Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn spt thường được thực hiện như thế nào?

Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn |Thí nghiệm SPT ngoài hiện trường

Ngày đăng 25/05/2015


Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn hay thường được viết tắt là SPT [Standard Penetration Test] là một thí nghiệm xuyên tại hiện trường nhằm đo đạc các tính chất địa kỹ thuật của đất.

Phương pháp thí nghiệm này thường được áp dụng cho nhiều công trình khảo sát xây dựng vì một số ưu điểm: thiết bị đơn giản, thao tác và ghi chép diễn giải kết quả khá dễ dàng, dùng cho nhiều nền đất và độ sâu khảo sát, chi phí thấp...

Mục đích

Thí nghiệm dùng để đánh giá:

- Sức chịu tải của đất nền

- Độ chặt tương đối của nền đất cát

- Trạng thái của đất loại sét

- Độ bền nén một trục [qu] của đất sét

- Kết hợp lấy mẫu để phân loại đất

Nguyên lý thí nghiệm

Thí nghiệm sử dụng một ống mẫu thành mỏng với đường kính ngoài 50mm, đường kính trong 35mm, và chiều dài 650mm. Ống mẫu này được đưa đến đáy lỗ khoan sau đó dùng búa trượt có khối lượng 63,5kg cho rơi tự do từ khoảng cách 760mm. Việc đóng ống mẫu được chia làm ba nhịp, mỗi nhịp đóng sâu 150mm tổng cộng 450mm, người ta sẽ tính số búa trong mỗi nhịp và chỉ ghi nhận tổng số búa trong hai nhịp cuối và hay gọi số này là "giá trị N".

Trong trường hợp sau 50 búa đầu mà ống mẫu chưa cắm hết 150mm thì người ta chỉ ghi nhận 50 giá trị này. Số búa phản ảnh độ chặt của nền đất và được dùng để tính toán trong địa kỹ thuật..

Dụng cụ thí nghiệm

- Ống mẫu: đường kính ngoài 50,8mm, đường kính trong 34,9mm, chiều dài ống chẻ: 609mm, chiều dài mũi đóng là 57,1mm.

- Tạ có trọng lượng 63,5kg, rơi tự do trên đế nện.

- Đế nện.

- Cần trượt định hướng.

Búa đóng SPT

Trình tự thí nghiệm

- Bước 1: Khoan tạo lỗ đến độ sâu dự định thí nghiệm, vét sạch đáy, hạ ống mẫu SPT và lắp đặt đế nện, cần, tạ…

- Bước 2: vạch lên cần đóng 3 khoảng, mỗi khoảng 15cm [tổng chiều sâu đóng 45cm].

- Bước 3: Cho tạ rơi tự do ở độ cao 76cm, đếm và ghi số tạ đóng cho từng khoảng 15cm.

- Bước 4: lấy chỉ số tạ đóng của 30cm cuối cùng làm chỉ số SPT.

Khoảng cách thí nghiệm SPT thông thường từ 1 – 3m, tùy theo độ đồng nhất của đất nền.

Xử lý kết quả thí nghiệm

Trongđất cát hạt mịn, số lần đóng búa N cần thiết để hạ ống mẫu tiêu chuẩn xuống độ sâu 30 cm cuối cố thể thay đổi tuỳ thuộc vào độ sâu mực nước ngầm. Nếu N* là số nhát búa thực hiện để hạ ống mẫu xuống 30 cm cuối ở độ sâu dưới mực nước ngầm trong đất cát hạt mịn thì giá trị N thực tế cần được hiệu chỉnhtheo công thức sau của Terzaghi và Pek :

N = 15 +½[ N - 15]

Kết quả thí nghiệm SPTtrong lỗ khoanđịa chất công trìnhđược ghi trực tiếp trong sổ quan trắc địa chấtthuỷ văn - địa chất công trình lỗ khoan với các số liệuN30[số nhát búa ở khoảng thí nghiệm thứ hai - 30cm],N45[số nhát búa ở khoảng thí nghiệm thứ ba - 45cm] -N30+ N45

Khi lập cột địa tầng [thiết đồ] lỗ khoan địa chất công trình có thí nghiệm SPT, tiến hành vẽ biểu đồbiến đổi giá trị N theo chiều sâu thí nghiệm.


Sử dụng kết quả thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn


- Đánh giá độ chặt tương đối của cát [theo Terzaghi và Pek]

Giá trị N [số búa]

Độ chặt tương đối của cát

0¸4

Rất xốp [rất rời rạc]

4¸10

Xốp [rời rạc]

10¸30

Chặt vừa

30¸50

Chặt

> 50

Rất chặt


- Xác định trạng thái đất và độ bền của đất loại sét trong trạng thái ứng suất một trục [qu] - Theo Terzaghi và Pek.

Giá trị N [số búa]

Trạng thái đất

Độ bền qu[kg/cm2]

< 2

Chảy

< 0,25

2 ¸ 4

Dẻo chảy

0,25 ¸ 0,5

4 ¸ 8

Dẻo mềm

0,5 ¸ 1

8 ¸ 15

Dẻo cứng

1 ¸ 2

15 ¸ 30

Nửa cứng

2 ¸ 4

> 30

Cứng

> 4


Độ bền kháng nén của đất trong trạng thái ứng suất một trục có thể được xác định tuỳ thuộc vào giá trị N, căn cứ vào những tương quan sau đây :

- Đất sét: qu= N / 4

- Đất sét bụi: qu= N / 5

- Đất sét pha cát và đất bụi: qu= N / 7,5


Kết quả thí nghiệm SPT được mô tả bên phải hình trụ hố khoan

Tiêu chuẩn hướng dẫn thí nghiệm

- Tiêu chuẩn Việt Nam: TCXD 226:1999

- Tiêu chuẩn ASTM: D 1586


PNgeo.com

XEM THÊM:

- Tại sao phải khảo sát địa chất công trình?

- Các bước tiến hành khảo sát địa chất

- Sản phẩm, thời gian và chi phí khảo sát địa chất công trình

- Quy trình khoan khảo sát địa chất công trình

- Công tác nghiệm thu ngoài hiện trường

- Báo cáo kết quả khảo sát địa chất công trình

- Những sai sót trong công tác khoan khảo sát địa chất

... Tài liệu khác
  • Chia sẻ:

ĐẤT XÂY DỰNG – PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG – THÍ NGHIỆM XUYÊN TIÊU CHUẨN [SPT]

Soils – Field testing method – Standard penetration test

TCVN 9351:2012 được chuyển đổi từ TCXD 226:1999 theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.

TCVN 9351:2012 do Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng – Bộ Xây dựng biên soạn, Bộ Xây dựng đề nghị, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm SPT

Một trong các phương pháp khảo sát địa chất công trình phục vụ xây dựng các công trình khác nhau. Thí nghiệm được tiến hành bằng cách đóng một mũi xuyên có dạng hình ống mẫu vào trong đất từ đáy một lỗ khoan đã được thi công phù hợp cho thí nghiệm. Quy cách mũi xuyên, thiết bị và năng lượng đóng đã được quy định. Số búa cần thiết để đóng mũi xuyên vào đất ở các khoảng độ sâu xác định được ghi lại và chỉnh lí. Đất chứa trong ống mẫu được quan sát, mô tả, bảo quản và thí nghiệm như là mẫu đất xáo động.

Sức kháng xuyên tiêu chuẩn [Standard Penetration resistance], Nspt
Số búa cần thiết để đóng mũi xuyên vào trong đất nguyên trạng 30 cm với quy cách thiết bị và phương pháp thí nghiệm quy định như ở Điều 5 và Điều 6.

Thí nghiệm SPT nên được sử dụng khi khảo sát địa chất công trình trong điều kiện địa tầng phức tạp, phân
bố luân phiên các lớp đất dính và đất rời hoặc bao gồm chủ yếu các lớp đất rời với độ chặt, thành phần hạt
khác nhau.

Khối lượng cụ thể của thí nghiệm SPT và tương quan giữa SPT với các phương pháp khảo sát khác trong quá trình khảo sát được xác định theo các quy định trong TCVN 4419:1987 và TCVN 9363:2012 hoặc các tiêu chuẩn liên quan khác.

Phần mũi xuyên là phần dưới cùng của đầu xuyên dùng để cắt khi xuyên vào đất. Các đặc trưng cơ bản của mũi xuyên như sau:
– Chiều dài từ 25,0 mm đến 75,0 mm;
– Đường kính trong bằng [35,0 ± 0,15]mm;
– Bề dày lưỡi cắt bằng [2,5 ± 0,25] mm;
– Góc vát lưỡi cắt từ 16,0° đến 23,0°

Phần thân của đầu xuyên dài từ 450 mm đến 750 mm dùng để chứa đất khí mũi xuyên xuyên vào đất.
Phần thân gồm hai nửa bán nguyệt ốp lại thuận tiện cho thao tác tháo lắp khi lấy đất chứa trong chúng ra ngoài.
Hai đầu của ống phần thân có ren ngoài để lắp ráp với phần mũi và phần đầu nối.
Phần đầu nối của đầu xuyên dùng để nối đầu xuyên với cần khoan, có chiều dài đến 175 mm. Tại đây có
cơ cấu bi, lỗ thoát hơi để giữ chân không bên trong đầu xuyên, hạn chế tụt mẫu trong quá trình nâng hạ mũi xuyên và để thoát hơi, nước trong quá trình xuyên.

TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT

Phương pháp thí nghiệm
1 Thí nghiệm SPT bao gồm lần lượt các công việc sau tại mỗi vị trí thí nghiệm:
a] Khoan tạo lỗ đến độ sâu cần thí nghiệm và rửa sạch đáy hố khoan;
b] Tiến hành thí nghiệm;
c] Quan sát và mô tả.
Các công việc trên lại được tiếp tục ở các độ sâu tiếp theo. Thí nghiệm được tiến hành lần lượt ở 1 m đến 3 m
độ sâu cho tới độ sâu cần thiết tuỳ theo mục đích khảo sát và tính phức tạp của địa tầng.

2 Khi khoan tạo lỗ, các phương pháp khoan sau có thể được áp dụng:
– Khoan guồng xoắn;
– Khoan xoay với nước rửa bằng nước hoặc dung dịch sét.
Để tránh sập thành hố khoan, khi cần các ống chống vách có thể được sử dụng.
Lỗ khoan phải đúng vị trí, thẳng đứng, đường kính đủ lớn từ 55 mm đến 163 mm. Thành hố khoan phải ổn định

và hạn chế tới mức tối đa phá hoại đất ở đáy hố khoan.

