Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn spt thường được thực hiện như thế nào?
Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn hay thường được viết tắt là SPT [Standard Penetration Test] là một thí nghiệm xuyên tại hiện trường nhằm đo đạc các tính chất địa kỹ thuật của đất.
Phương pháp thí nghiệm này thường được áp dụng cho nhiều công trình khảo sát xây dựng vì một số ưu điểm: thiết bị đơn giản, thao tác và ghi chép diễn giải kết quả khá dễ dàng, dùng cho nhiều nền đất và độ sâu khảo sát, chi phí thấp...
Mục đích
Thí nghiệm dùng để đánh giá:
- Sức chịu tải của đất nền
- Độ chặt tương đối của nền đất cát
- Trạng thái của đất loại sét
- Độ bền nén một trục [qu] của đất sét
- Kết hợp lấy mẫu để phân loại đất
Nguyên lý thí nghiệm
Thí nghiệm sử dụng một ống mẫu thành mỏng với đường kính ngoài 50mm, đường kính trong 35mm, và chiều dài 650mm. Ống mẫu này được đưa đến đáy lỗ khoan sau đó dùng búa trượt có khối lượng 63,5kg cho rơi tự do từ khoảng cách 760mm. Việc đóng ống mẫu được chia làm ba nhịp, mỗi nhịp đóng sâu 150mm tổng cộng 450mm, người ta sẽ tính số búa trong mỗi nhịp và chỉ ghi nhận tổng số búa trong hai nhịp cuối và hay gọi số này là "giá trị N".
Trong trường hợp sau 50 búa đầu mà ống mẫu chưa cắm hết 150mm thì người ta chỉ ghi nhận 50 giá trị này. Số búa phản ảnh độ chặt của nền đất và được dùng để tính toán trong địa kỹ thuật..
Dụng cụ thí nghiệm
- Ống mẫu: đường kính ngoài 50,8mm, đường kính trong 34,9mm, chiều dài ống chẻ: 609mm, chiều dài mũi đóng là 57,1mm.
- Tạ có trọng lượng 63,5kg, rơi tự do trên đế nện.
- Đế nện.
- Cần trượt định hướng.
Búa đóng SPT |
Trình tự thí nghiệm
- Bước 1: Khoan tạo lỗ đến độ sâu dự định thí nghiệm, vét sạch đáy, hạ ống mẫu SPT và lắp đặt đế nện, cần, tạ…
- Bước 2: vạch lên cần đóng 3 khoảng, mỗi khoảng 15cm [tổng chiều sâu đóng 45cm].
- Bước 3: Cho tạ rơi tự do ở độ cao 76cm, đếm và ghi số tạ đóng cho từng khoảng 15cm.
- Bước 4: lấy chỉ số tạ đóng của 30cm cuối cùng làm chỉ số SPT.
Khoảng cách thí nghiệm SPT thông thường từ 1 – 3m, tùy theo độ đồng nhất của đất nền.
Xử lý kết quả thí nghiệm
Trongđất cát hạt mịn, số lần đóng búa N cần thiết để hạ ống mẫu tiêu chuẩn xuống độ sâu 30 cm cuối cố thể thay đổi tuỳ thuộc vào độ sâu mực nước ngầm. Nếu N* là số nhát búa thực hiện để hạ ống mẫu xuống 30 cm cuối ở độ sâu dưới mực nước ngầm trong đất cát hạt mịn thì giá trị N thực tế cần được hiệu chỉnhtheo công thức sau của Terzaghi và Pek :
N = 15 +½[ N - 15]
Kết quả thí nghiệm SPTtrong lỗ khoanđịa chất công trìnhđược ghi trực tiếp trong sổ quan trắc địa chấtthuỷ văn - địa chất công trình lỗ khoan với các số liệuN30[số nhát búa ở khoảng thí nghiệm thứ hai - 30cm],N45[số nhát búa ở khoảng thí nghiệm thứ ba - 45cm] -N30+ N45
Khi lập cột địa tầng [thiết đồ] lỗ khoan địa chất công trình có thí nghiệm SPT, tiến hành vẽ biểu đồbiến đổi giá trị N theo chiều sâu thí nghiệm.
Sử dụng kết quả thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn
- Đánh giá độ chặt tương đối của cát [theo Terzaghi và Pek]
Giá trị N [số búa] | Độ chặt tương đối của cát |
0¸4 | Rất xốp [rất rời rạc] |
4¸10 | Xốp [rời rạc] |
10¸30 | Chặt vừa |
30¸50 | Chặt |
> 50 | Rất chặt |
- Xác định trạng thái đất và độ bền của đất loại sét trong trạng thái ứng suất một trục [qu] - Theo Terzaghi và Pek.
Giá trị N [số búa] | Trạng thái đất | Độ bền qu[kg/cm2] |
< 2 | Chảy | < 0,25 |
2 ¸ 4 | Dẻo chảy | 0,25 ¸ 0,5 |
4 ¸ 8 | Dẻo mềm | 0,5 ¸ 1 |
8 ¸ 15 | Dẻo cứng | 1 ¸ 2 |
15 ¸ 30 | Nửa cứng | 2 ¸ 4 |
> 30 | Cứng | > 4 |
Độ bền kháng nén của đất trong trạng thái ứng suất một trục có thể được xác định tuỳ thuộc vào giá trị N, căn cứ vào những tương quan sau đây :
- Đất sét: qu= N / 4
- Đất sét bụi: qu= N / 5
- Đất sét pha cát và đất bụi: qu= N / 7,5
Kết quả thí nghiệm SPT được mô tả bên phải hình trụ hố khoan |
Tiêu chuẩn hướng dẫn thí nghiệm
- Tiêu chuẩn Việt Nam: TCXD 226:1999
- Tiêu chuẩn ASTM: D 1586
PNgeo.com
XEM THÊM:- Tại sao phải khảo sát địa chất công trình?
- Các bước tiến hành khảo sát địa chất
- Sản phẩm, thời gian và chi phí khảo sát địa chất công trình
- Quy trình khoan khảo sát địa chất công trình
- Công tác nghiệm thu ngoài hiện trường
- Báo cáo kết quả khảo sát địa chất công trình
- Những sai sót trong công tác khoan khảo sát địa chất
... Tài liệu khác
Chia sẻ:
ĐẤT XÂY DỰNG – PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG – THÍ NGHIỆM XUYÊN TIÊU CHUẨN [SPT]
Soils – Field testing method – Standard penetration test
TCVN 9351:2012 được chuyển đổi từ TCXD 226:1999 theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.
TCVN 9351:2012 do Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng – Bộ Xây dựng biên soạn, Bộ Xây dựng đề nghị, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.
TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm SPT
Một trong các phương pháp khảo sát địa chất công trình phục vụ xây dựng các công trình khác nhau. Thí nghiệm được tiến hành bằng cách đóng một mũi xuyên có dạng hình ống mẫu vào trong đất từ đáy một lỗ khoan đã được thi công phù hợp cho thí nghiệm. Quy cách mũi xuyên, thiết bị và năng lượng đóng đã được quy định. Số búa cần thiết để đóng mũi xuyên vào đất ở các khoảng độ sâu xác định được ghi lại và chỉnh lí. Đất chứa trong ống mẫu được quan sát, mô tả, bảo quản và thí nghiệm như là mẫu đất xáo động.
Sức kháng xuyên tiêu chuẩn [Standard Penetration resistance], Nspt
Số búa cần thiết để đóng mũi xuyên vào trong đất nguyên trạng 30 cm với quy cách thiết bị và phương pháp thí nghiệm quy định như ở Điều 5 và Điều 6.
Thí nghiệm SPT nên được sử dụng khi khảo sát địa chất công trình trong điều kiện địa tầng phức tạp, phân
bố luân phiên các lớp đất dính và đất rời hoặc bao gồm chủ yếu các lớp đất rời với độ chặt, thành phần hạt
khác nhau.
