Viết bài văn cảm nhận em về bà Tú trong bài Thương vợ và liên hệ đến người phụ nữ trong gia đình em

Để làm tốt bài văn phân tích, cảm nhận vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình ảnh bà trong tác phẩm Thương vợ của Tú Xương các em cần lưu tâm đến cách lựa chọn hình ảnh, nội dung trong bài. Dưới đây là các bài mẫuphân tích hay, đặc sắc mà các em có thể sử dụng để ôn tập kiến thức và rút ra những kinh nghiệm làm văn lớp 11 tốt nhất cho mình. Mời các em cùng tham khảo.

Bạn đang xem: Cảm nhận của anh chị về hình ảnh bà tú


1. Cảm nhận về hình ảnh bà Tú trong Thương vợ

2. Phân tích hình ảnh bà Tú trong Thương vợ

3. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua bà Tú


Viết bài văn cảm nhận em về bà Tú trong bài Thương vợ và liên hệ đến người phụ nữ trong gia đình em


Trong sự nghiệp thơ ca phong phú và đa dạng của Trần Tế Xương, bài thơ “Thương vợ” được đánh giá là một trong những bài thơ hay và ý nghĩa nhất. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thực và thấm thía nhất thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự thiệt thòi, hi sinh và tần tảo của vợ. Hơn nữa, bài thơ đã vẽ nên một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp và đáng quý điển hình.

Người phụ nữ truyền thống là người luôn vun vén, chăm lo cho cuộc sống gia đình đồng thời chăm cho cho sự nghiệp và danh vị của chồng. Bà Tú cũng không ngoại lệ, nhưng cuộc sống của bà không giống như cảnh “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”. Vì cuộc sống khó khăn, vất vả mà bà phải lao mình vào guồng quay, bươn chải mua bán kiếm sống:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hình ảnh bà Tú hiện ra nhưng không phải là hình dáng, vẻ ngoài mà lại là công việc và trọng trách của bà. “Quanh năm” không chỉ nói đến độ dài của thời gian mà nó còn có nghĩa là sự vô kì hạn của thời gian, cuộc mưu sinh của bà vốn là không có hồi kết. Nơi “mom sông” cũng nói lên hoàn cảnh bấp bênh, không gian sinh tồn chông chênh, tạm bợ. Trên vai là gánh nặng cả gia đình, bởi vậy mà bà Tú phải bươn chải với đời để có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Hàm ý trong cụm từ “nuôi đủ” vừa thể hiện sự tận tụy chu đáo của bà, lại vừa thể hiện sự gồng gánh chịu đựng tài giỏi của bà. Cách nói “năm con với một chồng” của nhà thơ thể hiện sự hạ mình, ngang hàng với con, xót xa nhận mình cũng là một gánh nặng của vợ. Ca dao xưa đã rất quen thuộc với hình ảnh con cò, và Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu của ca dao trong hai câu thơ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Với hình ảnh “thân cò” tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường và làm nổi bật lên số phận của bà Tú. Nếu như “đò đông” là miêu tả tính chất bấp bênh của công việc mưu sinh thì “eo sèo” lại diễn tả chân thực sự nhốn nháo, phức tạp và nhọc nhằn trong công việc hàng ngày mà bà Tú phải chịu đựng. Không những chịu thương chịu khó, tần tảo là lam lũ, bà Tú của Trần Tế Xương còn là người phụ nữ với bổn phận vị tha, lấy sự hi sinh để làm phúc và là lẽ sống của đời mình. Nhập tâm vào thân phận nhân vật, nhà thơ đã bày tỏ hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chấp nhận, cam chịu và độ lượng với hoàn cảnh, số phận của mình:

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Hình ảnh người phụ nữ lặng lẽ yên phận, ráng sức lo toan, không có nửa lời than thân trách phận, lời kể của khổ, kể công của Tú Xương dành cho vợ dường như nặng trĩu và day dứt hơn. Những vất vả và khó khăn của bà ngày càng chồng chất bao nhiêu thì sự cam chịu và đức hi sinh của bà lại nổi bật bấy nhiêu. Hai câu thơ cuối là nỗi niềm và sự ý thức của tác giả trước nỗi nhọc nhằn vất vả của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt và sự biết ơn chân thành của nhà thơ, đồng thời bộc lộ sự bất lực trong tinh thần của người trí thức, trở thành gánh nặng trong chính gia đình của mình.