2.1 Khi khoan ở độ sâu không lớn, trên mực nước ngầm nên sử dụng khoan guồng xoắn. Sử dụng ống
chống, nếu có mặt đất yếu, đất có kết cấu không chặt để tránh sập thành hố khoan.

2.2 Khi khoan dưới mực nước ngầm nên sử dụng khoan xoay với nước rửa bằng nước trong đất dính và với
nước rửa bằng dung dịch sét trong đất rời.

2.3 Trong quá trình khoan phải thường xuyên theo dõi tốc độ khoan, đặc điểm dung dịch khoan để nhận biết
kịp thời sự thay đổi địa tầng và quyết định hợp lí độ sâu thí nghiệm. Mực dung dịch khoan phải luôn luôn nằm
trên mực nước ngầm.

2.4 Khi khoan gần tới độ sâu thí nghiệm, nên giảm tốc độ khoan, thao tác nâng, hạ nhẹ nhàng nhằm hạn chế
tối đa sự phá hoại tính nguyên trạng của đất dưới đáy hố khoan, làm sai lệch kết quả thí nghiệm.

2.5 Khi đã khoan đến độ sâu thí nghiệm, tiến hành vét đáy hố khoan, kiểm tra độ sâu, độ ổn định của thành hố
khoan. Khi cần thiết, có thể rửa và làm sạch đáy hố khoan bằng cách tuần hoàn dung dịch khoan.

2.6 Khi hố khoan đã đủ độ sâu, đáy đã sạch, thành vách ổn định, tiến hành rút lưỡi khoan lên và thay thế nó
bằng đầu xuyên.

3 Thí nghiệm bắt đầu khi mũi xuyên đã đạt tới đáy hố khoan, đúng độ sâu yêu cầu mà không gặp bất kỳ cản
trở nào do sập thành. Thí nghiệm tiến hành như sau:

3.1 Lắp bộ búa đóng và kiểm tra khả năng gắp nhả, độ cao rơi tự do của búa. Thanh định hướng phải thẳng
đứng, ổn định và đồng trục với hệ cần khoan.

3.2 Chọn điểm chuẩn và đo trên cần khoan ba đoạn liên tiếp, mỗi đoạn dài 15 cm, tổng cộng là 45 cm phía
trên điểm chuẩn để căn cứ vào đó xác định sức kháng xuyên.

3.3 Đóng búa. Chú ý độ cao rơi của búa, độ thẳng đứng của thanh dẫn hướng.

3.4 Đếm và ghi số búa cần thiết để hệ mũi xuyên cần khoan xuyên vào đất mỗi đoạn 15 cm đã vạch trước trên
cần khoan.

3.5 Khi số búa đóng cần thiết cho 15 cm vượt quá năm mươi búa [hoặc một trăm búa tuỳ theo yêu cầu của
thiết kế khảo sát], đo và ghi lại độ xuyên sâu, tính bằng centimét [cm] của mũi xuyên ở năm mươi búa [hoặc
một trăm búa].

3.6 Trong đất cát hạt thô lẫn dăm sạn hoặc dăm sạn lẫn cuội sỏi, để tránh hỏng mũi xuyên, nên dùng mũi
xuyên đặc hình nón cùng kích thước thay thế mũi xuyên thông thường. Góc đỉnh mũi xuyên hình nón là 60°.

3.7 Trong quá trình đóng, mực nước hoặc dung dịch khoan phải nằm trên mực nước ngầm hiện có.

3.8 Sau khi đã đo và ghi đủ số búa tương ứng với độ xuyên sâu 45 cm của mũi xuyên, tiến hành cắt đất bằng
cách xoay cần khoan, rút mũi xuyên lên mặt đất, thay thế nó bằng mũi khoan. Công tác khoan lại tiếp tục cho tới
độ sâu mới.

4 TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm SPT : Đầu xuyên được tháo ra khỏi cần khoan, rửa sạch và tháo rời thành ba phần. Tách đôi phần thân của mũi
xuyên, quan sát, mô tả đất chứa trong đó. Lắp ráp lại mũi xuyên sẵn sàng cho thí nghiệm tại độ sâu mới.

4.1 Đất chứa trong phần thân đầu xuyên được quan sát, mô tả, so sánh với đất chứa trong phần mũi. Mô tả rõ
màu sắc, độ ẩm, độ chặt, thành phần hạt, kiến trúc, cấu tạo của đất, các dị vật…

4.2 Chọn mẫu đại diện, bảo quản trong túi nylon không thấm nước, hơi và khí. Mỗi mẫu phải có nhãn ghi rõ
tên công trình, số hiệu hố khoan, độ sâu lấy mẫu, số búa cho ba khoảng độ xuyên, thời gian thí nghiệm, đặc
điểm thời tiết.

4.3 Các túi đựng mẫu được xếp theo thứ tự độ sâu cho dễ quan sát, kiểm tra, để ở nơi thoáng mát và vận
chuyển ngay về phòng thí nghiệm.

4.4 Đất lấy được trong đầu xuyên có thể được dùng để thí nghiệm trong phòng xác định một số các chỉ tiêu
vật lí với mục đích nhận biết và phân loại. Cụ thể là:
– Độ ẩm;
– Khối lượng thể tích hạt;
– Thành phần hạt;
– Các độ ẩm giới hạn.

4.5 Mẫu đất lấy được từ mũi xuyên phải được bảo quản, cất giữ trong phòng thí nghiệm ít nhất ba tháng kể từ
khi nghiệm thu kết quả thí nghiệm.
Mẫu ghi chép, quan sát, mô tả [xem Phụ lục A, B]

Tải TCVN 9351:2012 bên dưới

TCVN 9351-2012-Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT

Nội dung bài viết

  • ĐẤT XÂY DỰNG – PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG – THÍ NGHIỆM XUYÊN TIÊU CHUẨN [SPT]
    • Soils – Field testing method – Standard penetration test
    • TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm SPT
    • TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT

Thí nghiệm SPT

SƠ ĐỒ MINH HỌATHÍ NGHIỆM SPT.

Quan hệ giữa sức kháng xuyên tiêu chuẩn Nsptvà sức kháng xuyên tĩnh đầu mũi qc

Bảng 1- Quan hệ giữa sức kháng xuyên tiêu chuẩn Nsptvà sức kháng xuyên tĩnh đầu mũi qc

Thứ tự

Loại đất

Tỉ số qc/Nspt

1

Sét

2

2

Sét pha

3

3

Cát hạt mịn

4

4

Cát hạt trung, thô

Từ 5 đến 6

5

Cát hạt trung lẫn sạn sỏi

Lớn hơn 8

Đánh giá giá trị một số chỉ tiêu cơ lí của đất theo kết quả SPT

1. Đối với đất rời

Các chỉ tiêu tính chất sau của đất rời có thể được đánh giá theo kết quả thí nghiệm SPT:

- Độ chặt tương đối, Dr;

- Góc ma sát trong, j;

- Môđun biến dạng, E.

1.1 Độ chặt tương đối [Dr] và góc ma sát trong [j]

Bảng 2 - Quan hệ N30và Dr, j

[Theo Terzaghi, Peck]

Trạng thái

Dr[%]

Nspt

j[°]

Xốp

Nhỏ hơn 30

Nhỏ hơn 10

Từ 25,00 đến 30,00

Chặt vừa

Từ 30 đến 60

Từ 10 đến 30

Từ 30,00 đến 32,30

Chặt

Từ 60 đến 80

Từ 30 đến 50

Từ 32,30 đến 40,00

Rất chặt

Lớn hơn 80

Lớn hơn 50

Từ 40,00 đến 45,00

Áp lực bản thân hay độ sâu, thế nằm của đất cũng ảnh hưởng tới quan hệ này. Đồ thị quan hệ giữa Nsptvà Drcó kể đến yếu tố này. Theo đó các giá trị nêu ở Bảng 2tương ứng với áp lực bản thân là 0,144 MPa.

Quan hệ giữa góc ma sát trong và sức kháng xuyên tiêu chuẩn, có thể như sau: [Theo Terzaghi, Peck, Meyerthof...]

Trong đó:

a là hệ số, lấy giá trị trong khoảng từ 15 đến 25

1.2 Môđun biến dạng E, tính bằng Megapascan [MPa]

[Theo Tassios, Anagnostopoulos]

Trong đó:

a là hệ số, được lấy bằng 40 khi Nspt>15; lấy bằng 0 khi Nspt
Đúng là cái thí nghiệm SPT tưởng chừng như đơn giản nhưng mà làm mệt đầu không biết bao nhiêu kĩ sư rồi không biết. thường thì theo tôi tiêu chuẩn chỉ để tham khảo cho vui mà thôi, nhưng đôi lúc nó lại bó buộc đối với những kĩ sư mới ra trường, nếu tôi hạn chế vào những gì mà người ta đặt ra và cố định cho là đúng, thì bản thân tôi không thể đi tới đâu được, chắc bạn Wasabi có kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực địa kĩ thuật lắm, trong quá trình làm và tìm hiểu thí nghiệm SPT cũng gần 2 năm, mà thấy chẳng hiểu được gì hết, lúc đầu thì biết nhưng đâm ra thấy hết biết gì luôn rồi. ở đây bàn về thí nghiệm SPT, tôi cũng đặt ra một câu hỏi cho vui nhé :"Làm sao xác định trạng thái của đất loại "cát mịn lẫn bụi" ở ngoài hiện trường theo SPT và thí nghiệm trong phòng ? "Câu hỏi tưởng chừng như dễ trả lời theo kiến thức học trong trường như theo tôi thì khó trả lời lắm mấy điểm sau :1. Theo SPT N30 số liệu thí nghiệm tra trực tiếp thì không ổn lắm vì N30 ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố lắm.2. Mẫu thí nghiệm mà đẩy ra được đâu còn nguyên dạng đâu.Mong mọi người bàn luận thêm về đề tài này
Dù bàn luận khá nhiều về hạn chế của tn SPT nhưng có 1 thực tế là thí nghiệm này được sử dụng phổ biến đến mức phổ thông trong công tác khảo sát đất hiện nay. Và chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của thí nghiệm này. Chẳng hạn thí nghiệm SPT trong đá Phong hóa cũng là vấn đề thực sự quan tâm hiện nay trong điều kiện máy móc thiết bị dùng cho khảo sát đất còn nhiều hạn chế.Bên cạnh đó tn này cũng bị lạm dụng trên mức cần thiết. ví dụ: Sử dụng N30 tính toán được N60 theo sự hiệu chỉnh năng lượng hữu ích để tính sức chống cắt ko thoát nước trong đất dính là Su. Thực tế tôi lập rất nhiều tương quan của cách tính này đêm so sánh Su từ thí nghiệm 3 trục UU, Su từ cắt cánh hiẹn trường cho cùng 1 dự án, kết quả là quá phân tán. Nếu sử dụng kết quả này để định tính thì may ra..Bạn namgeo27 có thể tham khảo thí nghiệm này của tác giả Vũ Công Ngữ, Nguyễn thái . tôi ko có bản mềm gửi bạn. Hoặc bạn đọc trong các công thức tính của 22TCN272-05.
Tôi có một thắc mắc là khi khảo sát và thí nghiệm theo tiêu chuẩn ASTM, BS hoặc TCVN 5747-1993 thì độ sệt [tính như bình thường Il = [W-Wl]/[Wl-Wp] ] không dùng để phân loại trạng thái của đất được do cái Wl không TN kiểu xuyên côn thăng bằng mà thí nghiệm theo Casagrande phải không các Bác, nên chỉ có nước sử dụng cái SPT thôi và theo tôi nghĩ cứ dùng cái N30 ở hiện trường tra bảng là ra trạng thái [của đất dính] và kết cấu [của đất rời]. Nhân đây cũng xin hỏi Bác nào có tài liệu nói về việc sử dụng độ sệt [theo ASTM hoặc BS hoặc TCVN 5747-1993] thì cho tôi ngó tí, cám ơn nhều.
TCVN 4197:1995 "Đất xây dựng - Phương pháp xác định giới hạn dẻo và giới hạn chảy" thì giới hạn chảy xác định bằng phương pháp quả dọi thăng bằng đấy chứ, đâu phải theo Casagrande. Tuy nhiên, tiêu chuẩn cũng đưa ra công thức để chuyển đổi giới hạn chảy theo 2 phương pháp trên.Phân loại trạng thái đất theo B [hay Il] chỉ thấy trình bày trong các giáo trình Cơ học đất, còn trong tiêu chuẩn VN thì không thấy đề cập đến.
đính chính: độ sệt [LI] = [W-Wp]/[WL-Wp]vẫn dùng để đánh giá trạng thái như thường, có điều trong các tiêu chuẩn các bạn tây không đả vào thôi bởi tiêu chuẩn không yêu cầu, cả TCVN 4197:1995 cũng vậy [theo bạn dungquat2007], họ còn thông qua su hay qu để đánh giá trạng thái chứ ko riêng gì chỉ số tn SPT. Thực tế họ còn có cả công thức kinh nghiệm giữa cái LI với su cơ. Việc gọi tên trạng thái cũng mang tính mô tả là chính, còn khi thiết kế thì chỉ tiêu cụ thể về cường độ mới quan trọng. Tất nhiên theo tiêu chuẩn thiết kế của của ta, một số thông số tra bảng có phụ thuộc vào trạng thái đất, bởi thế mà sinh ra cứng, mềm, chảy... bạn nào rỗi kiểm tra lại sẽ thấy trong tiêu chuẩn cũ 45-78 vẫn dùng.Cái tiêu chuẩn TCVN 4197:1995 là sự kết hợp linh hoạt và hoàn hảo giữa tây và ta, cách phân loại cũng khác cũ làm cho các bạn thiết kế nhiều khi phải tự phân loại lại theo tc cũ để tra bảng. Riêng cái 2 pp Cassagrande và Vaxiliep về cách tn khác hẳn nhau, nếu có công thức chuyển đổi thì CT phải được cập nhật liên tục dựa trên kinh nghiệm [nó ko chỉ phụ thuộc vào số lần tn mà còn phụ thuộc vào loại đất]. Tôi đã từng đọc có một số bài báo viết về so sánh giữa 2 phương pháp này, nhiều người lấy phương pháp Vaxilliep làm chuẩn rồi hiệu chỉnh kết quả của pp Cassagrande, thật chả hiểu nổi. Theo tôi: Thiết bị thí nghiệm - phương pháp thí nghiệm - phương pháp phân loại - tiêu chuẩn thiết kế và cả kiểm tra nghiệm thu là một thể thống nhất, tránh râu ông nọ cắm cằm bà kia.có hơi đụng chạm tí đến chuẩn, mong các bác thông cảm
Vâng đúng là TCVN 4197:1995 nói việc TN giới hạn chảy theo 2 PP Vaxiliep và Casagrande nhưng tôi thấy thắc mắc mấy vấn đề sau:- Thí nghiệm theo Casagrande nhưng lại lấy đất có kích thước hạtkiencangoopt
Đôi lời góp ý với các bạn.- Thí nghiệm SPT chỉ dùng trên đất hạt rời mà thôi. Nó được dùng từ cách đây trăm năm rồi. Khi đó người ta liên hệ các kết quả SPT với trạng thái đất. Những liên hệ này không có ý nghĩa vật lý gì cả. Chúng vẫn được dùng chẳng qua do tiện lợi mà thôi.- Cần chú ý là kết quả SPT không được dùng để phân tích đất dính. SPT đơn thuần chỉ để lấy mẫu đất cho phân loại mà thôi.- Tuy nhiên, thí nghiệm Atterberg limits và thí nghiệm fall cone để xác định Wl, Wp, Ip, Il thì có ý nghĩa vật lý. Thực ra cũng rất đơn giản:Qua rất nhiều thí nghiệm, ta có+ Cu tại liquit limit Il ~2kPa+ Cu tại plastic limit Ip ~ 200kPaNếu vẽ đồ thị Il versus Cu, thì có ngay kết quảCu~2*100^[1-Il]suy ra sigma_v~8*100^[1-Il] Cho đất dính nhưng không senstive:có thể chứng minh được là lamda=Ip*Gs/ln100nếu Gs=2.7, thì lamda=0.6Ip Slope of NCL = Cc = lamda*ln10= 2.3*lamda--Cho đất sensitve [chủ yếu tịa vùng Scandivia, đất của họ là marine clay, bị muối thấm vào nên tính chất bị ảnh hưởng] Gọi hệ số R= Cp/ClTừ đó có lamda=Ip*Gs/LnRCu=Cl*R^[1-Il]Hệ số St=Cu/Cur đóng vai trò chủ chốt trong việc nhận định tính sensitivity của đất dính. Cur là remoulded undrained strength. Hệ số này càng cao thì đất càng senstive
"Nhìn chung sử dụng SPT hiện nay rất phổ biến vì tiện dụng, hiệu quả. SPT có khả năng tiến hành ở độ sâu lớn và lấy được mẫu lên, điều đó không có ở xuyên tĩnh. Tuy nhiên vẫn có mặt hạn chế, thí nghiệm trong đất dính thường chỉ để tham khảo, chớ có sử dụng SPT để xác định trạng thái,... đi tù ngay! "- Thứ nhất thông nhất quan điểm với bác thí nghiệm SPT ở độ sâu lớn còn xuyên tĩnh max cũng được 30m là OK. - Thứ hai Tiêu chuẩn SPT xuất phát từ Hiệp hội cầu đường Mỹ và đã được áp dụng khá phổ biến ở trên thế giới. Trong Tiêu chuẩn xây dựng 226 -1999 cũng đã đưa ra thí nghiệm SPT nhằm đánh giá trạng thái của đất dính và đất rời. Ở đây có hai vấn đề đặt ra:+ Đối với thí nghiệm này yêu cầu khoan đối với thiết bị và phương pháp khoan như thế nào? Điều kiện trước khi tiến hành thí nghiệm như thế nào? Thiết bị thí nghiệm và chiều cao rơi của búa? Tay nghề kíp trưởng.... Vì vậy đối với các công trình hiện nay khoan ở Việt Nam hầu như thí nghiệm SPT chỉ là hình thức bởi vì bị "sai số cộng dồn". Nên thí nghiệm này vì sao ở nước ta đều khuyến cáo là giá trị tham khảo còn đánh giá trạng thái bắt buộc phải theo thí nghiệm trong phòng. + Vấn đề thứ hai Bác có nói một Chi ở 91 Phùng Hưng mô tả đất ở tầng VĨnh Phúc trạng thái dẻo mềm. Hiiiii nói cho vui Bác nhé có lẽ kinh nghiệm chưa nhiều cứ theo thí nghiệm SPT mà mô tả. Thực tế trạng thái của đất khi lấy mẫu nên chỉ cần nhìn màu sắc của mẫu có thể đánh giá tương đối trạng thái của đất rồi. Vì mầu sắc của đất liên quan đến nguồn gốc thành tạo mà.
nói gì thì nói, cái thí nghiệm SPT này cũng góp phần nuôi khối kỹ sư ĐCCT nhỉ >SPT muôn năm! just CHEERs!
Sao người ta không sử dụng các tham số thí nghiệm trong phòng và các thí nghiệm hiện trường khác để xác định giá trị SPT nhỉ ?
bác Ngọc đặt câu hỏi thế là ý gì nhỉ? bởi người ta vẫn làm, làm nhiều là khác, mà chắc chắn bác biết người ta làm như thế nào . Nhiều cao nhân chỉ cần thông số mô tả để xác định SPT.

Xem thêm: Hiện Tượng Đa Cộng Tuyến Là Gì, Làm Thế Nào Để Nhận Dạng


Đồng chí GEOTEK nói đúng với quan điểm của đa số dân Địa kỹ thuật Âu Mỹ nhưng không đúng với quan điểm của Nhật và Chủ đầu tư và Nhà thầu khảo sát.Cứ như đồng chí thì chỉ cần làm SPT ở cát thôi à. Nếu thế thì chúng tôi móm nặng. Có thể đồng chí đúng nhưng chớ loan báo rộng rãi cho chúng tôi nhờ. Đề nghị đồng chí cho chúng tôi số tài khaonr của đồng chí để chúng tôi chia.
hoibmtose005

Hiện nay thí nghiệm SPT sử dụng rất nhiều. Khi có kết quả SPT lại sử dụng để phân loại trạng thái của đất sét. Đó là một sự khá mạo hiểm, nhiều bác cứ đồng nhất SPT với kết quả thí nghiệm xác định trạng thái ở trong phòng. Mong các bác cùng bàn luận vấn đề này.