Khối lượng cụ thể của thí nghiệm SPT và tương quan giữa SPT với các phương pháp khảo sát khác trong quá trình khảo sát được xác định theo các quy định trong TCVN 4419:1987 và TCVN 9363:2012 hoặc các tiêu chuẩn liên quan khác.
Phần mũi xuyên là phần dưới cùng của đầu xuyên dùng để cắt khi xuyên vào đất. Các đặc trưng cơ bản của mũi xuyên như sau:
– Chiều dài từ 25,0 mm đến 75,0 mm;
– Đường kính trong bằng [35,0 ± 0,15]mm;
– Bề dày lưỡi cắt bằng [2,5 ± 0,25] mm;
– Góc vát lưỡi cắt từ 16,0° đến 23,0°
Phần thân của đầu xuyên dài từ 450 mm đến 750 mm dùng để chứa đất khí mũi xuyên xuyên vào đất.
Phần thân gồm hai nửa bán nguyệt ốp lại thuận tiện cho thao tác tháo lắp khi lấy đất chứa trong chúng ra ngoài.
Hai đầu của ống phần thân có ren ngoài để lắp ráp với phần mũi và phần đầu nối.
Phần đầu nối của đầu xuyên dùng để nối đầu xuyên với cần khoan, có chiều dài đến 175 mm. Tại đây có
cơ cấu bi, lỗ thoát hơi để giữ chân không bên trong đầu xuyên, hạn chế tụt mẫu trong quá trình nâng hạ mũi xuyên và để thoát hơi, nước trong quá trình xuyên.
TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT
Phương pháp thí nghiệm
1 Thí nghiệm SPT bao gồm lần lượt các công việc sau tại mỗi vị trí thí nghiệm:
a] Khoan tạo lỗ đến độ sâu cần thí nghiệm và rửa sạch đáy hố khoan;
b] Tiến hành thí nghiệm;
c] Quan sát và mô tả.
Các công việc trên lại được tiếp tục ở các độ sâu tiếp theo. Thí nghiệm được tiến hành lần lượt ở 1 m đến 3 m
độ sâu cho tới độ sâu cần thiết tuỳ theo mục đích khảo sát và tính phức tạp của địa tầng.
2 Khi khoan tạo lỗ, các phương pháp khoan sau có thể được áp dụng:
– Khoan guồng xoắn;
– Khoan xoay với nước rửa bằng nước hoặc dung dịch sét.
Để tránh sập thành hố khoan, khi cần các ống chống vách có thể được sử dụng.
Lỗ khoan phải đúng vị trí, thẳng đứng, đường kính đủ lớn từ 55 mm đến 163 mm. Thành hố khoan phải ổn định
và hạn chế tới mức tối đa phá hoại đất ở đáy hố khoan.
2.1 Khi khoan ở độ sâu không lớn, trên mực nước ngầm nên sử dụng khoan guồng xoắn. Sử dụng ống
chống, nếu có mặt đất yếu, đất có kết cấu không chặt để tránh sập thành hố khoan.
2.2 Khi khoan dưới mực nước ngầm nên sử dụng khoan xoay với nước rửa bằng nước trong đất dính và với
nước rửa bằng dung dịch sét trong đất rời.
2.3 Trong quá trình khoan phải thường xuyên theo dõi tốc độ khoan, đặc điểm dung dịch khoan để nhận biết
kịp thời sự thay đổi địa tầng và quyết định hợp lí độ sâu thí nghiệm. Mực dung dịch khoan phải luôn luôn nằm
trên mực nước ngầm.
2.4 Khi khoan gần tới độ sâu thí nghiệm, nên giảm tốc độ khoan, thao tác nâng, hạ nhẹ nhàng nhằm hạn chế
tối đa sự phá hoại tính nguyên trạng của đất dưới đáy hố khoan, làm sai lệch kết quả thí nghiệm.
