải pháp Ngân hàng Nhà nước đưa ra sẽ dần từng bước khơi thông lại dòng vốn từ ngân hàng và doanh nghiệp, nhưng chúng có phải là giải pháp căn cơ và điều căn bản là có thiết lập trở lại niềm tin nơi thị trường hay không, thì vẫn còn phải chờ.Giám đốc chi nhánh một ngân hàng thương mại lớn tại Hà Nội nói: “Trước đây, chỉ vài cú điện thoại là tiền cứ thế mà đi đến, nhưng bây giờ, các giao dịch giữa ngân hàng với ngân hàng; giữa doanh nghiệp với nhau hầu như không còn niềm tin mà dựa vào “bạc mặt”!”. Theo ông, khái niệm “bạc mặt” chính là “tiền mặt” nhưng cũng ẩn ý rằng, sự đình đốn sản xuất, niềm tin bị mai một đang làm cho cả ngân hàng và doanh nghiệp bạc cả mặt!

Cũng có chuyên gia cho rằng, các giải pháp Ngân hàng Nhà nước đưa ra là rất cần thiết nhưng mới là giải pháp mang tính tình thế. Điều cốt yếu nhất hiện nay là xác lập niềm tin cho thị trường. Chừng nào niềm tin chưa được xác lập thì các lực lượng kinh tế của thị trường vẫn tiếp tục bất động và tất nhiên: dù dễ trăm lần nhưng không dân, cũng đành chịu!

Video liên quan

Chủ Đề