Bạn đang xem: Thí nghiệm spt là gì


Thí nghiệm SPT trong đất sét. - Tư vấn Kết cấu, BTCT, thi công xây dựng Có 26 câu trả lời!! Trả lời

Bạn đừng nói như vậy! Qui luật sinh tồn đã giúp phương pháp tồn tại, tôi chỉ cần Khoan và rất ít khi đóng búa, rất nhanh rất hiệu quả, khoan 1 lổ đóng 1 lần với 1 lớp đất chưa hình dung được thôi,....Khoan 1 lổ kiếm 2 triệu là chuyện thường đó mà.Tuy nhiên phương pháp cũng còn hạn chế, tra bảng một cách mù mờ...Hi`...
taolaai

SPT chỉ chính xác đối với đất rờiRiêng với sét, nên phân theo cường độ kháng cắt không thoát nước [UU hay qu].
plantandzombi

Chắc mới ra trường, chưa sợ tai tiếng đây. Tôi chỉ hy vọng các bạn biết trân trọng nghề nghiệp của tôi.
thatgia
Bác thử giải thích rõ vần đề này như thế nào. Nhiều công trình không có tài liệu UU hay qu thì sẽ sử dụng thông số gì.


Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn [SPT] là thí nghiệm ngoài trời được thực hiện rất phổ biến hiện nay ở VN và các nước phương Tây. Ưu điểm của SPT là giá thành thấp, thao tác đơn giản và kết quả thí nghiệm phản ánh khá chính xác trạng thái của đất nền. Giá trị N30 thu được từ thí nghiệm SPT thường được sử dụng để tính toán sức chịu tải của móng coc. Người ta cũng sử dụng N30 để đánh giá trạng thái của đất, bên cạnh chỉ tiêu độ sệt được xác định trong phòng thí nghiêm. Nhìn chung thường có độ vênh nhỏ khi đánh giá trạng thái đất theo hai chỉ tiêu này, các kỹ sư khi thiết kế thường có xu hướng tin tưởng hơn vào thí nghiệm SPT do nó được thực hiện trực tiếp tại thực địa, ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan.Không thể nói SPT chỉ chính xác khi thí nghiệm trong đất cát mà không chính xác trong đất sét, chỉ đơn giản là trong đất cát không lấy được mẫu nguyên dạng và cũng không thể thí nghiệm được chỉ tiêu độ sệt nên bắt buộc phải lấy giá trị N30 để đánh giá trạng thái của đất. Thậm chí khi thí nghiệm SPT trong lớp cát nằm dưới mực nước ngầm, kết quả thu được sẽ phải hiệu chỉnh do cát dễ thoát nước làm tăng độ chặt cục bộ quanh mũi xuyên.Giá trị sức kháng cắt của đất [Su hay qu] thu được qua thí nghiệm cắt cánh VST hoặc thí nghiệm nén ba trục nhìn chung không được sử dụng để phân trạng thái của đất. Tuy nhiên kỹ sư thiết kế có thể sử dụng Su để đánh giá sơ bộ điều kiện đất nền công trình [cũng giống như với các chỉ tiêu hệ số rỗng, độ bão hòa, hệ số nén lún, mô đun tổng biến dạng,...]
AlbertDOB
Tôi đang cần tìm công ty thiết kế nhà tại Hải Phòng uy tín và đơn giá xây rẻ một chút. Các bạn có thể cung cấp cho tôi một số công ty để tôi tham khảo. Luckyman

Thêm 1 nhân vật mới, rất xứng đáng để các nhà khoa học phải học hỏi.Nhanh + hiệu quả + siêu rẻ!!!!!Hình như chạy án để đỡ cái tội khảo sát bố láo thì phải khoan 100 hố đo đỏ như vậy [lấy tiền gửi tiết kiệm phòng xa là vừa].
Theo tôi thì thí nghiệm SPT trong đất sét cũng cho độ tin cậy rất là cao. Tuy nhiên bạn không thể gọi trạng thái của đất theo N30 được giống như trong TCXD 226 : 1999 đề cặp được ?Tôi có câu hỏi đặt ra như thế này nhé : " Cùng một loại đất là sét, trạng thái thí nghiệm trong phòng là giống nhau nhưng khi thí nghiệm SPT đất đó ở độ sâu khác nhau chẳng hạn như ở 5m và 20m thì số búa N30 có giống nhau không ?"Xin mọi người cho ý kiến về vấn đề này.

