4 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
Mục lục Show
Lịch sử các cuộc Cách mạng công nghiệp và Cách mạng công nghiệp lần thứ 404/05/2017, 09:22 Nói đến cách mạng công nghiệp là nói đến sự thay đổi lớn lao mà nó mang lại trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, và xã hội. Nhìn lại lịch sử, con người đã trải qua nhiều cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn. Mỗi cuộc cách mạng đều đặc trưng bằng sự thay đổi về bản chất của sản xuất và sự thay đổi này được tạo ra bởi các đột phá của khoa học và công nghệ. Lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới được bắt đầu ở nước Anh vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, mở đầu với sự cơ giới hóa ngành dệt may. Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó gây bất tiện ở nhiều mặt. Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Phát minh này được coi là mốc mở đầu quá trình cơ giới hoá. Năm 1785, linh mục Edmund Cartwright cho ra đời một phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải. Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần. Trong thời gian này, ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784, Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt “puddling”. Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép, khắc phục được những nhược điểm của chiếc máy trước đó. Bước tiến của ngành giao thông vận tải đánh dấu bằng sự ra đời của chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước vào năm 1804. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mỹ. Năm 1807, Robert Fulton đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai Cuộc cách mạng công nghiệp thứ hai lại được khởi xướng từ cuối thế kỷ 19, kéo dài đến đầu thế kỷ 20. Một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong nền đại công nghiệp là dây chuyền sản xuất hàng loạt - áp dụng nguyên lý quản trị của F.W.Taylor (đề xuất năm 1909, ứng dụng vào thực tiễn năm 1913 - hãng Ford đi tiên phong). Các nhà khoa học đã có những phát minh lớn về những công cụ sản xuất mới: máy tính, máy tự động và hệ thống máy tự động, người máy, hệ điều khiển tự động. Các nhà sáng chế thời kỳ này cũng nghiên cứu, tạo ra những vật liệu mới như chất polymer với độ bền và sức chịu nhiệt cao, được sử dụng rộng rãi trong đời sống, và trong các ngành công nghiệp. Trong thời gian này, những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú và vô tận như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng thủy triều… cũng được tìm ra để thay thế cho nguồn năng lượng cũ. Những tiến bộ thần kì trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc như máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ cao và những phương tiện thông tin liên lạc, phát sóng vô tuyến qua hệ thống vệ tinh nhân tạo, những thành tựu kỳ diệu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ như phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của trái đất, bay vào vũ trụ và đặt chân lên mặt trăng là những thành tựu đi vào lịch sử của cuộc cách mạng công nghiệp lần hai này. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp với những tiến bộ nhảy vọt trong cơ khí hóa, thủy lợi hóa, phương pháp lai tạo giống, chống sâu bệnh… giúp nhiều nước có thể khắc phục nạn thiếu lương thực, đói ăn kéo dài. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 diễn ra vào những năm 1970 với sự ra đời của sản xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và Internet, tạo nên một thế giới kết nối. Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và số hoá vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Cho đến cuối thế kỷ 20, quá trình này cơ bản hoàn thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet… là những công nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng là từ cuộc cách mạng này. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư Năm 2013, một từ khóa mới là “Công nghiệp 4.0” bắt đầu nổi lên xuất phát từ một báo cáo của chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Đây được gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều ứng dụng trong xã hội. Nhờ công nghệ AI, người máy làm việc càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, trong khi khả năng đó ở con người càng già càng yếu đi. Trong lĩnh vực Giao thông, thế hệ xe không người lái sẽ phát triển nhờ đảm bảo an toàn cao gấp nhiều lần vì không có tình trạng say rượu bia, vượt đèn đỏ, phóng nhanh vượt ẩu. Hồi tháng 8/2016, người đàn ông Mỹ đang sử dụng xe tự lái của Tesla thì có triệu chứng đau tức ngực. Ông đã kịp thời liên hệ với vợ để gọi tới bệnh viện báo cho bác sĩ chờ đón sẵn rồi ra lệnh cho xe di chuyển tới bệnh viện. Các bác sĩ đã cấp cứu kịp thời, cứu sống người đàn ông này. Trong lĩnh vực Y tế, cỗ máy IBM Watson có biệt danh “Bác sĩ biết tuốt” có thể lướt duyệt cùng lúc hàng triệu hồ sơ bệnh án để cung cấp cho các bác sĩ những lựa chọn điều trị dựa trên bằng chứng chỉ trong vòng vài giây nhờ khả năng tổng hợp dữ liệu khổng lồ và tốc độ xử lý mạnh mẽ. “Bác sĩ biết tuốt” này còn cho phép con người tra thông tin về tình hình sức khỏe của mình. Các bác sĩ chỉ cần nhập dữ liệu người bệnh để được phân tích, so sánh với kho dữ liệu khổng lồ có sẵn và đưa ra gợi ý hướng điều trị chính xác. Trong lĩnh vực Giáo dục, công nghệ thực tế ảo sẽ thay đổi cách dạy và học. Sinh viên có thể đeo kính VR và có cảm giác như đang ngồi trong lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng kiến những trận đánh giả lập, ngắm nhìn di tích, mang lại cảm xúc và sự ghi nhớ sâu sắc, giúp bài học thấm thía hơn. Hoặc khi đào tạo nghề phi công, học viên đeo kính và thấy phía trước là cabin và học lái máy bay như thật để thực hành giúp giảm thiểu rủi ro trong quá trình bay thật. Trong tương lai, số lượng giáo viên ảo có thể nhiều hơn giáo viên thực rất nhiều. Phú Trung Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhấtCuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII, đẩu thế kỷ XIX, gắn liền với các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lẩn thứ nhất, mở đầu từ ngành dệt ở Anh, sau đó lan tỏa sang nhiều ngành sản xuất khác và tới nhiều nước khác, trước hết là Mỹ, các nước châu Âu và Nhật Bản. Mở đầu cuộc cách mạng này, nền sản xuất hàng hóa trong ngành dệt ban đầu dựa trên công nghệ thủ công giản đơn, quy mô nhỏ, lao động chân tay chuyển sang sử dụng các phương tiện cơ khí và máy móc trên quy mô lớn nhờ áp dụng các sáng chế kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp. Trong số những thành tựu kỹ thuật có ý nghĩa then chốt trong giai đoạn này trước hết phải kể đến sáng chế “thoi bay” của Giôn Kây vào năm 1733 có tác dụng tăng năng suất lao động lên gấp đôi. Năm 1764, Giôn Ha-gơ-rếp sáng chế xe kéo sợi, làm tăng năng suất gấp 8 lần. Năm 1769, Ri-sác Ác-rai cải tiến công nghệ kéo sợi bằng súc vật, sau đó là bằng sức nước Năm 1785, Ét-mun Các-rai sáng chế máy dệt vải, tăng năng suất dệt lên tới 40 lần. Năm 1784, Giêm Oát sáng chế máy hơi nước, tạo động lực cho sự phát triển máy dệt, mở đầu quá trình cơ giới hóa ngành công nghiệp dệt. Năm 1784, Hen-ry Cót tìm ra phương pháp luyện sắt từ quặng. Năm 1885, Hen-ry Bét-xen-mơ sáng chế lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép đáp ứng được về yêu cầu rất lớn khối lượng và chất lượng thép đế chế tạo máy móc thời kỳ đó. Năm 1814, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước ra đời, khai sinh hệ thống đường sắt ở châu Âu và châu Mỹ. Năm 1807, Rô-bớt Phu-tông chể tạo thành công tàu thủy chạy bằng hơi nước. Sau những bước khởi đầu ở nước Anh, cách mạng công nghiệp đã nhanh chóng lan rộng ra phạm vi thế giới và trở thành hiện tượng phổ biến đồng thời mang tính tất yếu đối với tất cả các quốc gia tư bản. Khái quát về cuộc Cách mạng Khoa học – Kỹ thuật (KHKT) hiện đạiCách mạng Khoa học – Kỹ thuật (KHKT) là một quá trình thay đổi căn bản của hệ thống kiến thức về KHKT diễn ra trong mối quan hệ khăng khít với quá trình phát triển của xã hội loài người. Cho đến nay, loài người đã trải qua hai cuộc Cách mạng KHKT. Cuộc Cách mạng KHKT gắn với cuộc Cách mạng Công nghiệp vào thế kỷ XVIII – XIX và cuộc Cách mạng KHKT hiện đại diễn ra từ năm 1940 đến nay. Hai cuộc Cách mạng KHKT đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tác động mạnh mẽ đến đời sống và kinh tế – xã hội của thế giới, đặc biệt là cuộc Cách mạng KHKT hiện đại. Cuộc Cách mạng KHKT hiện đại đã trải qua hai giai đoạn: giai đoạn I từ năm 1940 đến năm 1970 và giai đoạn II từ năm 1970 đến nay.