2.5 Khi đã khoan đến độ sâu thí nghiệm, tiến hành vét đáy hố khoan, kiểm tra độ sâu, độ ổn định của thành hố
khoan. Khi cần thiết, có thể rửa và làm sạch đáy hố khoan bằng cách tuần hoàn dung dịch khoan.
2.6 Khi hố khoan đã đủ độ sâu, đáy đã sạch, thành vách ổn định, tiến hành rút lưỡi khoan lên và thay thế nó
bằng đầu xuyên.
3 Thí nghiệm bắt đầu khi mũi xuyên đã đạt tới đáy hố khoan, đúng độ sâu yêu cầu mà không gặp bất kỳ cản
trở nào do sập thành. Thí nghiệm tiến hành như sau:
3.1 Lắp bộ búa đóng và kiểm tra khả năng gắp nhả, độ cao rơi tự do của búa. Thanh định hướng phải thẳng
đứng, ổn định và đồng trục với hệ cần khoan.
3.2 Chọn điểm chuẩn và đo trên cần khoan ba đoạn liên tiếp, mỗi đoạn dài 15 cm, tổng cộng là 45 cm phía
trên điểm chuẩn để căn cứ vào đó xác định sức kháng xuyên.
3.3 Đóng búa. Chú ý độ cao rơi của búa, độ thẳng đứng của thanh dẫn hướng.
3.4 Đếm và ghi số búa cần thiết để hệ mũi xuyên cần khoan xuyên vào đất mỗi đoạn 15 cm đã vạch trước trên
cần khoan.
3.5 Khi số búa đóng cần thiết cho 15 cm vượt quá năm mươi búa [hoặc một trăm búa tuỳ theo yêu cầu của
thiết kế khảo sát], đo và ghi lại độ xuyên sâu, tính bằng centimét [cm] của mũi xuyên ở năm mươi búa [hoặc
một trăm búa].
3.6 Trong đất cát hạt thô lẫn dăm sạn hoặc dăm sạn lẫn cuội sỏi, để tránh hỏng mũi xuyên, nên dùng mũi
xuyên đặc hình nón cùng kích thước thay thế mũi xuyên thông thường. Góc đỉnh mũi xuyên hình nón là 60°.
3.7 Trong quá trình đóng, mực nước hoặc dung dịch khoan phải nằm trên mực nước ngầm hiện có.
3.8 Sau khi đã đo và ghi đủ số búa tương ứng với độ xuyên sâu 45 cm của mũi xuyên, tiến hành cắt đất bằng
cách xoay cần khoan, rút mũi xuyên lên mặt đất, thay thế nó bằng mũi khoan. Công tác khoan lại tiếp tục cho tới
độ sâu mới.
4 TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm SPT : Đầu xuyên được tháo ra khỏi cần khoan, rửa sạch và tháo rời thành ba phần. Tách đôi phần thân của mũi
xuyên, quan sát, mô tả đất chứa trong đó. Lắp ráp lại mũi xuyên sẵn sàng cho thí nghiệm tại độ sâu mới.
4.1 Đất chứa trong phần thân đầu xuyên được quan sát, mô tả, so sánh với đất chứa trong phần mũi. Mô tả rõ
màu sắc, độ ẩm, độ chặt, thành phần hạt, kiến trúc, cấu tạo của đất, các dị vật…
4.2 Chọn mẫu đại diện, bảo quản trong túi nylon không thấm nước, hơi và khí. Mỗi mẫu phải có nhãn ghi rõ
tên công trình, số hiệu hố khoan, độ sâu lấy mẫu, số búa cho ba khoảng độ xuyên, thời gian thí nghiệm, đặc
điểm thời tiết.
4.3 Các túi đựng mẫu được xếp theo thứ tự độ sâu cho dễ quan sát, kiểm tra, để ở nơi thoáng mát và vận
chuyển ngay về phòng thí nghiệm.
4.4 Đất lấy được trong đầu xuyên có thể được dùng để thí nghiệm trong phòng xác định một số các chỉ tiêu
vật lí với mục đích nhận biết và phân loại. Cụ thể là:
– Độ ẩm;
– Khối lượng thể tích hạt;
– Thành phần hạt;
– Các độ ẩm giới hạn.
4.5 Mẫu đất lấy được từ mũi xuyên phải được bảo quản, cất giữ trong phòng thí nghiệm ít nhất ba tháng kể từ
khi nghiệm thu kết quả thí nghiệm.
Mẫu ghi chép, quan sát, mô tả [xem Phụ lục A, B]
Tải TCVN 9351:2012 bên dưới
TCVN 9351-2012-Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT
Nội dung bài viết
- ĐẤT XÂY DỰNG – PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG – THÍ NGHIỆM XUYÊN TIÊU CHUẨN [SPT]
- Soils – Field testing method – Standard penetration test
- TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm SPT
- TCVN 9351:2012 – Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn SPT
Thí nghiệm SPT
SƠ ĐỒ MINH HỌATHÍ NGHIỆM SPT.
Quan hệ giữa sức kháng xuyên tiêu chuẩn Nsptvà sức kháng xuyên tĩnh đầu mũi qc
Bảng 1- Quan hệ giữa sức kháng xuyên tiêu chuẩn Nsptvà sức kháng xuyên tĩnh đầu mũi qc
Thứ tự | Loại đất | Tỉ số qc/Nspt |
1 | Sét | 2 |
2 | Sét pha | 3 |
3 | Cát hạt mịn | 4 |
4 | Cát hạt trung, thô | Từ 5 đến 6 |
5 | Cát hạt trung lẫn sạn sỏi | Lớn hơn 8 |
Đánh giá giá trị một số chỉ tiêu cơ lí của đất theo kết quả SPT
1. Đối với đất rời
Các chỉ tiêu tính chất sau của đất rời có thể được đánh giá theo kết quả thí nghiệm SPT:
- Độ chặt tương đối, Dr;
- Góc ma sát trong, j;
- Môđun biến dạng, E.
1.1 Độ chặt tương đối [Dr] và góc ma sát trong [j]
Bảng 2 - Quan hệ N30và Dr, j
[Theo Terzaghi, Peck]
Trạng thái | Dr[%] | Nspt | j[°] |
Xốp | Nhỏ hơn 30 | Nhỏ hơn 10 | Từ 25,00 đến 30,00 |
Chặt vừa | Từ 30 đến 60 | Từ 10 đến 30 | Từ 30,00 đến 32,30 |
Chặt | Từ 60 đến 80 | Từ 30 đến 50 | Từ 32,30 đến 40,00 |
Rất chặt | Lớn hơn 80 | Lớn hơn 50 | Từ 40,00 đến 45,00 |
Áp lực bản thân hay độ sâu, thế nằm của đất cũng ảnh hưởng tới quan hệ này. Đồ thị quan hệ giữa Nsptvà Drcó kể đến yếu tố này. Theo đó các giá trị nêu ở Bảng 2tương ứng với áp lực bản thân là 0,144 MPa.
Quan hệ giữa góc ma sát trong và sức kháng xuyên tiêu chuẩn, có thể như sau: [Theo Terzaghi, Peck, Meyerthof...]
Trong đó:
a là hệ số, lấy giá trị trong khoảng từ 15 đến 25
1.2 Môđun biến dạng E, tính bằng Megapascan [MPa]
[Theo Tassios, Anagnostopoulos]
Trong đó:
a là hệ số, được lấy bằng 40 khi Nspt>15; lấy bằng 0 khi Nspt
Đúng là cái thí nghiệm SPT tưởng chừng như đơn giản nhưng mà làm mệt đầu không biết bao nhiêu kĩ sư rồi không biết. thường thì theo tôi tiêu chuẩn chỉ để tham khảo cho vui mà thôi, nhưng đôi lúc nó lại bó buộc đối với những kĩ sư mới ra trường, nếu tôi hạn chế vào những gì mà người ta đặt ra và cố định cho là đúng, thì bản thân tôi không thể đi tới đâu được, chắc bạn Wasabi có kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực địa kĩ thuật lắm, trong quá trình làm và tìm hiểu thí nghiệm SPT cũng gần 2 năm, mà thấy chẳng hiểu được gì hết, lúc đầu thì biết nhưng đâm ra thấy hết biết gì luôn rồi. ở đây bàn về thí nghiệm SPT, tôi cũng đặt ra một câu hỏi cho vui nhé :"Làm sao xác định trạng thái của đất loại "cát mịn lẫn bụi" ở ngoài hiện trường theo SPT và thí nghiệm trong phòng ? "Câu hỏi tưởng chừng như dễ trả lời theo kiến thức học trong trường như theo tôi thì khó trả lời lắm mấy điểm sau :1. Theo SPT N30 số liệu thí nghiệm tra trực tiếp thì không ổn lắm vì N30 ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố lắm.2. Mẫu thí nghiệm mà đẩy ra được đâu còn nguyên dạng đâu.Mong mọi người bàn luận thêm về đề tài này
Dù bàn luận khá nhiều về hạn chế của tn SPT nhưng có 1 thực tế là thí nghiệm này được sử dụng phổ biến đến mức phổ thông trong công tác khảo sát đất hiện nay. Và chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của thí nghiệm này. Chẳng hạn thí nghiệm SPT trong đá Phong hóa cũng là vấn đề thực sự quan tâm hiện nay trong điều kiện máy móc thiết bị dùng cho khảo sát đất còn nhiều hạn chế.Bên cạnh đó tn này cũng bị lạm dụng trên mức cần thiết. ví dụ: Sử dụng N30 tính toán được N60 theo sự hiệu chỉnh năng lượng hữu ích để tính sức chống cắt ko thoát nước trong đất dính là Su. Thực tế tôi lập rất nhiều tương quan của cách tính này đêm so sánh Su từ thí nghiệm 3 trục UU, Su từ cắt cánh hiẹn trường cho cùng 1 dự án, kết quả là quá phân tán. Nếu sử dụng kết quả này để định tính thì may ra..Bạn namgeo27 có thể tham khảo thí nghiệm này của tác giả Vũ Công Ngữ, Nguyễn thái . tôi ko có bản mềm gửi bạn. Hoặc bạn đọc trong các công thức tính của 22TCN272-05.
Tôi có một thắc mắc là khi khảo sát và thí nghiệm theo tiêu chuẩn ASTM, BS hoặc TCVN 5747-1993 thì độ sệt [tính như bình thường Il = [W-Wl]/[Wl-Wp] ] không dùng để phân loại trạng thái của đất được do cái Wl không TN kiểu xuyên côn thăng bằng mà thí nghiệm theo Casagrande phải không các Bác, nên chỉ có nước sử dụng cái SPT thôi và theo tôi nghĩ cứ dùng cái N30 ở hiện trường tra bảng là ra trạng thái [của đất dính] và kết cấu [của đất rời]. Nhân đây cũng xin hỏi Bác nào có tài liệu nói về việc sử dụng độ sệt [theo ASTM hoặc BS hoặc TCVN 5747-1993] thì cho tôi ngó tí, cám ơn nhều.
TCVN 4197:1995 "Đất xây dựng - Phương pháp xác định giới hạn dẻo và giới hạn chảy" thì giới hạn chảy xác định bằng phương pháp quả dọi thăng bằng đấy chứ, đâu phải theo Casagrande. Tuy nhiên, tiêu chuẩn cũng đưa ra công thức để chuyển đổi giới hạn chảy theo 2 phương pháp trên.Phân loại trạng thái đất theo B [hay Il] chỉ thấy trình bày trong các giáo trình Cơ học đất, còn trong tiêu chuẩn VN thì không thấy đề cập đến.
đính chính: độ sệt [LI] = [W-Wp]/[WL-Wp]vẫn dùng để đánh giá trạng thái như thường, có điều trong các tiêu chuẩn các bạn tây không đả vào thôi bởi tiêu chuẩn không yêu cầu, cả TCVN 4197:1995 cũng vậy [theo bạn dungquat2007], họ còn thông qua su hay qu để đánh giá trạng thái chứ ko riêng gì chỉ số tn SPT. Thực tế họ còn có cả công thức kinh nghiệm giữa cái LI với su cơ. Việc gọi tên trạng thái cũng mang tính mô tả là chính, còn khi thiết kế thì chỉ tiêu cụ thể về cường độ mới quan trọng. Tất nhiên theo tiêu chuẩn thiết kế của của ta, một số thông số tra bảng có phụ thuộc vào trạng thái đất, bởi thế mà sinh ra cứng, mềm, chảy... bạn nào rỗi kiểm tra lại sẽ thấy trong tiêu chuẩn cũ 45-78 vẫn dùng.Cái tiêu chuẩn TCVN 4197:1995 là sự kết hợp linh hoạt và hoàn hảo giữa tây và ta, cách phân loại cũng khác cũ làm cho các bạn thiết kế nhiều khi phải tự phân loại lại theo tc cũ để tra bảng. Riêng cái 2 pp Cassagrande và Vaxiliep về cách tn khác hẳn nhau, nếu có công thức chuyển đổi thì CT phải được cập nhật liên tục dựa trên kinh nghiệm [nó ko chỉ phụ thuộc vào số lần tn mà còn phụ thuộc vào loại đất]. Tôi đã từng đọc có một số bài báo viết về so sánh giữa 2 phương pháp này, nhiều người lấy phương pháp Vaxilliep làm chuẩn rồi hiệu chỉnh kết quả của pp Cassagrande, thật chả hiểu nổi. Theo tôi: Thiết bị thí nghiệm - phương pháp thí nghiệm - phương pháp phân loại - tiêu chuẩn thiết kế và cả kiểm tra nghiệm thu là một thể thống nhất, tránh râu ông nọ cắm cằm bà kia.có hơi đụng chạm tí đến chuẩn, mong các bác thông cảm
Vâng đúng là TCVN 4197:1995 nói việc TN giới hạn chảy theo 2 PP Vaxiliep và Casagrande nhưng tôi thấy thắc mắc mấy vấn đề sau:- Thí nghiệm theo Casagrande nhưng lại lấy đất có kích thước hạtkiencangoopt
Đôi lời góp ý với các bạn.- Thí nghiệm SPT chỉ dùng trên đất hạt rời mà thôi. Nó được dùng từ cách đây trăm năm rồi. Khi đó người ta liên hệ các kết quả SPT với trạng thái đất. Những liên hệ này không có ý nghĩa vật lý gì cả. Chúng vẫn được dùng chẳng qua do tiện lợi mà thôi.- Cần chú ý là kết quả SPT không được dùng để phân tích đất dính. SPT đơn thuần chỉ để lấy mẫu đất cho phân loại mà thôi.- Tuy nhiên, thí nghiệm Atterberg limits và thí nghiệm fall cone để xác định Wl, Wp, Ip, Il thì có ý nghĩa vật lý. Thực ra cũng rất đơn giản:Qua rất nhiều thí nghiệm, ta có+ Cu tại liquit limit Il ~2kPa+ Cu tại plastic limit Ip ~ 200kPaNếu vẽ đồ thị Il versus Cu, thì có ngay kết quảCu~2*100^[1-Il]suy ra sigma_v~8*100^[1-Il] Cho đất dính nhưng không senstive:có thể chứng minh được là lamda=Ip*Gs/ln100nếu Gs=2.7, thì lamda=0.6Ip Slope of NCL = Cc = lamda*ln10= 2.3*lamda--Cho đất sensitve [chủ yếu tịa vùng Scandivia, đất của họ là marine clay, bị muối thấm vào nên tính chất bị ảnh hưởng] Gọi hệ số R= Cp/ClTừ đó có lamda=Ip*Gs/LnRCu=Cl*R^[1-Il]Hệ số St=Cu/Cur đóng vai trò chủ chốt trong việc nhận định tính sensitivity của đất dính. Cur là remoulded undrained strength. Hệ số này càng cao thì đất càng senstive
"Nhìn chung sử dụng SPT hiện nay rất phổ biến vì tiện dụng, hiệu quả. SPT có khả năng tiến hành ở độ sâu lớn và lấy được mẫu lên, điều đó không có ở xuyên tĩnh. Tuy nhiên vẫn có mặt hạn chế, thí nghiệm trong đất dính thường chỉ để tham khảo, chớ có sử dụng SPT để xác định trạng thái,... đi tù ngay! "- Thứ nhất thông nhất quan điểm với bác thí nghiệm SPT ở độ sâu lớn còn xuyên tĩnh max cũng được 30m là OK. - Thứ hai Tiêu chuẩn SPT xuất phát từ Hiệp hội cầu đường Mỹ và đã được áp dụng khá phổ biến ở trên thế giới. Trong Tiêu chuẩn xây dựng 226 -1999 cũng đã đưa ra thí nghiệm SPT nhằm đánh giá trạng thái của đất dính và đất rời. Ở đây có hai vấn đề đặt ra:+ Đối với thí nghiệm này yêu cầu khoan đối với thiết bị và phương pháp khoan như thế nào? Điều kiện trước khi tiến hành thí nghiệm như thế nào? Thiết bị thí nghiệm và chiều cao rơi của búa? Tay nghề kíp trưởng.... Vì vậy đối với các công trình hiện nay khoan ở Việt Nam hầu như thí nghiệm SPT chỉ là hình thức bởi vì bị "sai số cộng dồn". Nên thí nghiệm này vì sao ở nước ta đều khuyến cáo là giá trị tham khảo còn đánh giá trạng thái bắt buộc phải theo thí nghiệm trong phòng. + Vấn đề thứ hai Bác có nói một Chi ở 91 Phùng Hưng mô tả đất ở tầng VĨnh Phúc trạng thái dẻo mềm. Hiiiii nói cho vui Bác nhé có lẽ kinh nghiệm chưa nhiều cứ theo thí nghiệm SPT mà mô tả. Thực tế trạng thái của đất khi lấy mẫu nên chỉ cần nhìn màu sắc của mẫu có thể đánh giá tương đối trạng thái của đất rồi. Vì mầu sắc của đất liên quan đến nguồn gốc thành tạo mà.
nói gì thì nói, cái thí nghiệm SPT này cũng góp phần nuôi khối kỹ sư ĐCCT nhỉ >SPT muôn năm! just CHEERs!
Sao người ta không sử dụng các tham số thí nghiệm trong phòng và các thí nghiệm hiện trường khác để xác định giá trị SPT nhỉ ?
bác Ngọc đặt câu hỏi thế là ý gì nhỉ? bởi người ta vẫn làm, làm nhiều là khác, mà chắc chắn bác biết người ta làm như thế nào . Nhiều cao nhân chỉ cần thông số mô tả để xác định SPT.
Xem thêm: Hiện Tượng Đa Cộng Tuyến Là Gì, Làm Thế Nào Để Nhận Dạng
Đồng chí GEOTEK nói đúng với quan điểm của đa số dân Địa kỹ thuật Âu Mỹ nhưng không đúng với quan điểm của Nhật và Chủ đầu tư và Nhà thầu khảo sát.Cứ như đồng chí thì chỉ cần làm SPT ở cát thôi à. Nếu thế thì chúng tôi móm nặng. Có thể đồng chí đúng nhưng chớ loan báo rộng rãi cho chúng tôi nhờ. Đề nghị đồng chí cho chúng tôi số tài khaonr của đồng chí để chúng tôi chia.
hoibmtose005