Xem thêm: Erc20 Token Là Gì ? Tìm Hiểu Toàn Bộ Ví Erc20


Mạo hiểm là thế nào. May nhờ có SPT mới có cái kết hợp với thí nghiệm cắt phẳng mới có được sức kháng cắt không thoát nước tưong đối tin tưởng một chút khi không có thí nghiệm nén 3 trục. Đã ko có đồ xịn mà bạn cứ lấy sức kháng cắt bằng sigma tang phi + c đi nhé. Tiêu chuẩn Mỹ người ta đã xây dựng ra một loạt các công thức liên hệ giữa thí nghiệm hiện trường với tính chất cơ lý của đất. Bạn không tin cái đó thì định tin vào cái gì?
Wasabi "giá trị N/30cm của cùng loại đất [ko riêng đất sét] ở các độ sâu khác nhau thì sẽ: khác nhau."Vậy cho tôi hỏi thêm là giá trị N30 được hiệu chỉnh theo tất cả các yếu tố ảnh hưởng rồi mới tra bảng gọi trạng thái của đất, tôi thấy trong Phụ lục G TCXD 226 : 1999, có nói giá trị đối với đất cát tương ứng với giá trị áp lực bản thân là 1,44 kg/cm2, có phải tôi hiệu chỉnh rồi mới có thể gọi trạng thái của đất phải không ?Tuy SPT là thí nghiệm đơn giản, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm, nếu người thiết kế vừa có kinh nghiệm thực tế thì công việc tính toán không còn khó khăn lắm.
về mặt sách vở, đa số các công thức hay bảng tra sử dụng giá trị số đọc hiệu chỉnh N60 hoặc N70 [theo phần trăm của N ban đầu]. Tuy nhiên cũng cố một số công thức từ thời kỳ sơ khai [cách đây trên dưới nửa thế kỷ, như của Terzaghi hay Peck... gì gì đó] thì cũng có dùng số đọc N tại hiện trường.về mặt tiêu chuẩn, theo như tôi đọc thì tiêu chuẩn không đề cập gì đến hiệu chỉnh cả, có nghĩa là cứ dùng cái N30 đọc tại hiện trường rồi sử dụng các công thức hay bảng biểu mà tra. Tôi chưa có thời gian xác minh xem các công thức và bảng biểu này người viết tiêu chuẩn lấy reference từ đâu, có chính xác hay không. Có thể tác giả tiêu chuẩn đã hiệu chỉnh công thức hoặc bảng tra để người dùng TC không phải hiệu chỉnh chăng? Chắc phải hỏi cụ nào soạn tiêu chuẩn mới biết được. Mà đã là tiêu chuẩn thì chính xác rồi, confused: hề hề :. Đọc cái tiêu chuẩn TCXD 226 : 1999 này thấy một số chỗ không hiểu nổi. Có lẽ phải lập một topic về các lỗi, à quên các điểm chưa rõ để anh tôi thảo luận nhỉ. Ví dụ, tôi thấy có cái biểu đồ hình D-1 về cái quan hệ giữa tỷ số qc/N30 và thành phần hạt được lập dựa trên ít hơn 10 điểm số liệu, phân bố rải rác trên biểu đồ, chả biết lấy từ đâu, của cụ nào không biết, hệ số tương quan liệu có được tới 0,7 không mà cũng được chèn vào tiêu chuẩn. Hay ngay trong cái tiêu chuẩn này, thứ tự phân chia trạng thái độ chặt của cát cũng không thống nhất giữa bảng G-1 [xốp - chặt - chặt vừa - rất chặt] và hình G-1 [rất xốp - xốp - chặt vừa - chặt - rất chặt], chắc đây là lỗi đánh máy.Tự nhiên đọc cái tiêu chuẩn bạn Namgeo27 đề cập đâm ra tính thêm cáu bẩn nên nói năng hơi dài dòng, mong các bác thông cảm Ôi cái tiêu chuẩn XD Việt Nam.>
Đúng là cái thí nghiệm SPT tưởng chừng như đơn giản nhưng mà làm mệt đầu không biết bao nhiêu kĩ sư rồi không biết. thường thì theo tôi tiêu chuẩn chỉ để tham khảo cho vui mà thôi, nhưng đôi lúc nó lại bó buộc đối với những kĩ sư mới ra trường, nếu tôi hạn chế vào những gì mà người ta đặt ra và cố định cho là đúng, thì bản thân tôi không thể đi tới đâu được, chắc bạn Wasabi có kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực địa kĩ thuật lắm, trong quá trình làm và tìm hiểu thí nghiệm SPT cũng gần 2 năm, mà thấy chẳng hiểu được gì hết, lúc đầu thì biết nhưng đâm ra thấy hết biết gì luôn rồi. ở đây bàn về thí nghiệm SPT, tôi cũng đặt ra một câu hỏi cho vui nhé :"Làm sao xác định trạng thái của đất loại "cát mịn lẫn bụi" ở ngoài hiện trường theo SPT và thí nghiệm trong phòng ? "Câu hỏi tưởng chừng như dễ trả lời theo kiến thức học trong trường như theo tôi thì khó trả lời lắm mấy điểm sau :1. Theo SPT N30 số liệu thí nghiệm tra trực tiếp thì không ổn lắm vì N30 ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố lắm.2. Mẫu thí nghiệm mà đẩy ra được đâu còn nguyên dạng đâu.Mong mọi người bàn luận thêm về đề tài này
Dù bàn luận khá nhiều về hạn chế của tn SPT nhưng có 1 thực tế là thí nghiệm này được sử dụng phổ biến đến mức phổ thông trong công tác khảo sát đất hiện nay. Và chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của thí nghiệm này. Chẳng hạn thí nghiệm SPT trong đá Phong hóa cũng là vấn đề thực sự quan tâm hiện nay trong điều kiện máy móc thiết bị dùng cho khảo sát đất còn nhiều hạn chế.Bên cạnh đó tn này cũng bị lạm dụng trên mức cần thiết. ví dụ: Sử dụng N30 tính toán được N60 theo sự hiệu chỉnh năng lượng hữu ích để tính sức chống cắt ko thoát nước trong đất dính là Su. Thực tế tôi lập rất nhiều tương quan của cách tính này đêm so sánh Su từ thí nghiệm 3 trục UU, Su từ cắt cánh hiẹn trường cho cùng 1 dự án, kết quả là quá phân tán. Nếu sử dụng kết quả này để định tính thì may ra..Bạn namgeo27 có thể tham khảo thí nghiệm này của tác giả Vũ Công Ngữ, Nguyễn thái . tôi ko có bản mềm gửi bạn. Hoặc bạn đọc trong các công thức tính của 22TCN272-05.
Tôi có một thắc mắc là khi khảo sát và thí nghiệm theo tiêu chuẩn ASTM, BS hoặc TCVN 5747-1993 thì độ sệt [tính như bình thường Il = [W-Wl]/[Wl-Wp] ] không dùng để phân loại trạng thái của đất được do cái Wl không TN kiểu xuyên côn thăng bằng mà thí nghiệm theo Casagrande phải không các Bác, nên chỉ có nước sử dụng cái SPT thôi và theo tôi nghĩ cứ dùng cái N30 ở hiện trường tra bảng là ra trạng thái [của đất dính] và kết cấu [của đất rời]. Nhân đây cũng xin hỏi Bác nào có tài liệu nói về việc sử dụng độ sệt [theo ASTM hoặc BS hoặc TCVN 5747-1993] thì cho tôi ngó tí, cám ơn nhều.
TCVN 4197:1995 "Đất xây dựng - Phương pháp xác định giới hạn dẻo và giới hạn chảy" thì giới hạn chảy xác định bằng phương pháp quả dọi thăng bằng đấy chứ, đâu phải theo Casagrande. Tuy nhiên, tiêu chuẩn cũng đưa ra công thức để chuyển đổi giới hạn chảy theo 2 phương pháp trên.Phân loại trạng thái đất theo B [hay Il] chỉ thấy trình bày trong các giáo trình Cơ học đất, còn trong tiêu chuẩn VN thì không thấy đề cập đến.
đính chính: độ sệt [LI] = [W-Wp]/[WL-Wp]vẫn dùng để đánh giá trạng thái như thường, có điều trong các tiêu chuẩn các bạn tây không đả vào thôi bởi tiêu chuẩn không yêu cầu, cả TCVN 4197:1995 cũng vậy [theo bạn dungquat2007], họ còn thông qua su hay qu để đánh giá trạng thái chứ ko riêng gì chỉ số tn SPT. Thực tế họ còn có cả công thức kinh nghiệm giữa cái LI với su cơ. Việc gọi tên trạng thái cũng mang tính mô tả là chính, còn khi thiết kế thì chỉ tiêu cụ thể về cường độ mới quan trọng. Tất nhiên theo tiêu chuẩn thiết kế của của ta, một số thông số tra bảng có phụ thuộc vào trạng thái đất, bởi thế mà sinh ra cứng, mềm, chảy... bạn nào rỗi kiểm tra lại sẽ thấy trong tiêu chuẩn cũ 45-78 vẫn dùng.Cái tiêu chuẩn TCVN 4197:1995 là sự kết hợp linh hoạt và hoàn hảo giữa tây và ta, cách phân loại cũng khác cũ làm cho các bạn thiết kế nhiều khi phải tự phân loại lại theo tc cũ để tra bảng. Riêng cái 2 pp Cassagrande và Vaxiliep về cách tn khác hẳn nhau, nếu có công thức chuyển đổi thì CT phải được cập nhật liên tục dựa trên kinh nghiệm [nó ko chỉ phụ thuộc vào số lần tn mà còn phụ thuộc vào loại đất]. Tôi đã từng đọc có một số bài báo viết về so sánh giữa 2 phương pháp này, nhiều người lấy phương pháp Vaxilliep làm chuẩn rồi hiệu chỉnh kết quả của pp Cassagrande, thật chả hiểu nổi. Theo tôi: Thiết bị thí nghiệm - phương pháp thí nghiệm - phương pháp phân loại - tiêu chuẩn thiết kế và cả kiểm tra nghiệm thu là một thể thống nhất, tránh râu ông nọ cắm cằm bà kia.có hơi đụng chạm tí đến chuẩn, mong các bác thông cảm
Vâng đúng là TCVN 4197:1995 nói việc TN giới hạn chảy theo 2 PP Vaxiliep và Casagrande nhưng tôi thấy thắc mắc mấy vấn đề sau:- Thí nghiệm theo Casagrande nhưng lại lấy đất có kích thước hạtkiencangoopt
Đôi lời góp ý với các bạn.- Thí nghiệm SPT chỉ dùng trên đất hạt rời mà thôi. Nó được dùng từ cách đây trăm năm rồi. Khi đó người ta liên hệ các kết quả SPT với trạng thái đất. Những liên hệ này không có ý nghĩa vật lý gì cả. Chúng vẫn được dùng chẳng qua do tiện lợi mà thôi.- Cần chú ý là kết quả SPT không được dùng để phân tích đất dính. SPT đơn thuần chỉ để lấy mẫu đất cho phân loại mà thôi.- Tuy nhiên, thí nghiệm Atterberg limits và thí nghiệm fall cone để xác định Wl, Wp, Ip, Il thì có ý nghĩa vật lý. Thực ra cũng rất đơn giản:Qua rất nhiều thí nghiệm, ta có+ Cu tại liquit limit Il ~2kPa+ Cu tại plastic limit Ip ~ 200kPaNếu vẽ đồ thị Il versus Cu, thì có ngay kết quảCu~2*100^[1-Il]suy ra sigma_v~8*100^[1-Il] Cho đất dính nhưng không senstive:có thể chứng minh được là lamda=Ip*Gs/ln100nếu Gs=2.7, thì lamda=0.6Ip Slope of NCL = Cc = lamda*ln10= 2.3*lamda--Cho đất sensitve [chủ yếu tịa vùng Scandivia, đất của họ là marine clay, bị muối thấm vào nên tính chất bị ảnh hưởng] Gọi hệ số R= Cp/ClTừ đó có lamda=Ip*Gs/LnRCu=Cl*R^[1-Il]Hệ số St=Cu/Cur đóng vai trò chủ chốt trong việc nhận định tính sensitivity của đất dính. Cur là remoulded undrained strength. Hệ số này càng cao thì đất càng senstive
"Nhìn chung sử dụng SPT hiện nay rất phổ biến vì tiện dụng, hiệu quả. SPT có khả năng tiến hành ở độ sâu lớn và lấy được mẫu lên, điều đó không có ở xuyên tĩnh. Tuy nhiên vẫn có mặt hạn chế, thí nghiệm trong đất dính thường chỉ để tham khảo, chớ có sử dụng SPT để xác định trạng thái,... đi tù ngay! "- Thứ nhất thông nhất quan điểm với bác thí nghiệm SPT ở độ sâu lớn còn xuyên tĩnh max cũng được 30m là OK. - Thứ hai Tiêu chuẩn SPT xuất phát từ Hiệp hội cầu đường Mỹ và đã được áp dụng khá phổ biến ở trên thế giới. Trong Tiêu chuẩn xây dựng 226 -1999 cũng đã đưa ra thí nghiệm SPT nhằm đánh giá trạng thái của đất dính và đất rời. Ở đây có hai vấn đề đặt ra:+ Đối với thí nghiệm này yêu cầu khoan đối với thiết bị và phương pháp khoan như thế nào? Điều kiện trước khi tiến hành thí nghiệm như thế nào? Thiết bị thí nghiệm và chiều cao rơi của búa? Tay nghề kíp trưởng.... Vì vậy đối với các công trình hiện nay khoan ở Việt Nam hầu như thí nghiệm SPT chỉ là hình thức bởi vì bị "sai số cộng dồn". Nên thí nghiệm này vì sao ở nước ta đều khuyến cáo là giá trị tham khảo còn đánh giá trạng thái bắt buộc phải theo thí nghiệm trong phòng. + Vấn đề thứ hai Bác có nói một Chi ở 91 Phùng Hưng mô tả đất ở tầng VĨnh Phúc trạng thái dẻo mềm. Hiiiii nói cho vui Bác nhé có lẽ kinh nghiệm chưa nhiều cứ theo thí nghiệm SPT mà mô tả. Thực tế trạng thái của đất khi lấy mẫu nên chỉ cần nhìn màu sắc của mẫu có thể đánh giá tương đối trạng thái của đất rồi. Vì mầu sắc của đất liên quan đến nguồn gốc thành tạo mà.
nói gì thì nói, cái thí nghiệm SPT này cũng góp phần nuôi khối kỹ sư ĐCCT nhỉ >SPT muôn năm! just CHEERs!
Sao người ta không sử dụng các tham số thí nghiệm trong phòng và các thí nghiệm hiện trường khác để xác định giá trị SPT nhỉ ?
bác Ngọc đặt câu hỏi thế là ý gì nhỉ? bởi người ta vẫn làm, làm nhiều là khác, mà chắc chắn bác biết người ta làm như thế nào . Nhiều cao nhân chỉ cần thông số mô tả để xác định SPT.

Xem thêm: Hiện Tượng Đa Cộng Tuyến Là Gì, Làm Thế Nào Để Nhận Dạng


Đồng chí GEOTEK nói đúng với quan điểm của đa số dân Địa kỹ thuật Âu Mỹ nhưng không đúng với quan điểm của Nhật và Chủ đầu tư và Nhà thầu khảo sát.Cứ như đồng chí thì chỉ cần làm SPT ở cát thôi à. Nếu thế thì chúng tôi móm nặng. Có thể đồng chí đúng nhưng chớ loan báo rộng rãi cho chúng tôi nhờ. Đề nghị đồng chí cho chúng tôi số tài khaonr của đồng chí để chúng tôi chia.
hoibmtose005

Mục lục

Tóm tắt quy trìnhSửa đổi

Thí nghiệm sử dụng một ống mẫu thành mỏng với đường kính ngoài 50mm, đường kính trong 35mm, và chiều dài 650mm. Ống mẫu này được đưa đến đáy lỗ khoan sau đó dùng búa trượt có khối lượng 63,5kg cho rơi tự do từ khoảng cách 760mm. Việc đóng ống mẫu được chia làm ba nhịp, mỗi nhịp đóng sâu 150mm tổng cộng 450mm, người ta sẽ tính số búa trong mỗi nhịp và chỉ ghi nhận tổng số búa trong hai nhịp cuối và hay gọi số này là "giá trị N". Trong trường hợp sau 50 búa đầu mà ống mẫu chưa cắm hết 150mm thì người ta chỉ ghi nhận 50 giá trị này. Số búa phản ảnh độ chặt của nền đất và được dùng để tính toán trong địa kỹ thuật.

Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [588.1 KB, 16 trang ]

MỤC LỤC
I. Khái quát về thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT...................................................................................2
1.Khái niệm ...........................................................................................................................................2
2. Mục đích của thí nghiệm SPT............................................................................................................2
3. Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm [xem hình 1, 2] ...............................................................................3
II. Trình tự thí nghiệm.............................................................................................................................6
III. Xử lý kết quả thí nghiệm....................................................................................................................7
IV. Sử dụng kết quả SPT cho các mục đích sau.......................................................................................7
1. Đối với đất rời.....................................................................................................................................7
2.Đối với đất dính...................................................................................................................................8
3.Tính sức chịu tải của cọc theo kết quả xuyên tiêu chuẩn [Trích Phụ lục C, TCXD 205:1998, Hà Nội,
1998]......................................................................................................................................................8
V. Những lưu ý khi sử dụng kết quả thí nghiệm SPT...............................................................................9
VI. Ví dụ................................................................................................................................................10

PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG SỐ LIỆU THÍ NGHIỆM XUYÊN TIÊU
CHUẨN [STANDARD PENETRATION TEST - SPT]
I. Khái quát về thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT
1. Khái niệm
- Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn, viết tắt là SPT theo từ tiếng anh – Standard
Penetration Test là một trong các phương pháp thí nghiệm xuyên tại hiện trường nhằm
cung cấp thông tin về đặc tính cơ lý của đất nền phục vụ các công trình khác nhau.


- Thí nghiệm được tiến hành bằng cách đóng một mũi xuyên có dạng hình ống
mẫu vào trong đất từ đáy một lỗ khoan đã được thi công phù hợp cho thí nghiệm. Quy
cách mũi xuyên, thiết bị và năng lượng đóng đã được quy định. Số búa cần thiết để
đóng mũi xuyên vào đất ở các khoảng độ sâu xác định được ghi lại và chỉnh lý. Đất
trong ống mẫu được quan sát, mô tả, bảo quản và thí nghiệm như mẫu đất xáo động.
- Sức kháng xuyên SPT, viết tắt là N [đối với tài liệu này], là số búa cần thiết để
đóng mũi xuyên vào trong đất nguyên trạng 30cm.
- Sử dụng khi khảo sát địa chất công trình trong điều kiện địa tầng phức tạp,
phân bố luân phiên các lớp đất dính và đất rời hoặc bao gồm chủ yếu các lớp đất rời
với độ chặt, thành phần hạt khác nhau.
Trong bài tham luận này quy trình thí nghiệm được thực hiện theo tiêu chuẩn Viêt
Nam TCVN 9351 - 2012
2. Mục đích của thí nghiệm SPT
Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn [SPT] được tiến hành trong suốt quá trình khoan
khảo sát. Kết quả thí nghiệm là giá trị N [số búa] dùng để đánh giá các thông số sau
của đất nền:
- Độ chặt tương đối của đất loại cát.
- Trạng thái đất loại sét.
- Độ bền của đất loại sét ở trạng thái ứng suất một trục
- Cung cấp chỉ số N để dùng tính toán thiết kế móng cọc.
- Lấy mẫu rời dùng để thí nghiệm xác định 1 số chỉ tiêu vật lý [độ ẩm, trọng
lượng riêng, thành phần hạt,…]
Ưu điểm của thí nghiệm SPT là thiết bị đơn giản, thao tác, ghi chép và xử lý kết
quả dễ dàng, dùng cho nhiều loại nền đất, kết hợp lấy mẫu đất và có khả năng thực

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 2



QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

hiện thí nghiệm ở độ sâu lớn đối với đất rời không thể thực hiện lấy mẫu nguyên dạng,
thông số thí nghiệm SPT dùng để tính toán sức chịu tải của đất nền.
Nhược điểm của thí nghiệm SPT là đường kính nhỏ nên không thể đủ kích thước
mẫu cho thí nghiệm cắt và nén.
Thí nghiệm này được sử dụng nhằm cung cấp số liệu cho thiết kế móng sâu công
trình.
3.

Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm [xem hình 1, 2]
1/ Ống mẫu tách đôi [phần thân]: có đường kính trong φ = [38 ± 1.5]mm, đường

kính ngoài φ = [51 ± 1.5]mm, chiều dài L = [450 ÷ 750]mm bao gồm ren ngoài ở 2
đầu.
2/ Lưỡi vát [phần mũi]: Chiều dài L = [25 ÷ 75]mm không bao gồm ren trong để
nối ống mẫu, đường kính ngoài φ = [51 ± 1.5]mm, đường kính trong φ = [35 ±
0.15]mm, bề dày lưỡi vát D = [2.5 ± 0.25]mm, gốc vát lưỡi cắt G = 160 ÷ 230.
3/ Đầu nối [phần đầu]: Chiều dài L = 152mm không bao gồm ren trong để nối với
ống mẫu và cần khoan, đường kính ngoài φ = [51 ± 1.5]mm, đường kính trong φ =
35mm. Tại đây có viên bi, lỗ thoát hơi [φ = 13mm] để giữ chân không bên trong đầu
xuyên, hạn chế tụt mẫu trong quá trình nâng hạn mũi xuyên và để thoát hơi, nước
trong quá trình xuyên.
4/ Búa [hay quả tạ]: Trọng lượng G = [63,5 ± 1.0] kg.
5/ Cần trượt định hướng: Ren ngoài để nối vào cần khoan, mặt bích [đế nện] dày để
khống chế búa rơi tự do ở độ cao [76 ± 2.5] cm.

Thiết bị và dụng cụ được sản xuất bằng thép tốt, không bị biến dạng khi va đập.

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 3


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

3. Đầu nối

2. Lưỡi vát
1. Ống mẫu tách đôi

Hình 1: Bộ đầu xuyên tiêu chuẩn SPT

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 4


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01


4. Tạ nặng 63.5 kg
5. Cần trượt định hướng

Hình 2: Bộ dụng cụ thí nghiệm SPT bao gồm bộ búa đóng, cần
đóng và ống xuyên

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 5


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

II. Trình tự thí nghiệm
Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn tiến hành đồng thời với khoan khảo sát địa chất
công trình. Tùy thuộc mức độ phức tạp của cấu trúc địa chất [mức độ phân chia các
lớp đất] mà trong mỗi khoảng độ sâu từ 1 - 3m [trung bình 1,5m] thực hiện đóng SPT
một lần, trình tự thí nghiệm như sau:
- Rửa sạch đáy lỗ khoan [công tác lấy mẫu nguyên dạng đã thực hiện trước đó],
lắp ống xuyên vào cần đóng. Ống xuyên được đưa đến đáy lỗ khoan sau quá trình nối
các cần đóng bởi các ren nối, đồng thời xác định lại độ sâu thí nghiệm.
- Chọn điểm chuẩn, dùng búa đóng sâu vào trong đất 450mm so với điểm chuẩn
đó và được chia làm 3 lần mỗi lần ngập 150mm. Ghi số nhát búa của 3 lần ngập, số
nhát búa của 2 lần cuối [30cm] là sức kháng xuyên tiêu chuẩn [hay giá trị N]. Không
tính số nhát búa lần đầu bởi các lý do sau:

+ Đáy lỗ khoan không sạch [vẫn còn mùn khoan] do quá trình nâng hạ bộ
cụ thí nghiệm hoặc vệ sinh không sạch trước khi thí nghiệm.
+ Kết cấu lớp đất mỏng ở đáy lỗ khoan đã bị phá hủy
- Lấy ống xuyên lên, đồng thời lấy mẫu lưu hay có thể lấy mẫu không nguyên
trạng để phân tích chỉ tiêu vật lý.
Trong trường hợp lớp đất thí nghiệm đóng 50 búa đầu mà ống xuyên chưa cắm
hết 150 mm thì người ta chỉ ghi nhận N > 50 [đối với đất cát]. Trường hợp đóng 30
búa đầu mà ống mẫu chưa cắm hết 150 mm thì người ta chỉ ghi nhận N > 30 [đối với
đất loại sét]. Trong những lớp đất này, tùy theo yêu cầu của thiết kế mà chúng ta có thể
lấy độ xuyên sâu [cm] của ống xuyên ở giá trị N = 50 hoặc N = 30.
Số búa N phản ảnh độ chặt [đối với đất rời] và trạng thái [đối với đất dẻo] của
đất nền và được dùng để tính toán nền móng công trình. Thông thường kết hợp khoan
lấy mẫu địa chất công trình và thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn tại cùng một vị trí.
Trong quá trình thí nghiệm xác định chiều sâu mực nước dưới đất đảm bảo luôn
lớn hơn mực nước ngầm. Đối với kỹ sư giám sát thí nghiệm SPT cần chú ý đến:
khoảng đo 150mm của thí nghiệm, tốc độ đóng búa và đầu ren nối giữa các cần khoan.
Vì đây là các nguyên nhân thường dẫn đến sai số trong thí nghiệm SPT.
‫ ٭‬Một số hình ảnh thí nghiệm SPT [xem phụ lục C]

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 6


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01


III. Xử lý kết quả thí nghiệm
Trong đất cát hạt mịn, số lần đóng búa cần thiết để hạ ống mẫu tiêu chuẩn
xuống độ sâu 30 cm cuối có thể thay đổi tùy thuộc vào độ sâu mực nước ngầm. Nếu N
là số nhát búa thực hiện để hạ ống mẫu xuống 30 cm cuối ở độ sâu dưới mực nước
ngầm trong đất cát hạt mịn thì giá trị N' cần được hiệu chỉnh theo công thức sau
của Terzaghi và Pek :
N' = 15 + ½[ N - 15]
Hiệu chỉnh theo độ sâu:
N' = N + 35/[7 + γh]
Trong đó:
N : chỉ số búa đóng thực tế
N' : chỉ số búa hiệu chỉnh
h : chiều sâu thí nghiệm [m]
γ : dung trọng [T/m³] trên mực nước ngầm. Dưới mực nước ngầm sử dụng γ' đẩy nổi.
Khi lập cột địa tầng lỗ khoan địa chất công trình có thí nghiệm SPT, tiến hành
vẽ biểu đồ biến đổi giá trị N theo chiều sâu thí nghiệm.
IV. Sử dụng kết quả SPT cho các mục đích sau
- Phân chia địa tầng, phát hiện các lớp kẹp, các thấu kính đất hạt rời, phân biệt
đất hạt rời với chế độ chặt khác nhau theo diện và theo chiều sâu, xác định định chiều
sâu dừng khảo sát....
1. Đối với đất rời
- Đánh giá độ chặt tương đối, góc ma sát trong và Module biến dạng của đất rời
rạc không kết dính [Trích Phụ lục E, tr.16, TCVN 9351:2012, Hà Nội, 2012].
Giá trị N [số

Độ chặt tương đối

búa]

của cát


< 10
10 - 30
30 - 50
> 50

Xốp [rời rạc]
Chặt vừa
Chặt
Rất chặt

Độ chặt
tương đối
[%]
< 30
30 - 60
60 - 80
> 80

Góc ma sát
trong φ [0]
25 ÷ 30
30 ÷ 32.3
32.3 ÷ 40
40 ÷ 45

- Xác định module biến dạng E0 [Mpa] [Trích Phụ lục E, tr.16-17, TCVN
9351:2012, Hà Nội, 2012].

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI

HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 7


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

Trong đó:
a là hệ số, được lấy bằng 40 khi N > 15; lấy bằng 0 khi N < 15
c là hệ số, được lấy phụ thuộc vào loại đất:
+ c = 3.5 với đất cát mịn
+ c = 4.5 với đất cát trung
+ c = 7.0 với đất cát thô
+ c = 10.0 với đất cát lẫn sạn sỏi
+ c = 12.0 với đất sạn sỏi lẫn cát
2. Đối với đất dính
- Xác định độ sệt và độ bền nén có nở hông theo SPT [Trích Phụ lục E, tr.17, TCVN
9351:2012, Hà Nội, 2012].
Giá trị N [số búa]

Độ sệt

30

Chảy
Dẻo - chảy
Dẻo
Cứng
Rất cứng
Rắn

Độ bền nén có nở hông
qu [Mpa]
< 0.025
0.025 ÷ 0.050
0.050 ÷ 0.100
0.100÷ 0.200
0.200÷ 0.400
> 0.400

3. Tính sức chịu tải của cọc theo kết quả xuyên tiêu chuẩn [Trích Phụ lục C,
TCXD 205:1998, Hà Nội, 1998].
a. Sức chịu tải cực hạn của cọc trong đất rời tính theo công thức của Meyerhof
[1956]
Qu = K1NAp + K2NtbAs
Trong đó:
N: chỉ số SPT trung bình trong khoảng 1d dưới mũi cọc và 4d trên mũi cọc,
trong đó d là kích thước cạnh tiết diện hoặc đường kính tiết diện cọc
Ap: Diện tích tiết diện mũi cọc, m2
Ntb: chỉ số SPT trung bình dọc thân cọc trong phạm vi lớp đất rời
As: Diện tích mặt bên cọc trong phạm vi lớp đất rời, m2
K1: hệ số, lấy bằng 400 cho cọc đóng và bằng 120 cho cọc khoan nhồi


CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 8


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

Hệ số an toàn áp dụng khi tính toán sức chịu tải của cọc theo xuyên tiêu chuẩn
lấy bằng 2.5 ÷ 3.0
b. Sức chịu tải cực hạn của cọc tính theo công thức Nhật Bản
Qa = {αNaAp + [0.2NsLs + CLc]πd}/3
Trong đó:
Na: chỉ số SPT của đất dưới mũi cọc
Ns: chỉ số SPT của đất cát bên thân cọc
Ls: chiều dài đoạn cọc nằm trong đất cát, m
Lc: chiều dài đoạn cọc nằm trong đất sét, m
α: hệ số, phụ thuộc vào phương pháp thi công
+ Cọc bê tông cốt thép thi công bằng phương pháp đóng: α = 30
+ Cọc khoan nhồi: α = 30
V. Những lưu ý khi sử dụng kết quả thí nghiệm SPT
- Thí nghiệm SPT dễ thực hiện, có thể thực hiện được ở độ sâu lớn, chí phí thấp.
- Phương pháp thí nghiệm là phương pháp động nên phù hợp với biện pháp thi
công cọc bằng phương pháp cọc đứng.
- Đối với đất dính xen kẹp đất rời, thí nghiệm SPT cho kết quả chính xác hơn thí
nghiệm trong phòng.

- Đối với đất rời sức chịu tải của đất nền tính bằng kết quả thí nghiệm SPT chính
xác hơn thí nghiệm trong phòng.
- Những công trình có tải trọng lớn móng công trình cần đặt sâu trong đất nền,
công tác khảo sát nên có thí nghiệm SPT.
- Hiện nay kết quả thí nghiệm SPT thể hiện trong các báo cáo khảo sát thường
chưa hiệu chỉnh nên trong khi dùng số liệu SPT để tính toán cần hiệu chỉnh trước khi
dùng. Đối với đất rời công tác tính toán sức chịu tải nên dùng kết quả thí nghiệm SPT
để tính.
- Đối với những khu vực khảo sát trong lớp đất dính thường xen kẹp đất rời
[những nơi như Bến Tre, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long trong tầng sét dẻo mềm,
sét dẻo cứng thường xen kẹp cát mịn] cần có khối lượng thí nghiệm SPT.

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 9


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

VI. Ví dụ
Ví dụ sau đây phân biệt sự khác nhau về giá trị độ sệt B giữa thí nghiệm xuyên
tiêu chuẩn [SPT] ở hiện trường và thí nghiệm trong phòng. Tại công trình: Cống kiểm
soát triều Vàm Thuật [xem phụ lục C hình ảnh]
-

Vị trí hố khoan TKVT2 [Xem phụ lục A và phụ lục B – hố khoan TKVT2]

+ Tại độ sâu 20.8 ÷ 21.45m, mẫu nguyên dạng ND7 hố khoan TKVT2, địa tầng

sét pha. Kết quả thí nghiệm trong phòng độ sệt B = 0.41 – trạng thái của đất là dẻo
cứng, trong khi đó số búa SPT hiện trường N = 17 – trạng thái của đất là nửa cứng.
-

Vị trí hố khoan TKVT5[Xem phụ lục A và phụ lục B – hố khoan TKVT5]
+ Tại độ sâu 29.8 ÷ 30.45m, mẫu nguyên dạng ND10 hố khoan TKVT5, địa tầng

sét pha. Kết quả thí nghiệm trong phòng độ sệt B < 0 – trạng thái của đất là cứng,
trong khi đó số búa SPT hiện trường N = 17 – trạng thái của đất là nửa cứng.

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 10


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

PHỤ LỤC

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 11



QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 12


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

Hình 1: Đang thực hiện thí nghiệm SPT

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 13


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01


Hình 2: Đang thực hiện thí nghiệm SPT

Hình 3: Mở ống mẫu SPT sau khi thực hiện thí nghiệm

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 14


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

Hình 4: Mở ống mẫu SPT sau khi thực hiện thí nghiệm

Tài liệu tham khảo
[1.] TCVN 9351 : 2012 Đất xây dựng – phương pháp thí nghiệm hiện trường – thí
nghiệm xuyên tiêu chuẩn [SPT], Hà Nội, 2012
[2.] Bùi Trường Sơn, Địa chất công trình, Đại học Quốc gia Tp HCM, 2009
[3.] Trần Thanh Giám, Địa kỹ thuật thực hành, Nhà xuất bản xây dựng Hà Nội, 2000
[4.] Trần Văn Việt, Cẩm nang dùng cho kỹ sư địa kĩ thuật, Nhà xuất bản xây dựng Hà
Nội, 2004.
[5.] Nguyễn Văn Thông, Bài tập cơ học đất, Nhà xuất bản giáo dục, 2011
[6.] Võ Ngọc Hải, Báo cáo khảo sát địa chất, Công ty Tư Vấn & CGCN – Trường ĐH
Thủy Lợi – CN Miền Nam, 2012

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM


Trang 15


QUI TRÌNH HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ
TẬP 13: HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT
Hướng dẫn sử dụng số liệu thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
Số hiệu: HD – 17 – 13 - 01

CÔNG TY TƯ VẤN & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THỦY LỢI – CHI NHÁNH MIỀN NAM

Trang 16



ĐẤT XÂY DỰNG – PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG – THÍ NGHIỆM XUYÊN TIÊU CHUẨN [SPT]

Soils – Field testing method – Standard penetration test

TCVN 9351:2012 vày Viện Khoa học tập Công nghệ Xây dựng – Sở Xây dựng soạn, Bộ Xây dựng ý kiến đề xuất, Tổng viên Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thẩm định và đánh giá, Sở Khoa học tập với Công nghệ công bố.

Bạn đang xem: Thí nghiệm spt là gì

TCtoàn nước 9351:2012 – Thí nghiệm SPT

Một trong số phương pháp khảo sát địa hóa học dự án công trình phục vụ kiến thiết những dự án công trình không giống nhau. Thí nghiệm được thực hiện bằng phương pháp đóng góp một mũi xuyên ổn gồm những thiết kế ống chủng loại vào vào khu đất từ lòng một lỗ khoan đã có kiến tạo cân xứng mang đến phân tích. Quy giải pháp mũi xuim, thứ với năng lượng đóng đã có được pháp luật. Số búa quan trọng để đóng góp mũi xuyên ổn vào đất nghỉ ngơi các khoảng độ sâu xác minh được khắc ghi với chỉnh lí. Đất cất trong ống mẫu mã được quan lại sát, biểu lộ, bảo quản cùng phân tích như thể mẫu mã đất xáo rượu cồn.

Sức phòng xuim tiêu chuẩn [Standard Penetration resistance], NsptSố búa cần thiết nhằm đóng mũi xuyên vào trong khu đất nguyên ổn trạng 30 centimet cùng với quy biện pháp trang bị với cách thức phân tích chính sách nhỏng sống Điều 5 cùng Điều 6.

Thí nghiệm SPT buộc phải được thực hiện Khi điều tra khảo sát địa hóa học công trình vào ĐK địa tầng tinh vi, phânbố luân chuyển các lớp khu đất dính cùng đất tránh hoặc bao gồm đa phần các lớp đất tránh cùng với độ chặt, thành phần hạtkhác biệt.

Khối lượng rõ ràng của phân tách SPT với tương quan thân SPT cùng với những phương thức khảo sát không giống vào quá trình điều tra được xác minh theo các luật vào TCcả nước 4419:1987 với TCcả nước 9363:2012 hoặc những tiêu chuẩn chỉnh liên quan khác.

Phần mũi xuyên là phần bên dưới thuộc của đầu xulặng dùng để cắt Khi xuyên vào khu đất. Các đặc trưng cơ bạn dạng của mũi xuim nhỏng sau:– Chiều lâu năm trường đoản cú 25,0 mm mang đến 75,0 mm;– Đường kính vào bằng [35,0 ± 0,15]mm;– Bề dày lưỡi cắt bởi [2,5 ± 0,25] mm;– Góc vạt lưỡi giảm từ bỏ 16,0° mang lại 23,0°

Phần thân của đầu xuim lâu năm từ 450 mm mang đến 750 milimet dùng để làm đựng đất khí mũi xuyên ổn xulặng vào khu đất.Phần thân gồm hai nửa buôn bán nguyệt ốp lại thuận lợi mang lại thao tác dỡ gắn thêm Khi rước khu đất đựng trong chúng ra bên ngoài.Hai đầu của ống phần thân có ren kế bên để thêm ráp cùng với phần mũi và phần đầu nối.Phần đầu nối của đầu xulặng dùng làm nối đầu xuyên ổn với buộc phải khoan, bao gồm chiều nhiều năm mang đến 175 milimet. Tại đây cótổ chức cơ cấu bi, lỗ thoát tương đối để lưu lại chân ko phía bên trong đầu xuim, tinh giảm tụt mẫu mã vào quy trình nâng hạ mũi xuyên với để tránh hơi, nước vào quá trình xulặng.

TCtoàn nước 9351:2012 – Thí nghiệm xulặng tiêu chuẩn chỉnh SPT

Phương thơm pháp thí nghiệm1 Thí nghiệm SPT bao hàm lần lượt các quá trình sau trên từng địa chỉ thí nghiệm:a] Khoan tạo nên lỗ đến độ sâu đề xuất phân tích cùng rửa sạch lòng hố khoan;b] Tiến hành thí nghiệm;c] Quan ngay cạnh và mô tả.Các công việc bên trên lại được tiếp tục sinh hoạt những độ sâu tiếp sau. Thí nghiệm được triển khai thứu tự ở một m cho 3 mđộ sâu cho tới độ sâu quan trọng tuỳ theo mục tiêu khảo sát cùng tính tinh vi của địa tầng.

2 Lúc khoan tạo nên lỗ, những cách thức khoan sau có thể được áp dụng:– Khoan guồng xoắn;– Khoan luân chuyển cùng với nước cọ bởi nước hoặc dung dịch sét.Để rời sập thành hố khoan, Lúc yêu cầu các ống kháng vách rất có thể được sử dụng.Lỗ khoan phải đúng địa chỉ, trực tiếp đứng, đường kính đủ phệ từ 55 milimet mang lại 163 mm. Thành hố khoan buộc phải ổn định định

với giảm bớt đến mức tối nhiều hủy hoại đất làm việc lòng hố khoan.

2.1 Khi khoan ngơi nghỉ độ sâu hạn hẹp, bên trên mực nước ngầm đề nghị sử dụng khoan guồng xoắn. Sử dụng ốngkháng, giả dụ có mặt đất yếu hèn, đất có kết cấu không chặt nhằm tách sập thành hố khoan.

2.2 Lúc khoan bên dưới mực nước ngầm buộc phải áp dụng khoan chuyển phiên với nước cọ bằng nước vào đất dính cùng vớinước cọ bởi hỗn hợp sét vào đất rời.

2.3 Trong quá trình khoan phải liên tục theo dõi vận tốc khoan, Điểm sáng dung dịch khoan nhằm nhấn biếtđúng lúc sự đổi khác địa tầng với quyết định phù hợp độ sâu thử nghiệm. Mực dung dịch khoan phải luôn luôn luôn luôn nằmbên trên mực nước ngầm.

2.4 lúc khoan ngay gần tới độ sâu nghiên cứu, phải bớt tốc độ khoan, thao tác nâng, hạ thanh thanh nhằm mục đích hạn chếvề tối nhiều sự phá hoại tính nguim trạng của đất mặt dưới hố khoan, có tác dụng sai lệch công dụng xem sét.

2.5 lúc vẫn khoan mang đến độ sâu xem sét, tiến hành vét lòng hố khoan, kiểm soát độ sâu, độ ổn định của thành hốkhoan. Lúc quan trọng, hoàn toàn có thể cọ và có tác dụng sạch sẽ đáy hố khoan bằng phương pháp tuần trả dung dịch khoan.

Xem thêm: Cách Xem Pass Wifi Trên Ipad Mới Nhất, Cách Xem Pass Wifi Trên Iphone Ipad Mới Nhất

2.6 Khi hố khoan sẽ đầy đủ độ sâu, đáy đã sạch, thành vách ổn định, triển khai rút lưỡi khoan lên và thay thế nóbằng đầu xulặng.

3 Thí nghiệm bắt đầu Khi mũi xulặng vẫn đạt tới mức lòng hố khoan, đúng độ sâu thử dùng mà không chạm mặt ngẫu nhiên cảntrngơi nghỉ nào do sập thành. Thí nghiệm tiến hành nhỏng sau:

3.1 Lắp cỗ búa đóng góp với kiểm soát kĩ năng gắp nhả, độ dài rơi tự do của búa. Tkhô giòn triết lý phải thẳngđứng, ổn định với đồng trục với hệ bắt buộc khoan.

3.2 Chọn điểm chuẩn chỉnh và đo trên nên khoan cha đoạn tiếp tục, mỗi đoạn nhiều năm 15 centimet, tổng cộng là 45 cm phíabên trên điểm chuẩn chỉnh để địa thế căn cứ vào kia xác minh sức kháng xuyên.

3.3 Đóng búa. Chụ ý chiều cao rơi của búa, độ thẳng đứng của tkhô cứng dẫn phía.

3.4 Đếm với ghi số búa cần thiết nhằm hệ mũi xuim đề xuất khoan xulặng vào đất mỗi đoạn 15 centimet đang vén trước trêncần khoan.

3.5 Lúc số búa đóng góp quan trọng cho 15 cm vượt thừa năm mươi búa [hoặc một trăm búa tuỳ theo hưởng thụ củakiến tạo khảo sát], đo và ghi lại độ xulặng sâu, tính bởi centimét [cm] về mũi xuyên sinh sống năm mươi búa [hoặcmột trăm búa].

3.6 Trong khu đất cat phân tử thô lẫn dăm sạn hoặc dăm sạn lẫn cuội sỏi, để tách hỏng mũi xulặng, buộc phải sử dụng mũixuim sệt hình nón cùng kích cỡ thay thế sửa chữa mũi xuyên thường thì. Góc đỉnh mũi xuyên ổn hình nón là 60°.

3.7 Trong quá trình đóng góp, mực nước hoặc dung dịch khoan bắt buộc nằm trên mực nước ngầm hiện tại tất cả.

3.8 Sau Khi đang đo và ghi đầy đủ số búa tương xứng với độ xuim sâu 45 centimet về mũi xuyên, thực hiện giảm khu đất bằngbiện pháp chuyển phiên buộc phải khoan, rút mũi xuyên lên khía cạnh đất, sửa chữa thay thế nó bởi mũi khoan. Công tác khoan lại liên tiếp mang lại tớiđộ sâu mới.

4 TCđất nước hình chữ S 9351:2012 – Thí nghiệm SPT : Đầu xuyên được tháo dỡ ra khỏi phải khoan, rửa không bẩn với dỡ tách thành ba phần. Tách song phần thân của mũixuyên, quan gần cạnh, diễn đạt khu đất cất trong số đó. Lắp ráp lại mũi xuyên ổn sẵn sàng đến xem sét tại độ sâu mới.

4.1 Đất đựng trong phần thân đầu xuyên ổn được quan liêu ngay cạnh, bộc lộ, đối chiếu với đất đựng trong phần mũi. Mô tả rõmàu sắc, nhiệt độ, độ chặt, yếu tố hạt, phong cách xây dựng, kết cấu của đất, những dị vật…

4.2 Chọn mẫu thay mặt đại diện, bảo quản vào túi nylon ko thấm nước, khá và khí. Mỗi chủng loại buộc phải bao gồm nhãn ghi rõthương hiệu dự án công trình, số hiệu hố khoan, độ sâu mang mẫu, số búa đến bố khoảng chừng độ xuyên, thời hạn thể nghiệm, đặcđiểm khí hậu.

4.3 Các túi đựng mẫu được xếp theo lắp thêm từ độ sâu mang lại dễ quan tiền giáp, chất vấn, để tại địa điểm thông thoáng và vậnđưa tức thì về phòng thể nghiệm.

4.4 Đất lấy được vào đầu xulặng rất có thể được dùng để làm thử nghiệm trong phòng khẳng định một trong những những chỉ tiêuđồ lí với mục đích nhận ra và phân một số loại. Cụ thể là:– Độ ẩm;– Khối lượng thể tích hạt;– Thành phần hạt;– Các độ ẩm số lượng giới hạn.

4.5 Mẫu đất rước được trường đoản cú mũi xulặng yêu cầu được bảo vệ, bảo quản trong chống xem sét tối thiểu tía mon nhắc từlúc sát hoạch hiệu quả nghiên cứu.Mẫu ghi chnghiền, quan lại gần kề, diễn tả [xem Phụ lục A, B]

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề