Ví dụ về tính pháp quyền của hành chính nhà nước

Những đặc tính chủ yếu của nền hành chính Nhà nước Việt Nam? Để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cần phải hiểu rõ những đặc tính chủ yếu của nền hành chính nhà nước.

Để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cần phải hiểu rõ những đặc tính chủ yếu của nền hành chính nhà nước. Những đặc tính này vừa thể hiện đầy đủ bản chất của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, vừa kết hợp được những đặc điểm chung của một nền hành chính phát triển theo hướng hiện đại.

Như vậy nền hành chính Nhà nước Việt Nam có những đặc tính chủ yếu sau:

1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị:

Nguồn gốc và bản chất của một nhà nước bắt nguồn từ bản chất chính trị của chế độ xã hội dưới sự lãnh đạo của một chính đảng. Dưới chế độ tư bản, nhà nước sẽ mang bản chất tư sản, còn dưới chế xã hội do Đảng cộng sản lãnh đạo thì nhà nước mang bản chất của giai cấp vô sản. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, Đảng nào cầm quyền sẽ đứng ra lập Chính phủ và đưa người của đảng mình vào các vị trí trong Chính phủ. Các thành viên của Chính phủ là các nhà chính trị (chính khách). Nền hành chính lại được tổ chức và vận hành dưới sự lãnh đạo, điều hành của Chính phủ, vì vậy dù muốn hay không, nền hành chính phải lệ thuộc vào hệ thống chính trị, phải phục tùng sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.

Mặc dù lệ thuộc vào chính trị, song nền hành chính cũng có tính độc lập tương đối về hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính.

 Ở nước ta, nền hành chính nhà nước mang đầy đủ bản chất của một Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” dựa trên nền tảng của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nằm trong hệ thống chính trị, có hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội giữ vai trò tham gia và giám sát hoạt động của Nhà nước, mà trọng tâm là nền hành chính.

2. Tính pháp quyền:

Với tư cách là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước, nền hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động tuân theo những quy định pháp luật, đồng thời  yêu cầu mọi công dân và tổ chức trong xã hội phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Đảm bảo tính pháp quyền của nền hành chính là một trong những điều kiện để xây dựng Nhà nước chính quy, hiện đại, trong đó bộ máy hành pháp hoạt động có kỷ luật, kỷ cương.

Tính pháp quyền đòi hỏi các cơ quan hành chính, công chức phải nắm vững quy định pháp luật, sử dụng đúng quyền lực, thực hiện đúng chức năng và thẩm quyền trong thực thi công vụ. Mỗi cán bộ, công chức cần chú trọng vào việc nâng cao uy tín về chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực thực thi để phục vụ nhân dân. Tính pháp quyền của nền hành chính được thể hiện trên cả hai phương diện  là quản lý nhà nước bằng pháp luật và theo pháp luật. Điều đó có nghĩa là, một mặt các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng luật pháp là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính bắt buộc đối với các đối tượng quản lý; mặt khác các cơ quan hành chính nhà nước cũng như công chức phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật chứ không được tự do, tuỳ tiện vượt lên trên hay đứng ngoài pháp luật.

3. Tính phục vụ nhân dân:

Hành chính nhà nước có bổn phận phục vụ sự nghiệp phát triển cộng đồng và nhu cầu thiết yếu của công dân. Muốn vậy, phải xây dựng một nền hành chính công tâm, trong sạch, không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản giữa mục tiêu hoạt động của hành chính nhà nước với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

Bản chất của nhà nước ta là nhà nước dân chủ XHCN. Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là tư tưởng chủ đạo trong xây dựng, thực hiện hệ thống thể chế hành chính ở nước ta. Cơ quan hành chính và đội ngũ công chức không được quan liêu, hách dịch, không được gây phiền hà cho người dân khi thi hành công vụ.

4. Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ:

Nền hành chính nhà nước được cấu tạo gồm một hệ thống định chế tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ và thông suốt từ Trung ương tới các địa phương, trong đó cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp trên. Mỗi cấp hành chính, mỗi cơ quan, công chức hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được trao để cùng thực hiện tốt chức năng hành chính. Tuy nhiên, để hạn chế việc biến nền hành chính thành hệ thống quan liêu, thì  xác lập thứ bậc hành chính cũng tạo ra sự chủ động sáng tạo, linh hoạt của mỗi cấp, mỗi cơ quan, công chức hành chính để đưa pháp luật vào đời sống xã hội một cách hiệu quả.

Ví dụ về tính pháp quyền của hành chính nhà nước

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

5. Tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao:

Hoạt động hành chính của các cơ quan thực thi quyền hành pháp là một hoạt động đặc biệt và cũng tạo ra những sản phẩm đặc biệt. Điều đó được thể hiện trên cả phương diện nghệ thuật và khoa học trong quản lý nhà nước. Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả hành chính nhà nước, yêu cầu những người làm việc trong các cơ quan hành chính cần phải có trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao trên các lĩnh vực được phân công quản lý. Tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao là đòi hỏi bắt buộc đối với hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước và là yêu cầu cơ bản đối với nền hành chính phát triển theo hướng hiện đại.

Đối tượng tác động của nền hành chính có nội dung hoạt động phức tạp và quan hệ đa dạng, phong phú đòi hỏi các nhà hành chính phải có kiến thức xã hội và kiến thức chuyên môn sâu rộng. Công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước là những người trực tiếp thi hành công vụ, nên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của họ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công việc thực hiện. Vì lẽ đó trong hoạt động hành chính Nhà nước, năng lực chuyên môn và trình độ quản lý của những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước phải được coi là tiêu chuẩn hàng đầu.

Xây dựng và tuyển chọn những người vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước đảm bảo yêu cầu “vừa hồng, vừa chuyên” là mục tiêu của công tác cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

6. Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng:

Trên thực tế, các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân cần được pháp luật điều chỉnh diễn ra một cách thường xuyên, liên tục theo các quá trình kinh tế – xã hội. Chính vì vậy nền hành chính Nhà nước phải hoạt động liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động sản xuất, lưu thông không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào.

Tính liên tục và ổn định của nền hành chính xuất phát từ hai lý do cơ bản:

Thứ nhất, do xuất phát từ quan điểm phát triển. Muốn phát triển phải ổn định, ổn định làm nền tảng cho phát triển, vì vậy chủ thể hành chính phải biết kế thừa giữ cho các đối tượng vận động liên tục, không được ngăn cản hay tùy tiện thay đổi trạng thái tác động.

Thứ hai, do xuất phát từ nhu cầu của đời sống nhân dân. Người dân luôn luôn mong muốn được sống trong một xã hội ổn định, được đảm bảo những giá trị văn hóa trong phát triển. Điều đó tạo nên niềm tin của họ vào nhà nước.

Tính liên tục và ổn định không loại trừ tính thích ứng, bởi vậy ổn định ở đây chỉ mang tính tương đối, không phải là cố định, bất biến. Nhà nước là một sản phẩm của xã hội, trong khi đời sống kinh tế – xã hội luôn vận động biến đổi, nên hành chính nhà nước cũng phải thích nghi với hoàn cảnh thực tế để đáp ứng yêu cầu phát triển.

Nhà nước pháp quyền là gì? Vai trò, bản chất của nhà nước pháp quyền? Vai trò của nhà nước pháp quyền. Bản chất của nhà nước pháp quyền. Giải pháp để hoàn thiện cơ chế nhà nước pháp quyền XHCH.

Nhà nước pháp quyền là khái niệm được nêu ra tại Việt Nam kể từ Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII. Đây không những là mục tiêu mà còn là định hướng phát triển bền vững của Việt Nam.

1. Nhà nước pháp quyền là gì?

Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Thể chế hoá quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:

“1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;

2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức;

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Nhà nước pháp quyền trong tiếng Anh là The rule of law.

2. Vai trò, bản chất của nhà nước pháp quyền:

2.1. Vai trò của nhà nước pháp quyền:

Trong  xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các nguyên tắc pháp quyền có vai trò cực kỳ quan trọng.

Thứ nhất, các nguyên tắc pháp quyền đóng vai trò là những tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng có các đặc trưng cơ bản sau đây: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc cơ bản là “phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo Hiến pháp và pháp luật; Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí và hiệu lực cao nhất trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân và không ngừng hoàn thiện cơ chế pháp lý đó; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh, có thiện chí các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc thừa nhận; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức đảng và đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (Điều 4 Hiến pháp năm 2013). Những đặc trưng cơ bản về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói trên không hình thành ngay mà từng bước được xây dựng và hoàn thiện trong hơn 75 năm qua. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện đó là các nguyên tắc pháp quyền. Trong mỗi đặc trưng cấu thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đều lấy các nguyên tắc pháp quyền làm tư tưởng chỉ đạo, đồng thời là tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Xem thêm: Bản chất của nhà nước là gì? Bản chất, chức năng của nhà nước CHXHCN Việt Nam

Thứ hai, các nguyên tắc pháp quyền đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo trong quản trị quốc gia, đồng thời là tiêu chí để đánh giá trình độ pháp quyền trong quản lý nhà nước của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trong nhà nước pháp quyền, từ hoạt động lập hiến, lập pháp cho đến hoạt động hành pháp, hoạt động tư pháp đều phải lấy các nguyên tắc pháp quyền làm tư tưởng chỉ đạo. Xa rời các nguyên tắc pháp quyền, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không còn là nhà nước pháp quyền trong các hoạt động thực tiễn. Vì thế, các nguyên tắc pháp quyền nói trên là các tiêu chí đánh giá trình độ pháp quyền trong quản trị nhà nước, trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Thứ ba, các nguyên tắc pháp quyền đóng vai trò là tư tưởng chủ đạo trong quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng.

Theo Liên hợp quốc, pháp quyền là một nguyên tắc quản trị của các quốc gia dân chủ và pháp quyền, đồng thời là một nguyên tắc quản trị trong các mối quan hệ quốc tế. Trong một nhà nước mà tất cả mọi cá nhân, tổ chức, thiết chế công và tư, kể cả nhà nước đều thượng tôn pháp luật, được công bố công khai, được thực thi và áp dụng bình đẳng trong thực tế và được tài phán một cách độc lập, phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế là điều kiện rất cơ bản để mở rộng quan hệ quốc tế, phát triển mối quan hệ giữa các quốc gia không những về chính trị mà cả về kinh tế và các lĩnh vực khác. Các nguyên tắc pháp quyền được đề cao và thực hiện trên thực tế của mỗi quốc gia trong điều kiện ngày nay trở thành lòng tin và sự lựa chọn trong quan hệ quốc tế.

2.2. Bản chất của nhà nước pháp quyền:

Xuất phát từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc sau:

(1) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;

(2) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng;

(3) Khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội;

Xem thêm: Nguồn gốc của nhà nước là gì? Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước?

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật;

(5) Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.

Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.

2.3. Giải pháp để hoàn thiện cơ chế nhà nước pháp quyền XHCH:

Một là, cần hiện thực hóa nguyên tắc chủ quyền nhân dân. 

Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước thì phải quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước mà những vấn đề đó không có một cơ quan nào trong ba nhánh quyền lực nhà nước có thể thực hiện. Nhân phải là chủ thể trực tiếp lập ra các thiết chế có vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, văn bản luật tối cao. Cụ thể nhân dân phải trực tiếp là chủ thể xây dựng bản Hiến pháp, trực tiếp bỏ phiếu để bầu ra Quốc hội, Người đứng đầu chính phủ.

Như vậy, cần sớm xây dựng các văn bản luật đã được Hiến pháp ghi nhận như Luật trưng cầu ý dân, Luật tiếp cận thông tin… Riêng Luật trưng cầu ý dân cần phải được ưu tiên trước hết. Luật trưng cầu ý dân cần quy định rõ những vấn đề quan trọng phải được quyết định thông qua trưng cầu ý dân. Chẳng hạn việc thông qua Hiến pháp nên được thực hiện bằng trưng cầu ý dân.

Chỉ khi đó Hiến pháp mới thực sự là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất bởi vì Hiến pháp do chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước trực tiếp thông qua. Các thiết chế trong Bộ máy nhà nước được lập ra từ Hiến pháp là sản phẩm của Hiến pháp sẽ mặc nhiên tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp. Hiện tại, Hiến pháp vẫn là sản phẩm do Quốc hội lập ra thì dù Hiến pháp có tự ghi nhận là Đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất nhưng suy cho cùng vẫn là sản phẩm của Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội.

Hai là, cần hoàn thiện Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức tòa án

Để phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ba cơ quan đại diện cho việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chỉ trên cơ sở các đạo luật như vậy mới có thể nói đến vị trí độc lập của ba cơ quan thực hiện ba nhánh quyền lực nhân dân.

Ba là, cần hoàn thiện Luật tổ chức tòa án và Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để đảm cho tư pháp độc lập.

Luật Tổ chức tòa án cần được hoàn thiện theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết 49-NQ/TW đã chỉ rõ “Hệ thống Tòa án nhân dân cần được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Chỉ khi thiết kế mô hình Tòa án độc lập với cơ cấu, tổ chức của cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước mới có thể đảm bảo sự độc lập của Cơ quan pháp.

Về Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, cần hoàn thiện quy định về cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm và nhiệm kỳ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Cần mở rộng thêm diện tuyển chọn thẩm phán là luật sư, giảng viên luật của các trường đại học đáp ứng được yêu cầu của thẩm phán sẽ giúp bổ sung được sự thiếu hụt về số lượng, hạn chế về trình độ của đội ngũ thẩm phán và khắc phục được khâu đào tạo thẩm phán. Thay đổi thành phần tuyển chọn thẩm phán tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Thành phần Hội đồng tuyển chọn thẩm phán phải do Chánh án tòa án các cấp tỉnh làm chủ tịch. Quy định Hội đồng tuyển chọn thẩm phán như hiện tại vô hình tạo sự chi phối, can thiệp của Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động xét xử của thẩm phán.

Thành phần tuyển chọn thẩm phán hiện nay đa số là những người không chuyên trong lĩnh vực xét xử nên không đủ khả năng để lựa chọn được những thẩm phán đáp ứng được yêu cầu xét xử. Hơn nữa nhiệm kỳ của thẩm phán hiện tại là 5 năm theo nhiệm kỳ của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cũng làm giảm tính độc lập của thẩm phán nói riêng và Tòa án nói chung.

Do vậy, cần thay đổi nhiệm kỳ hiện nay bằng quy định thời hạn công tác của thẩm phán đến hết tuổi lao động theo quy định của Bộ luật lao động. Quy định như vậy sẽ giúp thẩm phán yên tâm thực hiện công việc chuyên môn, khắc phục được tư duy nhiệm kỳ. Đồng thời, để tránh tình trạng thẩm phán sẽ ỷ lại nếu kéo dài thời hạn công tác đến hết tuổi lao động như trên thì cần hoàn thiện bộ quy tắc về chuẩn mực của thẩm phán.

Nếu thẩm phán không còn đáp ứng được chuẩn mực thì Chánh án tòa án nhân dân tối cao có thể miễn nhiệm. Việc mở rộng diện tuyển chọn và cơ chế bổ nhiệm thẩm phán như trên đã được áp dụng phổ biến ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác. Do vậy, Việt Nam có thể nghiên cứu tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia và vận dung phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.