Bộ phận tư bản nào mà trong quá trình sản xuất không làm thay đổi lượng giá trị của nó?

Việc xác định đúng vai trò của con người, phát huy và khai thác nguồn lực con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng để chúng ta thực hiện các mục tiêu mà Đại hội lần thứ XIII đề ra, phấn đấu đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập cao.

[Ảnh minh họa]

Học thuyết Giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong hệ thống học thuyết của C.Mác đã chứng minh, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.

C. Mác đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa [TBCN], đến nay học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên giá trị, nhưng có nhiều luận điệu của các học giả tư sản, những người bảo vệ cho lợi ích của CNTB cho rằng: Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ phát triển, máy móc hiện đại, rôbốt tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao, thu được nhiều lợi nhuận Luận điệu này cho rằng: CNTB có chăng chỉ bóc lột “máy móc” chứ không bóc lột “con người”, đặc biệt nó có vẻ “thuyết phục” khi được dẫn chứng bằng thực tế của quá trình ứng dụng KHCN vào trong quá trình sản xuất, dẫn đến nhiều người nhầm tưởng: máy móc tạo ra giá trị thặng dư, lợi nhuận, chứ không phải do công nhân tạo ra, nên không có chuyện chủ tư bản bóc lột công nhân. Luận điệu này đã che đậy bản chất bóc lột của nền sản xuất TBCN, của các chủ tư bản, chủ doanh nghiệp. Hơn nữa, CNTB hiện đại ngày nay có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và ổn định xã hội. Cụ thể như: công nhân được sở hữu cổ phần, cổ phiếu, được tham gia vào các vị trí quản lý nhất định… nên có mức sống “trung lưu” nên cho rằng không có sự phân biệt “chủ - thợ”, không ai bóc lột ai… dẫn đến sự chấp nhận cuộc sống và thủ tiêu ý chí đấu tranh đòi hỏi các quyền và lợi ích chính đáng có được từ thành quả lao động của mình. Nhưng thực tế đã không phủ định được sự giàu có của các chủ tư bản, sự giàu có đó chính là do kết quả lao động của người lao động tạo ra. Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra bản chất nhà nước tư sản và việc phân phối lợi ích trong CNTB: “Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”[1].

Những luận điệu trên hoàn toàn không đúng vì những lý do sau:

Những doanh nghiệp áp dụng máy móc hiện đại, đem lại năng suất lao động cao nên sẽ có giá trị hàng hóa cá biệt của doanh nghiệp thấp hơn giá trị hàng hóa của thị trường nên thu được nhiều lợi nhuận, điều này gây ra sự hiểu lầm là máy móc cũng tạo ra lợi nhuận.Không phân biệt được vai trò của máy móc trong quá trình sản xuất. Máy móc cho dù có hiện đại như thế nào thì nó vẫn tham gia quá trình sản xuất với tư cách là tư liệu lao động, là phương tiện để tạo ra giá trị sử dụng. Máy móc bộ phận của tư bản bất biến và giá trị của nó được chuyển dịch sang sản phẩm mới theo con đường khấu hao chứ không làm thêm giá trị mới.

Hơn nữa, máy móc dù tiên tiến, hiện đại đến đâu đi nữa thì nó vẫn do con người chế tạo, vận hành, điều khiển. Nếu tách khỏi lao động sống thì thì máy móc cũng không hoạt động được và không thể chuyển được giá trị của nó vào sản phẩm mới.

Xem xét quá trình sản xuất theo “chuỗi giá trị”, từ khi đưa các yếu tố đầu vào [TLSX], tiến hàng sản xuất và đến khi trở thành hàng hóa trên thị trường thì có vô số khâu lao động, sản xuất. Máy móc cho dù có tự động hóa cũng chỉ đảm nhận ở một số khâu cụ thể, máy móc không thể thay thế được hoàn toàn được lao động sống của công nhân. Nếu như máy móc hoàn toàn thay thế được thì đại dịch Covid- 19 lại không gây đình trệ sản xuất, suy thoái kinh tế. Không bỗng dưng các nhà tư bản bỏ tiền ra tiêm vacxin miễn phí, phòng chống dịch – mà đây chính là cách để đảm bảo được động ngũ lao động để duy trì cho quá trình sản xuất của các nhà tư bản.

Nắm rõ được nguồn gốc của giá trị, giá trị thặng dư, lợi nhuận là do lao động sống, sức lao động của con người tạo ra trong quá trình lao động sản xuất giúp chúng ta có sự nhìn nhận, đánh giá đúng các quan hệ kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay. Từ đó, đề ra các phương hướng để khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước, đặc biệt là nguồn nhân lực vào quá trình phát triển kinh tế thị trường [KTTT] định hướng xã hội chủ nghĩa [XHCN] nhằm thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Để phát huy các nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó, nguồn nhân lực đóng vai trò chủ thể, đặc biệt yêu cầu của quá trình sản xuất ngày càng cao gắn với nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nên phải tập trung phát triển nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao. Do đó, cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, công tác giáo dục - đào tạo luôn phải đặt lên “quốc sách hàng đầu”, cần đa dạng hóa học tập nâng cao trình độ, tri thức, giáo dục theo cả chiều rộng và chiều sâu, bên cạnh đào tạo chuyên sâu, cần thúc đẩy xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Làm tốt công tác quy hoạch, định hướng và phân luồng trong giáo dục – đào tạo để tạo tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phát triển nguồn nhân lực cũng được Đảng ta cũng xác định là khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục”[2]

Hai là, để đảm bảo kinh tế phát triển nhanh, bền vững, phát huy được mọi nguồn lực cho sự phát triển, hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong quá trình phát triển đất nước cần phải hoàn thiện thể chế và cụ thể hóa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, doanh nghiệp, người lao động trong các hoạt động kinh tế, nhà nước cần nhanh chóng ban hành các thể chế, hoàn thiện pháp luật để mọi hoạt động đều được điều chỉnh bằng pháp luật nhằm tạo ra động lực để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; mặt khác giải quyết việc làm cho người lao động, đảm bảo quyền lợi ích chính đáng cho người lao động. Do đó, Đảng ta cũng xác định cần phải “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [3].

Ba là, để ngày càng nâng cao sức sản xuất cần đẩy mạnh ứng dụng KHCN, máy móc, trang thiết bị hiện đại vào quá trình sản xuất. Do đó, cần phải đầu tư phát triển kết cấu vật chất, kỹ thuật, ngày càng hiện đại thì mới có thể đáp ứng được những yêu cầu cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Đảng ta xác định một trong những trong khâu đột phá đó là: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về KT và XH… chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số” [4].

Tóm lại, làm rõ bản chất của quá trình tạo ra giá trị và giá trị thặng dư [lợi nhuận], đây là cơ sở để chúng ta thấy được vị trí và vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất cũng như phát triển kinh tế - xã hội. Việc xác định đúng vai trò của con người, phát huy và khai thác nguồn lực con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng để chúng ta thực hiện các mục tiêu mà Đại hội lần thứ XIII đề ra, phấn đấu đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập cao.

ThS. Vương Mạnh Toàn

Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở, Trường Chính trị tỉnh

----------------------

[1] GS, TS, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, //nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/

[2] [3] [4] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

Phó Trưởng Khoa lý luận cơ sở

Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng”, những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, được bổ sung, phát triển trong bối cảnh mới. Nội dung này, được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học cấp Nhà nước với chủ đề: “Học thuyết giá trị thăng dư của chủ nghĩa Mác-Lênin: Những giá trị cốt lõi, những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, sự bổ sung, phát triển trong bối cảnh mới”. C. Mác - Nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, nhằm vạch rõ nguồn gốc và bản chất của nó, từ đó vạch rõ bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, v.v… Sau gần 2 thế kỷ, C.Mác đã phát minh ra học thuyết giá trị thặng dư, nhờ đó tìm ra và nhận thức rõ quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi bất công xã hội, triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người.

Tuy nhiên, ở đây, người viết chỉ tập trung bàn về việc máy móc hiện đại trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản như những luận điệu xuyên tạc và phủ nhận của các thế lực thù địch về vai trò lịch sử của Học thuyết. Người ta cho rằng, trước kia chỉ có công nhân “sản xuất” mới tạo ra giá trị gia tăng, bây giờ “chính tri thức chứ không phải lao động mới là nguồn gốc của giá trị thặng dư”. Trong đó, máy móc là thứ tạo ra giá trị thặng dư chứ không phải sức lao động của con người tạo ra.

Vì vậy, tư bản ngày nay không còn bóc lột giá trị thăng dư, nếu có thì chủ nghĩa tư bản chỉ còn bóc lột “người máy”. Vì trong các xí nghiệp hiện đại, tự động hóa, quá trình sản xuất ra sản phẩm không cần hoặc cần rất ít lao động sống, nhưng giá trị do các xí nghiệp này tạo ra tăng gấp bội so với các xí nghiệp cổ điển dùng rất nhiều công nhân, v.v. Trong thực tế, đời sống công nhân có nâng lên do thu nhập cũng tăng thông qua việc tham gia cổ phần trong các nhà máy, xí nghiệp tư bản.

Các nhà kinh tế học tư sản trước đây và hiện nay hay cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Nên họ ngộ nhận tư bản là “vật” và tư bản là một phạm trù vĩnh viễn. Thực ra, bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Như vậy, tư bản không phải là một vật mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người trong quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.

Vì vậy, chúng ta cần bàn thêm về tư liệu sản xuất [máy móc, trang thiết bị, nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất] được C. Mác kí hiệu là C gồm có C1 và C2. Nó có đặc điểm là trong quá trình sản xuất, giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm. Nghĩa là bản thân nó không tự tạo ra một lượng giá trị mới trong đó có giá trị thăng dự, khác với quan điểm tư sản cho rằng mọi tư liệu sản xuất đều tạo ra giá trị thặng nên tư bản không bóc lột sức lao động, vì nó do máy móc tạo ra. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn dưới hình thức giá trị sử dụng mới. Hàng hóa máy móc, nguyên nhiên vật liệu ban đầu được mua trên thị trường còn dưới dạng đầu vào của quá trình sản xuất. Khi đưa vào sản xuất hàng hóa tiêu dùng, thì chúng biến đổi thành một sản phẩm mới phục vụ cho tiêu dùng. Và hàng hóa này khi đi vào tiêu dùng thì người tiêu dùng chỉ sử dụng giá trị sử dụng của chúng [giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa].

Ví dụ, trang bị 2 máy vi tính hiện đại nhất hiện nay cho 2 lao động có trình độ công nghệ thông tin khác nhau, thì kết quả năng suất lao động sẽ khác nhau. Nghĩa là người có trình độ và thành thạo việc sử dụng máy tính cao sẽ cho năng suất lao động cao. Ngược lại, người có trình thấp, việc sử dụng máy tính chưa thành thạo thì năng suất lao động sẽ thấp. Điều đó đã chứng minh năng suất lao động là do sức lao động của con người tạo ra trên cơ sở quyết định của trình độ tay nghề. Máy móc chính là yếu tố của quá trình lao động, là phương tiện giúp con người tạo ra năng suất, chứ máy móc không quyết định việc tạo ra năng suất lao động.

Cho nên có thể khẳng định, tư bản bất biến [máy móc, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu] không tạo ra giá trị thăng dư, nó là điều kiện cần thiết để cho quá trình sản xuất giá trị thặng dư được diễn ra. Nguồn gốc tạo giá trị thặng là sức lao động của người làm thuê.

Vậy, sức lao động được biểu hiện như thế nào? Có tham gia gì vào quá trình sản xuất giá trị thặng dự. Tư bản khả biến là một bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động [trả lương, thuê mướn công nhân], đại lượng của nó thay đổi trong quá trình sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư và ký hiệu là v. Tư bản khả biến có thể tạo ra sự biến đổi về giá trị, có vai trò quyết định trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dự, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

Để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước một tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong quá trình sản xuất, giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, lượng giá trị của chúng không đổi. Bộ phận tư bản ấy được gọi là tư bản bất biến. Nhưng đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì trong quá trình sản xuất, bằng lao động trừu tượng của mình, người công nhân tạo ra một giá trị mới không chỉ bù đắp đủ giá trị sức lao động của công nhân mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng và được gọi là tư bản khả biến.

Ngày nay, với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [CMCN 4.0], lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão đã tiến mạnh vào các ngành sản xuất vật chất của xã hội; của cải vật chất tạo ra thật nhiều đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng cho con người. Điều đó làm cho con người dễ nhầm tưởng máy móc trực tiếp và quyết định tạo ra năng suất, cũng đồng tạo ra giá trị thặng dư, nên tư bản ngày nay không còn bóc lột công nhân làm thuê.

Chính vì lẽ đó, các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật, đặc biệt là đòi xét lại học thuyết Mác nói chung, cụ thể là học thuyết về giá trị thăng dư, họ cho rằng nó không còn đúng, đã lạc hậu, lỗi thời. Có chăng Học thuyết chỉ đúng trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, ngày nay đã chấm dứt vai trò lịch sử của nó. Đây là những quan điểm sai trái, thiếu tính khoa học, tính thực tiễn, thậm chí phản động, phản cách mạng.

Bản thân sản xuất giá trị thăng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Nghĩa là ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sự tồn tại của giá trị thăng dư. Giá trị thăng dư là cơ sở tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản, không những phản ánh mục đích mà cả phương pháp, thủ đoạn và phương tiện để đạt mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Về mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng và cũng không phải vì sản xuất ra giá trị nói chung, mà sản xuất ra giá trị thặng dư. Đối với tất cả nhà tư bản, giá trị thăng dư càng nhiều càng tốt.

Về phương pháp và thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để có giá trị thặng dư ngày càng lớn là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao động. Phương tiện để đạt được mục đích trên là ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất trên cơ sở hình thành và phát triển nền đại công nghiệp cơ khí. Do vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó là một bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản, là lao động không công của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Tóm lại, do sự tác động của quy luật giá trị thặng dư nên sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức mâu thuẫn đối kháng. Sự tác động của quy luật này làm cho mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản và với toàn bộ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, tạo cơ sở kinh tế, xã hội quyết định địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản. 

Video liên quan

Chủ Đề