CÁC CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC KĨ THUẬT TRÊN THẾ GIỚI
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.75 KB, 4 trang ) CÁCH MẠNG KHOA HỌC KĨ THUẬT Năm 1687, I.Newton viết tác phẩm Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, đã hệ thống hoá những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, trong đó có ba định luật về sự chuyển động các hành tinh của Kepler, đồng thời đưa ra định luật vạn vật hấp dẫn (lực hút). Ngoài ra, ông còn có cống hiến to lớn cho ngành quang học, toán học và là người đồng thời phát minh ra phép tính vi phân cùng với Leubniz (nhưng hai nhà bác học hoàn toàn nghiên cứu độc lập, không hề trao đổi gì trong quá trình sáng tạo). Được chứng kiến sự thay đổi ngoạn mục của tri thức khoa học đương thời khiến Descartes không tin vào những gì đã biết. Ông nghi ngờ tất cả! Còn những thành tựu khoa học to lớn kia, trong đó có phần đóng góp đáng kể trí lực của ông thì sao? Chẳng lẽ lý trí của con người lại bất lực, không thể nhận thức chân lý ? Ông bừng tỉnh, nhắc nhở rằng: “Chúng ta phải tin vào lý trí của chúng ta”. Và ông tiếp tục bước lên các nấc thang của con đường khoa học, buông câu triết lý lừng danh: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”. Sang thế kỷ XVIII, những thành tựu to lớn tiếp tục nảy nở trên các lĩnh vực, đặt biệt là việc thực hiện những phản ứng nguyên tử trong hoá học, đồng thời khoa học bắt đầu có những thành tựu làm cơ sở để tìm tòi đi vào thế giới vi mô, nổi bật ở các ngành: Vật lý học, Toán học, Sinh Vật học, Hoá học… với sự cống hiến của các nhà bác học tên tuổi như: Euler, d’Alembert, Bernouli, Laplace, F.Ray, K.Linné, B.Lamark, Cuvier, Lavoisier, Galvani, Dalton… Nhưng cuộc cách mạng khoa học diễn ra vào thời điểm từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII chưa ảnh hưởng mạnh đối với kỹ thuật, phần lớn thành tựu mang tác dụng lý giải quy luật tự nhiên và cải tiến kỹ thuật của các thế kỷ trước. Những cuộc cách mạng khoa học sau này sẽ gắn chặt với kỹ thuật, nên đồng thời với cách mạng khoa học đó chính là cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng sản xuất – công nghiệp. 2. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai: Thời điểm: Đầu thế kỷ XVIII - Nửa đầu thế kỷ XIX Phạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ. Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ. Các lĩnh vực: Giao thông - vận tải, thông tin – liên lạc, sản xuất công nghiệp… Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, hệ thống khoa học cơ bản cổ điển đã được xác lập, hoàn thành cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất trong lịch sử xã hội loài người, là tiền đề trực tiếp mở ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Đây cũng đồng thời là cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ ở Tây Âu. Những thành tựu có ý nghĩa như máy hơi nước (1712, do công của New Comen, người Anh), được James Wat hoàn thiện thành động cơ chạy bằng than và nước (năm 1784). Năm 1764, James Hargrever phát minh ra máy kéo sợi và năm 1785 Exmon Carryter sáng chế ra máy dệt, đưa năng suất tăng lên gấp 39 lần. Ngành luyện kim cũng mở ra chương mới khi Abraham Dary lần đầu tiên dùng than cốc để nấu gang (1709), sau đó, hai cha con ông đã đưa nó vào sản xuất công nghiệp (1735). Đến 1784, Henry Cart và Onios đã luyện gang thành thép, một loại hợp kim cực kỳ quan trọng trong nền đại công nghiệp sắp sửa ló rạng. Trong lĩnh vực giao thông liên lạc, tàu hơi nước vượt đại dương đi vào hoạt động (1815), trọng tải đạt hàng ngàn tấn. Năm 1814, Stephenson chế tạo tàu hoả chạy bằng hơi nước và sau đó tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng nối liền Darlington với Stockton ở nước Anh (1825). Đến 1858, thế giới đã có 40.000 km đường sắt, trong đó Mỹ chiếm 40%. Phát minh ra điện báo (1832 – 1835) của Samuel Mores cũng mang một ý nghĩa lịch sử cho sự ra đời của ngành thông tin liên lạc trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển ào ạt. Năm 1851 đã có cáp quang qua biển Manche và đường cáp qua Đại Tây Dương. Những thành tựu trên (trong thế kỷ XVIII) có ý nghĩa bước ngoặt trong các lĩnh vực mà khoa học gắn với kỹ thuật làm biến đổi ngành dệt may, giao thông, thông tin liên lạc, luyện kim, chế tạo máy… Từ đó hình thành nên hệ thống kỹ thuật mới dựa trên máy hơi nước, than đá và sắt thép thay thế cho hệ thống kỹ thuật trước đó chủ yếu dựa vào cơ bắp, sức nước và sức của động vật. Sang thế kỷ XIX, những thành tựu đó tiếp tục được cải tiến, cùng với sự ra đời các phương tiện và công cụ sản xuất mới, tạo ra hệ thống máy móc ứng dụng vào sản xuất và đời sống, định hình nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa và xã hội công nghiệp ở các nước Anh, Pháp, Mỹ và sau này là hàng loạt các nước Tây Âu. Từ đây, xã hội công nghiệp đã thật sự trở thành một dòng chảy mới của nền văn minh, gõ cửa xông vào các quốc gia – dân tộc đang ở trong tình trạng tiền công nghiệp. 3. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ ba: Thời điểm: Cuối thế kỷ XIX - Nửa đầu thế kỷ XX Phạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á. Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản. Các lĩnh vực: Chế tạo máy, giao thông – liên lạc, vật liệu, năng lượng… Khi hệ thống kỹ thuật dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép truyền thống đã tận dụng hết công suất của mình, nền công nghiệp muốn nhảy vọt thì phải cần đến một hệ thống kỹ thuật mới hiệu quả hơn, thôi thúc các ngành khoa học – kỹ thuật sáng tạo nên những thành tựu thật xứng đáng trước các yêu cầu cháy bỏng từ công cuộc phát triển chung của xã hội loài người – yêu cầu công nghiệp hoá, xây dựng hình mẫu xã hội công nghiệp phát triển. Cái gì cần sáng tạo đã được sáng tạo: Năm 1862, Jean Leneir chế được xe chạy bằng động cơ đốt trong; năm 1869, G.T.Grammer chế ra máy phát điện một chiều dyamo, sau đó là máy phát điện xoay chiều (1877); A.G.Bell phát minh ra máy điện thoại (1876), sau đó G.Marconi đã phát triển để liên lạc bằng sóng điện từ giữa hai bờ biển Manche (1897); năm 1878 – 1879, J.Suan và T.Edison phát minh ra bóng điện; năm 1895 động cơ diesel ra đời, để đến năm 1898 kỷ nguyên ô tô xuất hiện (khi lần đầu tiên loài người được biết đến cuộc triển lãm ô tô vào năm đó); năm 1903 – 1909, từ máy bay của anh em nhà Wringt (Mỹ) đến máy bay của Blériot (Pháp), đã mở ra thời đại hàng không… Ngoài ra, hàng loạt những thành tựu khác trên nhiều lĩnh vực đã hình thành nên một hệ thống ký thuật mới dựa vào điện, dầu mỏ và hợp kim thay thế cho hệ thống kỹ thuật trước đó dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép; đồng thời làm xuất hiện thêm nhiều loại máy công cụ và phương tiện, vật liệu, hoá chất… thúc đẩy sản xuất và kinh tế phát triển lên một tầm cao mới – xác lập vững chắc nền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đáng chú ý nữa, đó là việc phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của H.Becquerel (năm 1896) và của Mary Quyry (năm 1898) đã chỉ ra những khiếm khuyết lớn trong các định luật cơ bản của nền vật lý học cổ điển, đồng thời cho thấy nguyên tử không phải là thành phần nhỏ nhất và không thể chia cắt của vật chất. Cuộc khủng hoảng trong vật lý học diễn ra từ đó. Nhưng không lâu sau đã được giải quyết bởi M.Planck thông qua Thuyết Lượng tử (năm 1900), A.Einstien thông qua Thuyết Tương đối (năm 1905) và cơ học lượng tử sau đó (1925 – 1926). Một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong nền đại công nghiệp là dây chuyền sản xuất hàng loạt - áp dụng nguyên lý quản trị của F.W.Taylor (đề xuất năm 1909, ứng dụng vào thực tiễn năm 1913 – hãng Ford di tiên phong). Nhưng cũng chính từ nền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà nhân loại phải gánh chịu những hệ luỵ kinh hoàng bởi hai cuộc đại chiến thế giới (1914 – 1918 và 1939 – 1945), đồng thời làm cho đà phát triển khoa học - kỹ thuật chậm đi, mặc dù vẫn đạt được những tiến bộ to lớn như: Kỹ thuật hạt nhân, cùng nhiều phương tiện và công cụ hiện đại nhằm mục tiêu quân sự. Một khi đem chúng sử dụng vào mục đích chiến tranh thì hậu quả thật khủng khiếp. Nói tóm lại, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ ba đã đưa nhân loại lên trình độ văn minh công nghiệp, hay nói chính xác hơn, xác lập nên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại, mà biểu hiện ra là nền sản xuất công nghiệp tiên tiến, có khả năng tạo ra nguồn của cải vật chất và tinh thần đồ sộ cho nhân loại. Nhưng cái giá phải trả quá đắt: Hai cuộc đại chiến thế giới đã huỷ diệt 80 triệu con người, trong đó phải kể đến hai quả bom nguyên tử dội xuống Nagazaki và Hirosima (8/1945). Đồng thời, nó rung chuông cảnh báo về mục đích sử dụng và năng lực làm chủ các thành tựu khoa học - kỹ thuật trên con đường nhân loại đi về phía trước. *** Trên đây, chỉ là sự lược tả một số nội dung, thành tựu cơ bản về khoa học và kỹ thuật trong lịch sử, với ba giai đoạn phát triển mang tính cách mạng. Từ cuộc cách mạng lần thứ ba trở đi, khoa học ngày càng gắn liền với kỹ thuật, đồng thời khoa học - kỹ thuật nhanh chóng trở thành yếu tố của công nghệ trong sản xuất, tạo ra sự thay đổi vượt bậc trong nền sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, đưa nền kinh tế nông nghiệp bao phủ xã hội loài người hàng xưa nay lên nền kinh tế công nghiệp. Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội công nghiệp không chỉ được hình thành ở Anh, Pháp, Mỹ mà còn cả ở Liên Xô, Nhật, nhiều nước ở châu Âu. Tuy nhiên, cần phải chờ đến cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ tư, khi khoa học - kỹ thuật trở thành công nghệ, biểu hiện ra trên thực tế là cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đương đại, thì không những nền sản xuất công nghiệp biến đổi về chất, mà cả đời sống con người - trên mọi phương diện cũng biến đổi sâu sắc hơn bao giờ hết. Nền văn minh con người đang rung chuyển, thay đổi và đổi thay với tốc độ chóng mặt • Con người đã có những giải pháp hạn chế các tác động tiêu cực của cmkhkt : Cùng nhau xây dựng môi trường xanh-sạch-đẹp ở mọi nơi mọi lúc, cấm sản xuất vũ khí hạt nhân, cắt giảm các khí gây hiệu ứng nhà kính, hạn chế chất thải độc hại... bảo vệ những động vật quý hiếm đẻ bảo tồn và phát triển chophù hợp quy luật sinh tồn của tự nhiên. |