Qua bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương, chúng ta đã cảm nhận rõ hơn về hình ảnh người vợ tảo tần với những phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và giàu lòng vị tha. Bên cạnh đó từng lời thơ còn là tiếng lòng tri ân sâu nặng và nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với những vất vả gian lao mà người vợ phải vì mình gánh chịu.


Viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đã từng có rất nhiều những áng thơ văn nói lên nỗi khổ hạnh, buồn tủi của số phận nữ nhi bất hạnh, khổ đau. Nhà thơ Trần Tế Xương cũng vậy, người phụ nữ trong thơ ông không phải ai khác mà chính là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của mình. Với những tình cảm chân thành, mộc mạc, ông đã khắc họa lại hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" một cách rất chân thực và giàu cảm xúc.

Bà vừa là một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh, vừa là một người mẹ giàu lòng yêu thương. Mọi khó khăn, khổ cực trên cuộc đời này chẳng là gì so với người phụ nữ can đảm, chịu thương chịu khó ấy.

Xem thêm: Nghị Luận Chuẩn Bị Hành Trang Vào Thế Kỉ Mới, Nghị Luận Xã Hội Về Hành Trang Vào Đời (6 Mẫu)

"Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồngLặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông."

Hình ảnh một người phụ nữ tảo tần, vất vả ở mom sông - nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy, thậm chí có thể mất mạng bất cứ lúc nào - đã gợi lên bao cảm xúc cho người đọc. Trong thời buổi khó khăn, kiếm được đồng tiền rất cực khổ, nuôi được thân mình thôi đã là vất vả lắm rồi. Vậy mà bà Tú của Tế Xương còn phải "Nuôi đủ năm con với một chồng". "Đủ" không những đủ ăn mà còn đủ mặc, dù không dư giả hay cao sang nhưng cũng không thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế của câu thơ "năm con với một chồng" giống như một chiếc đòn gánh vô hình nhưng rất dài đang đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời. Bà cam chịu, hi sinh bằng tất cả tấm lòng nhân ái và yêu thương của mình. Tế Xương đã tự ví bà với "thân cò" - một hình ảnh rất đẹp, rất nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông dân lam lũ, vất vả. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại "eo sèo mặt nước buổi đò đông". Trong hai câu thơ này, tác giả đã cố tình dùng phép đảo ngữ đẩy hai từ "lặn lội", "eo sèo" lên đầu câu để nhấn mạnh thêm nữa sự vất vả, bon chen của bà Tú. Người phụ nữ ấy không những yêu chồng, thương còn mà còn rất sắc sảo, nhanh nhẹn. Vì thế bà mới có thể vững chân làm nghề buôn bán quanh năm được. Nhất là trong lúc khó khăn, ai ai cũng cố gắng hết mình để giành giật lấy từng đồng từng xu, bà Tú cũng vậy, bà cũng phải bon chen lắm, nỗ lực lắm mới có thể "nuôi đủ năm con với một chồng", cộng thêm cả bản thân bà nữa bẩy người. Một mình bà nuôi cả bẩy miệng ăn.

Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững và cam chịu tất cả:

"Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản côngCha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không."

Duyên nợ long đong lận đận, kiếp sống khổ cực, nhọc nhằn nhưng xuyên suốt cả bài thơ, không có một từ nào nói lên sự than thở, kêu than của bà Tú. Người phụ nữ ấy có tấm lòng yêu thương quá lớn. Bà đã hi sinh tất cả cho chồng cho con, hi sinh cả tuổi thanh xuân đầy khát vọng của mình. Dù "năm nắng" hay "mười mưa" bà nào có "quản công". Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình. Cũng may, trong thời ấy, dù nhiều người phụ nữ khác cũng lam lũ, cũng vất vả nhưng chẳng mấy ai được chồng cảm thông và thương xót như Bà Tú. Chỉ tiếng rằng ngoài tình thương, Tế Xương cũng không thể làm gì giúp vợ được. Thế nên, ông mới tự nhận "Có chồng hờ hững cũng như không". Bà không cần nói nhưng những việc bà làm đã khiến Tế Xương chồng bà phải khâm phục và nể trọng.

Bà là đại diện cho những người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với đức tính chịu thương chịu khó, hi sinh vất vả và giàu lòng yêu thương. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, do có quá nhiều thứ bon chen, chi phối, một số người đã không còn gìn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, cao quý ấy nữa. Họ sống vì lợi danh, sống ganh đua, chua chát. Không ít kẻ đã trà đạp lên nhau, giẫm chân lên nhau mà sống. Ai cũng vì lợi ích riêng của bản thân mình mà quên đi mất những phẩm giá tốt đẹp vốn có của con người. Chưa kể đến có những bà lười biếng, thích ăn không ngồi rồi, thích hưởng thụ, thích sai khiến người khác phải phục tùng mọi ý muốn của mình. Không mấy ai còn phải vất vả như bà Tú nhưng cũng cũng chẳng có nhiều tấm lòng giàu tình yêu thương và vị tha như vậy nữa.

Giữa thời thế xô bồ hỗn độn, hình ảnh bà Tú lại xuất hiện với những câu thơ chân thành, mộc mạc của Tế Xương như một lời động viên, khích lệ và khuyên nhủ những người phụ nữ hãy nhìn nhận lại bản thân mình, hãy cố gắng vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Đừng vì đồng tiên hay vì bất kỳ một điều gì khác mà làm mất đi danh dự và phẩm giá cao quý của mình. Mặt khác, những người chồng, người đàn ông cũng hãy cảm thông, thương yêu và quý trọng người phụ nữ của đời mình, hãy cùng nhau sẻ chia và gánh vác mọi chuyện trong gia đình, cũng như trong cuộc sống. Tế Xương thương vợ, nhưng ông không bắt tay làm cùng vợ được. Bởi đó là do thời thế lúc bấy giờ như vậy. Hơn nữa, nghề của ông là viết văn, làm thơ nên ông cũng không có thời gian để làm cùng vợ. Chỉ tiếc rằng, cái nghề của ông không mang lại nhiều tiền bạc, của cải để gánh vác gia đình, để bà Tú bớt vất vả, để thân cò ấy không phải lặn lội hay eo sèo trong những buổi đò đông.

Xem thêm: Học Sinh Có Trách Nhiệm Của Học Sinh Khi Tham Gia Giao Thông

Bài thơ đã khép lại với hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh. Bà là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ hiện đại soi lại chính mình.

Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú

  • 1. Dàn ý phân tích vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú
  • 2. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 1
  • 3. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 2
  • 4. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 3
  • 5. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 4
  • 6. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 5

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Văn mẫu lớp 11: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết được tổng hợp gồm có dàn ý và các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

1. Dàn ý phân tích vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú

1. Mở bài

Giới thiệu bài thơ Thương Vợ

Giới thiệu về hình ảnh bà Tú từ đó suy ra hình ảnh phụ nữ Việt Nam qua bài thơ

2. Thân bài

a. Người phụ nữ vất vả, lam lũ, chịu thương chịu khó.

- Hoàn cảnh của bà Tú:

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc chăm chỉ.

+ Công việc: buôn bán đầy rẫy thị phi.

+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông và có phần hơi nguy hiểm nếu không cẩn thận.

+ Một mình làm việc nuôi chồng, nuôi con: Nuôi đủ sáu miệng ăn. Từ "nuôi đủ" gợi bao nhọc nhằn.

- Công việc buôn bán lăn xả, mệt nhọc:

+"Lặn lội”: gợi vất vả đủ bề.

+“thân cò”: nỗi đau thân phận và tình cảnh éo le khi một mình nuôi chồng, nuôi con.

+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút vói rất nhiều nguy hiểm.

+ Eo sèo: chen lấn, xô đẩy, giành giật nhau trên mảnh đất mom sông vốn nguy hiểm đấy.

+ Buổi đò đông: đối mặt với đủ mệt nhọc mà không được từ bỏ vì nuôi chồng, nuôi con.

b Chăm sóc chu đáo cho chồng con, chịu phần khó nhọc về mình.

+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn cho gia đình và một mình gánh vác trách nhiệm cùng bao nhọc nhằn.

c. ý thức được số phận và tuyệt nhiên không ngần ngại hi sinh.

+ “Một duyên hai nợ”: hiểu được tình cảnh số phận và không than vãn nửa lời.

+ “dám quản công”: hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con.

Từ những ý chính trên cho thấy hình ảnh người phụ nữ Việt Nam ẩn hiện trong hình ảnh của bà Tú. Người phụ nữ Việt Nam với hình ảnh tần tảo sớm hôm, họ luôn nhận về mình những công việc nặng nhọc, chăm sóc cho cả gia đình. Họ là những người phụ nữ vất vả lam lũ, chịu thương chịu khó và không một lời ca thán. Họ không ngần ngại hi sinh cho gia đình. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành một hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú - vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

2. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 1

Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.

Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian truân khó nhọc được cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, bao đòi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không giúp vợ được gì lại còn trở thành một mối bận tấm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ làm thành một phía để cân bằng với phía năm đứa con. Thế mới biết cuộc sống hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu. Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc. Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.

Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thòi của bà Tú. Thế nhưng cũng chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp đầu tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chỉ, miệt mài, chịu thương, chịu khó, không nề hà khó khăn nguy hiểm, không quản ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ không chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu:

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông."

Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh "lặn lội thận cò", Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.

Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò đông. Tất cả đều để chu tất cho gia đình: nuôi đủ năm con với một chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.

Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một duyên hai nợ thì bà Tú vẫn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình - Năm nắng mười mưa dám quân công. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.

Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành một hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.

3. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 2

Bằng những câu thơ chân thực, mộc mạc, giản dị giàu cảm xúc, đậm chất trữ tình mà Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã nói lên được số phận của người phụ nữ xưa. Đó là những con người phải chịu nhiều nỗi khổ đau. Qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" mà Trần Tế Xương đã làm nổi bật nên được sự khổ cực vì vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bà Tú hiện lên với cuộc sống vất vả, lam lũ, gian truân, bà làm công việc chợ búa, buôn bán vất vả "quanh năm".

"Quanh năm buôn bán ở mom sông".

Cái thời gian "quanh năm" ấy gợi cho ta một cảm giác của sự liên hoàn nối tiếp của thời gian, của ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Một vòng tròn khép kín cuộc đời bà Tú. Tưởng chừng, công việc buôn bán của bà là dễ dàng và ai cũng làm được. Nhưng không, công việc của bà vất vả và nguy hiểm vì bà Tú buôn bán ở nơi "mom sông". Bà Tú còn hiện lên trong hình ảnh "thân cò", một hình ảnh đẹp trong ca dao để nói lên bà là một người phụ nữ đảm đang, vừa cho ta thấy nỗi vất vả, gian truân của bà. Đó là sự lo âu, hiểm nguy trước cái rợn ngợp của thời gian "quanh năm", và cái heo hút của không gian nơi "mom sông". "Thân cò" gợi một cảm giác nhỏ bé của bà Tú trước thời gian và không gian mênh mông, gợi nên một sự xót xa cho thân phận nhỏ bé của bà.

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông".

Hình ảnh "lặn lội thân cò" gợi cho người đọc về một cuộc sống vất vả, tần tảo, lam lũ của bà Tú nơi "quãng vắng". Hình ảnh "đò đông" nói về sự nguy hiểm trong việc đi lại, buôn bán của bà. Đó là nơi ồn ào, xô bồ cuộc sống nơi chợ búa với những tiếng kì kèo, kêu ca "eo sèo" đã gợi một nỗi đau về mặt tinh thần của bà Tú. Tất cả những hình ảnh đó làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân, một cuộc sống lam lũ, khó khăn trong cuộc đời bà. Suốt cuộc đời bà chỉ là một con người nhỏ bé mà thôi !.

Đến với thơ Hồ Xuân Hương thì người phụ nữ phải gánh chịu nỗi khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình qua bài thơ "Bánh trôi nước". Qua miêu tả chiếc bánh trôi mà tác giả đã nói lên được thân phận của người phụ nữ.

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non".

Hình ảnh người phụ nữ ẩn chứa trong chiếc bánh trôi nước "vừa trắng lại vừa tròn" nhưng phải chịu một cuộc sống trôi nổi bấp bênh "bảy nổi ba chìm". Chiếc bánh ấy có đẹp hay chăng, rắn nát chăng đi nữa thì phải phụ thuộc vào người nặn ra chiếc bánh ấy. Một chiếc bánh được nặn đẹp. xinh xắn thì không có gì phải chê, nhưng mà bị làm cho nát hình dạng xấu xí thì sao nhỉ ? Đó là do bàn tay của kẻ nặn bánh mà thành.

"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn".

Cũng như người phụ nữ, nếu gặp được bến đỗ tốt thì cuộc đời sẽ tươi đẹp, còn rơi vào tay kẻ xấu họ cũng sẽ như chiếc bánh trôi kia, bị vùi dập, tàn tạ trước sóng gió cuộc đời.

Vẫn thơ Hồ Xuân Hương, ta còn thấy người phụ nữ phải chịu khổ đau về tinh thần, vì cô quạnh, thiếu vắng tình yêu, không được yêu thương và sự đồng cảm qua bài thơ "Tự tình" (bài 2). Người nữ sĩ buồn tủi cô đơn một mình giữa cái "đêm khuya" lạnh lẽo.

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non".

"Đêm khuya" một thời gian muộn trong đêm nhưng người nữ sĩ ấy vẫn thức, ẩn chứa trong lòng là sự thao thức, thấp thỏm không yên. Không gian đêm yên tĩnh, vắng lặng mà đâu đó đã nghe tiếng "văng vẳng" từ xa vọng lại, mập mờ không rõ làm cho người nữ sĩ càng thêm bối rối trong lòng. Tiếng "trống canh dồn" gợi sự dồn dập, gấp gáp, diễn tả được bước đi của thời gian trong đêm. Tác giả sử dụng một động từ "trơ", một động từ gây cảm giác mạnh với người đọc thể hiện sự lẻ loi, vô duyên của thân phận người phụ nữ. Trơ cái gì? Đó là "cái hồng nhan" gợi một cảm giác về sự rẻ rúng, mỉa mai, nhỏ bé với không gian toàn cảnh, có tầm vóc vũ trụ "nước non". Qua đó thể hiện sự cay đắng, xót xa về thân phận, sự cô đơn, lẻ loi của nữ sĩ. Nỗi niềm của tác giả còn thể hiện ở thực cảnh bế tắc, nhân duyên không trọn vẹn.

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".

"Chén rượu hương đưa" diễn tả tâm trạng về nỗi đau thân phận, sự bế tắc quẩn quanh, tình duyên trở thành trò đùa của Tạo hóa. Rượu không thể làm cho ta vơi đi nỗi buồn vì "say" rồi lại "tỉnh". Thời gian " vầng trăng bóng xế" như gợi nhắc đến tháng năm, tuổi tác nhưng lại "khuyết chưa tròn" thể hiện sự thiếu vắng, không trọn vẹn, nỗi buồn tủi vì tuổi xuân sắp qua mà tình duyên chưa đến. Những hình ảnh buồn cô đơn nhuốm màu tâm trạng nữ thi sĩ.

Tiếp đến, họ là những con người đẹp, không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài mà họ là những phụ nữ đẹp ở phẩm chất, đức tính cao đẹp. Đó là tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng con. Bà Tú đã hi sinh hết mình vì chồng con, kiếm sống, lao động vất vả để "nuôi đủ năm con với một chồng". Bà cũng chính là chỗ dựa, là niềm tin cho chồng con. Bà cần cù chu đáo với chồng con mà không một lời ca thán, oán trách. Gánh nặng đè lên đôi vai bà là cả một trách nhiệm to lớn. Duyên số đã đưa đẩy bà gặp ông Tú nhưng đối với bà đó cũng là cái "nợ". Nợ là trách nhiệm mà bà phải trang trải, dẫu sao cũng là số phận của bà. Bà Tú cam chịu số phận, mà con Tạo đã trớ trêu trong cuộc đời bà. Bà chịu "năm nắng mười mưa" mà nào "dám quản công" để làm việc kiếm sống. Đó là sự hi sinh chịu đựng gian khổ và mất mát của bà Tú. Ở bà hiện lên một đức tính hi sinh cao cả, sự đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ.

4. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 3

Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sống,

Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.

Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.

Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.

Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.

Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú giành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!

5. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 4

Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, "Thương vợ" được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ. Quan trọng hơn từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình.

Bà Tú tên tật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia "con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ". Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương - một trí thức không gặp thời, long đong trên con đường sự nghiệp.

Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành.

Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến không gian gia đình, ở đó người vợ có vai trò quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, không còn đâu cái cảnh thơ mộng "bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ", bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời phiền tạp, dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua:

"Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng"

Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian "mom sông" vừa có giá trị tả thực - là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh.

Bà Tú phải hằng ngày xuất gia chường mặt ra với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia đình: "Nuôi đủ năm con với một chồng". Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ "nuôi đủ", nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị "năm con với một chồng". Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ.

Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:

"Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"

Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo. Với việc dùng từ "thân cò", tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh "đò đông" thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy "eo sèo" đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.

Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong "Thương vợ" của Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình.

Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh. Hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ "một duyên hai nợ", "năm nắng mười mưa" làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn.

Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần, hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa:

"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không"

"Thói đời" ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính gia đình của mình.

Có thể nói với "Thương vợ", Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.

6. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 5

Trong văn học Việt Nam thời kì trước, hình ảnh người phụ nữ đã trở nên quen thuộc trong những bài ca dao, những vần thơ bay bổng. Những người nghệ sĩ nhìn họ với sự đồng cảm, xót thương và yêu mến. Nhưng hiếm khi ca ngợi họ bằng giọng điệu của một người chồng như nhà thơ Tú Xương đã khắc họa hình ảnh vợ mình trong Thương Vợ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đầu đông

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Tú Xương là một nhà thơ hào hoa phong nhã, có một chút ngông nhưng khi là một người chồng, ông luôn hết mực yêu thương và ca ngợi vợ của mình. Mở đầu bài thơ, ông khắc họa hình ảnh tảo tần của bà Tú với công việc hàng ngày:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Một người vợ đảm đang tảo tần, với nghề buôn bán, người vợ ấy "quanh năm" ở ven sông chăm chỉ với công việc của mình. Hai từ "quanh năm" diễn tả thời gian dài đằng đẵng, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn, cứ năm này qua năm khác, bà buôn bán ở bờ sông, địa thế trắc trở, đó là một mô đất nhô ra sông, nơi những con thuyền dừng lại và diễn ra các hoạt động trao đổi buôn qua bán lại đông đúc và tạp nham. Một người phụ nữ có lẽ phải ở nhà dệt vải thuê thùa chăm sóc gia đình nhưng ngược lại bà Tú hàng ngày phải kiếm kế sinh nhai nuôi cả gia đình: "Nuôi đủ năm con với một chồng". Bà Tú không những vất vả đảm đang mà còn hết mực chăm sóc cho chồng con. Đặc biệt "năm đứa con" và "một chồng", nghe có vẻ khập khiễng nhưng đây là lối so sánh rất độc đáo và sáng tạo của tác giả khi nói về gánh nặng đang đè nặng lên đôi vai gầy của bà Tú. Vả lại, ông đặt mình bằng năm đứa con thơ là cách ông tự chế giễu chính mình, là đấng nam nhi nhưng lại là người tạo ra gánh nặng cho gia đình, cho vợ con. Bà Tú cần mẫn là thế, chỉ làm ra "nuôi đủ" chứ không thừa cũng không thiếu, sự khéo léo trong tính toán cuộc sống của người mẹ hiền ấy đã nuôi sống cả gia đình bảy người. Có lẽ "đủ" với ông Tú không phải là chăn ấm đệm êm mà còn nuôi đủ những thú vui cao sang, những lần nghe hát ả đào, uống rượu ngâm thơ,.. Chính sự hy sinh ấy khiến ông Tú vừa hổ thẹn vừa tự hào và thương xót vợ mình. Thương bà gầy gò vất vả:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đầu đông

Con cò trong ca dao xưa là biểu tượng quen thuộc cho những người nông dân cần cù chăm chỉ. Tú Xương cũng sử dụng hình ảnh này để tả thực về vợ mình. Nhưng ông có sự sáng tạo độc đáo mang đậm phong cách tác giả: "thân cò". Thân hình gầy guộc cặm cụi sớm hôm. Một chữ "thân" làm nổi bật thân phận nhỏ bé vất vả gian truân mà trong ca dao xưa cũng có câu:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Không chỉ sử dụng hình ảnh " thân cò" mà tác giả kết hợp với đảo ngữ từ láy "lặn lội" nhằm nhấn mạnh sự vất vả gian truân của bà Tú nơi mom sông buôn bán quanh năm suốt tháng. Bất kể thời gian nào ngay cả "khi quãng vắng" mở ra một không gian mênh mang rợn ngợp u ám và sự khắc khoải khôn nguôi của thời gian vũ trụ. Chính giữa không gian rộng lớn ấy là hình ảnh nhỏ bé của người phụ nữ tần tảo sớm hôm. Có khi bà Tú lại ngược xuôi giữa "buổi đò đông" , sự bận rộn của bà lại một lần nữa tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ "eo sèo" gợi sự tấp nập ồn ã nơi chợ búa đông đúc, nơi người ta vì miếng cơm manh áo mà bon chen.

Với những vần thơ tiếp , tác giả như nhập vai vào chủ thể trữ tình, mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú một mình gồng gánh trên đôi vai:

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Duyên và nợ luôn gắn liền với nhau, Có duyên mới có nợ. Thường hai chữ ấy nói đến quan hệ phu thê thời phong kiến xưa. Nó còn mang nặng lễ giáo, tư tưởng xưa. Nhưng trong thơ Tú Xương, chữ duyên và nợ không trở nên nặng nề kết hợp với các thành ngữ "năm nắng mười mưa" , "một duyên hai nợ" tạo nên tính nhạc trầm bổng, sự hàm súc cho câu thơ. Cái duyên vợ chồng, cái nợ phu thê khiến bà Tú phải "năm nắng mười mưa" suốt những năm dài tháng rộng. Các từ chỉ số lượng như "năm, mười" song hành cùng hình ảnh thiên nhiên "mưa, nắng" làm tăng sự vất vả của bà Tú- một người vợ, một người mẹ đảm đang, không bao giờ than phiền trước số phận. Chính vì thế mà ông Tú đã cất tiếng nói thay cho người vợ tần tảo của mình:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Vì tình thương và lòng biết ơn vợ, ông cất tiếng chửi đời, chửi mình. Vì xã hội trọng nam khinh nữ kia đã biến ông thành ông chồng vô tích sự. Ông không còn ẩn mình dưới những lời ca ngợi bà Tú nữa mà xuất hiện cất tiếng chửi gay gắt có phần thô cứng: " cha mẹ thói đời". Câu chửi mang tính dân giã, suồng sã nhưng ngược lại hợp với giọng thơ trào phúng của Tú Xương. Ông coi thường cái xã hội Tây Tàu Lố Lăng, nạn thi cử khiến ông trở thành gánh nặng, thành người chồng vô tích sự không gánh nổi gia đình vợ con. Sự cay đắng, phẫn uất trong lòng mình đã phát ra với tiếng cười trào phúng, với cách tự chửi mình:" có chồng hờ hững cũng như không". Hai chữ "hờ hững" là thái độ dửng dưng, coi nhẹ trách nhiệm. Một ông chồng "hờ hững" chẳng thể lo nổi cho vợ con thì có lẽ "như không". Ta thà không có còn hơn là có đấng phu quân nằm trong chăn ấm đệm êm, vợ nuôi như vậy. Nhưng trong câu thơ, tuy sự trào phúng cao độ bộc lộ qua tiếng chửi của ông Tú, chính trong lời thơ ấy ẩn chứa một tấm lòng yêu thương, kính trọng và luôn dõi theo người vợ của mình. Có lẽ đây là cách ông Tú bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với người vợ hiền tảo tần của mình.

Thi phẩm khép lại với hai câu thơ mang âm điệu day dứt, làm cho người ta phải suy nghĩ về cái xã hội bất công kia, thương cho thân phận bà Tú, xót cho cái tài năng của Tú Xương. Để lại trong ta những ấn tượng khó phai.

7. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 6

Chúng ta đã được biết đến rất nhiều về thân phận người phụ nữ. Ca dao xưa cũng nói về vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ. Thương cảm thân phận người phụ nữ, chúng ta không chỉ thấy trong ca dan dân ca hay bà chúa thơ Nôm mà còn có Trần Tế Xương với Thương vợ. Người vợ của nhà thơ- bà Tú chính là đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Chân dung bà hiện lên trước hết là người phụ nữ vất vả, chịu thương, chịu khó.

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Người phụ nữ sống trong hoàn cảnh rất vất vả. Bà luôn tảo tần, vất vả nơi mom sông – nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy đến tính mạng. Một người phụ nữ nhưng lại phải đối mặt vô vàn vất vả. Đồng tiền kiếm được vô cùng khó khăn, bà Tú phải làm quần quật để có được số tiền ít ỏi ấy. Và bà Tú phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Chỉ một từ "nuôi đủ" cho ta hiểu rằng nỗi nhọc nhằn của bà vô cùng lớn. Một người phụ nữ không được yên ổn mà luôn phải đối mặt vói muôn vàn vất vả. “Năm con với một chồng” lời thơ sao mà chua xót đến thế. Đó chính là áp lực lớn đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương! CHỉ một mình bà đối mặt với nỗi cực nhọc này. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời mà luôn cam chịu, hi sinh.

Cách dùng từ ví von của nhà thơ- “thân cò” là vô cùng đúng đắn. Đây cũng là hình ảnh mà ta thường bắt gặp trong ca dao xưa khi nói về nhọc nhằn của người nông dân lam lũ. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại “eo sèo mặt nước buổi đò đông” công việc đòi hỏi người phụ nữ phải chịu muôn vàn khó nhọc. Từ “lặn lội”, “eo sèo” đã nhấn mạnh hơn sự vất vả, bon chen của bà Tú trong công việc mưu sinh.

Với tình yêu chồng, thương con, bà hiểu trách nhiệm và gánh nặng của mình. Để đảm bảo cho chồng con có cuộc sống tốt đẹp, bà Tú không quản ngại nhọc nhằn. Dù làm nghề buôn bán quanh năm ồn ã, xô bồ, thì bà Tú cũng phải gắng vì chồng con ở nhà. Một mình bà nuôi cả bảy miệng ăn, một mình bà gánh vác cuộc sống của gia đình. Và ta cũng thấy thật chua xót khi chỉ một người chồng chữ nghĩa như ông tú thôi lại bằng công bà nuôi cả năm đứa con. Nói về cái vô dụng, cái kém cỏi ở bản thân, Tú Xương càng muốn khẳng định đức hi sinh của người vợ.

Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, với tình yêu thương với sự thấu hiểu, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững trong mọi sóng gió và cam chịu hoàn cảnh:

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.”

Toàn bài thơ ta không một lần nghe thấy tiếng than thở, kêu than của bà Tú. Tấm lòng của bà quá rộng lớn và bao dung để ôm tất cả nhọc nhằn ấy vào mình. Và. dù “năm nắng” hay “mười mưa” bà nào có “quản công” nhọc nhằn, vât vả. Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình trong sự chịu thương, chịu khó. Khó nhọc nào bà cũng cố kiên trì vì chồng, vì con. Và vẻ đẹp, đức hạnh ở người phụ nữ ấy khiến người chồng Tế Xương vô cùng cảm động, kính trọng. Có lẽ đó cũng là niềm an ủi lớn nhất cho bao nhọc nhằn của bà.

Bài thơ khép lại trong tình yêu, trong sự trân trọng của người chồng - ông Tú trước hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh và luôn hết lòng vì chồng con. Vẻ đẹp của bà Tú cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam không chỉ xưa mà còn luôn sáng trong cuộc sống hôm nay.

--------------------------------

Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương vừa được VnDoc.com sưu tập và xin gửi tới bạn đọc. Qua bài viết bạn đọc có thể thấy được vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh của bà Tú. Hình ảnh người phụ nữ đi vào văn học khá nhiều. Hình ảnh bà Tú hiện lên với dáng vẻ là một người gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Phụ nữ là một người chân yếu tay mềm nhưng bà luôn là người phải gánh vác, buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Không chỉ được thể hiện qua việc lăn lội với việc buôn bán mà còn gánh trên vai cả gia đình, nuôi đủ 5 con với 1 chồng. Cuộc đời tuy vất vả, gian truân là thế nhưng đó lại là biểu tượng đẹp cho hình ảnh người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó. Hình ảnh bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành một hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời. Mong rằng qua bài viết bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập và có thể thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ

------------------------------------

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được đôi nét những ý chính cần có trong bài viết rồi đúng không ạ? Chúng ta cần giới thiệu được tác giả của tác phẩm. Đưa ra những lập luận để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua hình ảnh bà Tú là một người phụ nữ chịu thương chịu khó, tần tảo sớm hôm, thức khuya dậy sớm làm việc để nuôi đủ năm con với một chống. Bà âm thầm lặng lẽ gánh vác các công việc nhà mà không một lời kêu than... Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11.

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Bài tiếp theo: Những cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp tình yêu trong sáng trong bài thơ Tôi yêu em

  • Trình bày cảm nghĩ về tình cảm giữa hai cha con ông Sáu trong tác phẩm "Chiếc lược ngà", liên hệ với đời thực về tình phụ tử
  • Trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay