Tại sao phải xóa bỏ chủ nghĩa tư bản

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Chủ nghĩa tư bản nông nghiệp
    • 1.2 Chủ nghĩa trọng thương
    • 1.3 Chủ nghĩa tư bản công nghiệp
    • 1.4 Chủ nghĩa tư bản hiện đại
      • 1.4.1 Mối quan hệ với dân chủ
    • 1.5 Tính đa dạng của chủ nghĩa tư bản
  • 2 Đặc điểm kinh tế
    • 2.1 Nền kinh tế thị trường
    • 2.2 Động lực lợi nhuận
    • 2.3 Sở hữu tư nhân
    • 2.4 Cạnh tranh thị trường
    • 2.5 Tăng trưởng kinh tế
    • 2.6 Mua bán sức lao động
    • 2.7 Quân đội dự bị lao động
      • 2.7.1 Thành phần của dân số thặng dư tương đối
    • 2.8 Phương thức sản xuất
  • 3 Nguyên lý Cung - Cầu
    • 3.1 Điểm cân bằng thị trường
    • 3.2 Cân bằng từng phần
    • 3.3 Ước tính thực nghiệm
    • 3.4 Sử dụng cung và cầu trong kinh tế vĩ mô
  • 4 Vai trò của chính phủ
    • 4.1 Mối quan hệ với tự do chính trị
  • 5 Đặc điểm chính trị xã hội
  • 6 Các hình thái
    • 6.1 Chủ nghĩa tư bản tiên tiến
    • 6.2 Chủ nghĩa tư bản tài chính
    • 6.3 Chủ nghĩa trọng thương
    • 6.4 Kinh tế thị trường tự do
    • 6.5 Kinh tế thị trường xã hội
    • 6.6 Chủ nghĩa tư bản nhà nước
    • 6.7 Chủ nghĩa tư bản độc quyền
    • 6.8 Kinh tế hỗn hợp
    • 6.9 Khác
  • 7 Tích lũy tư bản
    • 7.1 Nền tảng chung
    • 7.2 Tập trung và tập trung hóa
    • 7.3 Tỷ lệ tích lũy
    • 7.4 Sự xoay vòng tích lũy tư bản từ sản xuất
    • 7.5 Tái tạo đơn giản và mở rộng
    • 7.6 Tích lũy tư bản như quan hệ xã hội
  • 8 Tiền công lao động
    • 8.1 Phân loại
  • 9 Đánh giá
  • 10 Quan hệ với chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ
  • 11 Đọc thêm
  • 12 Xem thêm
  • 13 Tham khảo
  • 14 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử chủ nghĩa tư bản

Chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ[14] xuất hiện dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm công ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản" theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ.[15] Marx biết rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi giáo đã sớm ban hành chính sách kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố như Venice.[16] Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ Phục hưng.[17]

Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần lớn lịch sử, nhưng nó không dẫn đến sự công nghiệp hóa hay chi phối quá trình sản xuất của xã hội. Do nó đòi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất, một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thông hàng hóa một quy mô lớn và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn..

Chủ nghĩa tư bản nông nghiệpSửa đổi

Bài chi tiết: Tư bản nông nghiệp

Nền tảng kinh tế của hệ thống nông nghiệp phong kiến bắt đầu thay đổi ở Anh thế kỷ 16 khi hệ thống trang ấp đã bị phá vỡ và đất đai bắt đầu trở nên tập trung trong tay một số địa chủ với lượng bất động sản ngày càng lớn. Thay vì một hệ thống nông nô dựa trên lao động, người lao động ngày càng được sử dụng như một phần của một nền kinh tế dựa vào trên nhuận. Hệ thống này gây áp lực lên cả địa chủ và người thuê đất để tăng năng suất nông nghiệp tạo ra lợi nhuận; sự suy yếu quyền lực cưỡng chế của tầng lớp quý tộc để trích xuất dư thừa nông dân khuyến khích họ thử các phương pháp sản xuất tốt hơn; và những người thuê đất cũng có động lực để cải thiện phương pháp của họ để phát triển mạnh trong một thị trường lao động cạnh tranh. Điều khoản thuê đất đã trở thành đối tượng của lực lượng kinh tế thị trường chứ không phải là hệ thống phong kiến trì trệ trước đây.[18][19]

Đến đầu thế kỷ 17, nước Anh là một nhà nước kinh tế tập trung, trong đó phần lớn các luật phong kiến Trung cổ châu Âu đã bị loại bỏ. Sự tập trung này được xây dựng bởi một hệ thống đường sá tốt và một thành phố thủ đô lớn, London. Thủ đô đóng vai trò là trung tâm thị trường trung tâm của cả nước, tạo ra một thị trường nội bộ rất lớn cho hàng hóa, tương phản với những cổ phần phong kiến bị phân tán chiếm ưu thế ở hầu hết các vùng của lục địa.

Chủ nghĩa trọng thươngSửa đổi

Bài chi tiết: Chủ nghĩa trọng thương

Xem thêm thông tin: Tư bản thương nghiệp

Một bức tranh của một cảng biển của Pháp từ năm 1638 ở đỉnh cao của chủ nghĩa trọng thương

Các học thuyết kinh tế hiện hành từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 thường được gọi là chủ nghĩa trọng thương.[15][20] Giai đoạn này, còn gọi thời kỳ khám phá, được kết hợp với cuộc thăm dò địa lý của các vùng đất nước ngoài của các thương nhân buôn bán, đặc biệt là từ Anh và các nước khác. Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống thương mại vì lợi nhuận, mặc dù hàng hóa vẫn chủ yếu sản xuất bằng phương pháp phi tư bản chủ nghĩa.[21] Hầu hết các học giả đều coi kỷ nguyên của chủ nghĩa tư thương gia và chủ nghĩa trọng thương là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản hiện đại,[22][23] mặc dù Karl Polanyi cho rằng dấu hiệu của chủ nghĩa tư bản là việc thành lập thị trường tổng quát cho những gì ông gọi là "hàng giả", ví dụ: đất đai, lao động và tiền bạc. Theo đó, ông lập luận rằng "không cho là đến năm 1834 một thị trường lao động cạnh tranh thành lập ở Anh, do đó chủ nghĩa tư bản công nghiệp như một hệ thống xã hội không thể cho là đã tồn tại trước ngày đó".[24]

Anh đã bắt đầu một phương pháp tiếp cận tích hợp và quy mô lớn đến chủ nghĩa trọng thương trong kỷ nguyên Elizabethan [1558–1603]. Một lời giải thích có hệ thống và mạch lạc về sự cân bằng thương mại đã được công bố thông qua tranh luận Kho báu của nước Anh của Thomas Mun bởi Forraign Trade, và cuốn The Balance of our Forraign Trade is The Rule of Our Treasure. Nó được viết vào những năm 1620 và xuất bản năm 1664.

Các thương gia châu Âu, được hỗ trợ bởi các nhà quản lý nhà nước, trợ cấp và độc quyền, kiếm được nhiều lợi nhuận nhất bằng cách mua và bán hàng hóa. Theo lời của Francis Bacon, mục đích của chủ nghĩa trọng thương là "sự mở cửa và cân bằng thương mại, sự trân trọng của các nhà sản xuất, loại bỏ sự biếng nhác, hạn chế chất thải và tránh lãng phí, cải thiện và chất lượng của đất; các quy định về giá [...]".[25]

Robert Clive sau trận Plassey, bắt đầu sự cai trị công ty Đông Ấn [đại diện của thực dân Anh] tại Ấn Độ

Công ty Đông Ấn của Anh và Công ty Đông Ấn Hà Lan đã khánh thành một kỷ nguyên mở rộng của thương mại và trao đổi mua bán.[26][27] Các công ty này được đặc trưng bởi việc đánh chiếm thuộc địa của họ, các quốc gia thuộc địa đã trao cho họ nhiều quyền lực.[26] Trong thời kỳ này, các thương gia, người đã giao dịch dưới sân khấu trước đó của chủ nghĩa trọng thương, vốn đầu tư trong công ty Đông Ấn và các thuộc địa khác, tìm kiếm một lợi nhuận đến từ đầu tư.

Thế kỷ XVIII-XIX là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh nhất, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động, đã biến nhiều quốc gia trở thành các cường quốc kinh tế. Tuy nhiên nó cũng gây ra sự phân hóa xã hội sâu sắc, kể cả sự bóc lột nhân công thường thấy, chủ nghĩa thực dân ra đời cùng sự xâm chiếm thuộc địa và buôn bán nô lệ. Karl Marx viết[28]:

"Việc tìm thấy những mỏ vàng, mỏ bạc ở châu Mỹ, việc biến người dân bản xứ thành nô lệ, việc chôn vùi họ vào các hầm mỏ hoặc tuyệt diệt họ đi, những buổi đầu của cuộc chinh phục và cướp bóc ở Đông Ấn, việc biến châu Phi thành một vùng đất cấm thương mại dành riêng cho việc săn bắt người da đen, đấy là những biện pháp tích lũy nguyên thủy có tính chất báo hiệu bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa"

Bên cạnh việc bóc lột nhân công trong nước, các nhà tư bản cũng tăng cường bóc lột kinh tế các nước thuộc địa. Nhà kinh tế học nổi tiếng Utsa Patnaik, dựa trên dữ liệu chi tiết về thuế và mậu dịch thương mại trong gần hai thế kỷ, đã tính toán và đưa đến kết luận rằng, thực dân Anh đã bóc lột khoảng 45.000 tỷ USD [theo thời giá năm 2017] của Ấn Độ trong giai đoạn 1765 đến 1938, lớn gấp 17 lần GDP của nước Anh năm 2017. Sự bòn rút của Anh được thực hiện thông qua hệ thống độc quyền thương mại tại Ấn Độ do công ty Đông Ấn [East India Company] của Anh nắm quyền kiểm soát. Người dân Ấn Độ đã phải cung phụng để nước Anh phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp tại Anh phụ thuộc phần lớn vào những phi vụ chiếm đoạt có hệ thống ở Ấn Độ. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm cai trị của Anh tại Ấn Độ, hầu như không có sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Trong nửa cuối thế kỷ 19, thu nhập bình quân của dân Ấn Độ đã giảm một nửa, tuổi thọ trung bình của người Ấn giảm 20% từ năm 1870 đến 1920. Hàng chục triệu người đã chết đói do chính sách mà thực dân Anh gây ra[29].

Chủ nghĩa tư bản công nghiệpSửa đổi

Một động cơ hơi nước Watt: động cơ hơi nước được sử dụng nhiên liệu bằng than thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp ở Vương quốc Anh [30]

Vào giữa thế kỷ 18, một nhóm các nhà lý thuyết kinh tế mới, do David Hume lãnh đạo[31] và Adam Smith, thách thức học thuyết trọng thương cơ bản, tin rằng sự giàu có của thế giới vẫn không đổi và một nhà nước chỉ có thể làm tăng sự giàu có của nó với chi phí của một nước khác.

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp, công nghiệp thay thế các thương gia như một nhân tố chi phối trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng sự suy giảm của các kỹ năng thủ công mỹ nghệ truyền thống của các nghệ nhân và người làm thuê. Cũng trong giai đoạn này, thặng dư được tạo ra bởi sự phát triển của thương mại nông nghiệp khuyến khích tăng cơ giới hóa nông nghiệp. Chủ nghĩa tư bản công nghiệp đánh dấu sự phát triển của hệ thống sản xuất của nhà máy, đặc trưng bởi một bộ phận lao động phức tạp giữa và trong quá trình làm việc và các công việc thường ngày; và cuối cùng đã thiết lập sự thống trị toàn cầu của chế độ tư bản sản xuất.[20]

Anh cũng từ bỏ chính sách bảo hộ của mình như là chấp nhận bởi chủ nghĩa trọng thương. Trong thế kỷ 19, Richard Cobden và John Bright, người dựa niềm tin của họ trên trường Manchester, đã khởi xướng một phong trào để giảm thuế.[32] Vào những năm 1840, Anh đã áp dụng chính sách bảo hộ ít hơn, với việc bãi bỏ Luật Ngô và Đạo luật Điều hướng.[20] Anh giảm thuế quan và hạn ngạch, phù hợp với sự ủng hộ của David Ricardo đối với thương mại tự do.

Chủ nghĩa tư bản hiện đạiSửa đổi

Tiêu chuẩn vàng đã hình thành cơ sở tài chính của nền kinh tế quốc tế từ 1870 đến 1914

Chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng ra thế giới bởi các quá trình toàn cầu hóa và đến cuối thế kỷ 18 đã trở thành hệ thống kinh tế chiếm ưu thế.[33] Sau đó trong thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua thách thức của các nền kinh tế kế hoạch tập trung và hiện là hệ thống bao trùm toàn cầu,[34][35] với nền kinh tế hỗn hợp là hình thức thống trị của nó trong thế giới công nghiệp hóa phương Tây.

Công nghiệp hóa cho phép sản xuất giá rẻ các mặt hàng gia dụng bằng cách sử dụng quy mô kinh tế trong khi tăng dân số nhanh tạo ra nhu cầu bền vững cho hàng hóa. Toàn cầu hoá trong giai đoạn này được định hình bởi chủ nghĩa đế quốc ở thế kỷ 18.[33]

Sau lần thứ nhất và chiến tranh nha phiến lần thứ hai và hoàn thành cuộc chinh phục Ấn Độ của Anh, quần thể rộng lớn của các khu vực này đã trở thành người tiêu dùng sẵn sàng xuất khẩu châu Âu. Cũng trong giai đoạn này, các khu vực của châu Phi cận Sahara và các đảo Thái Bình Dương được đưa vào hệ thống thế giới. Trong khi đó, cuộc chinh phục các khu vực mới trên thế giới, đặc biệt là châu Phi cận Sahara, châu Á mang lại nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá như cao su, kim cương và than và giúp đầu tư và thương mại nhiên liệu giữa các cường quốc châu Âu, các thuộc địa của họ và Hoa Kỳ:

Cư dân của London có thể gọi bằng điện thoại, nhấm nháp trà buổi sáng, các sản phẩm khác nhau trên thế giới, và mong đợi sớm giao hàng ngay trước cửa nhà mình. Chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc của sự cạnh tranh chủng tộc và văn hóa ít hơn nhiều so với những thú vui của tờ báo hàng ngày của ông. Thật là một tập phim đặc biệt trong phát triển kinh tế của con người là tuổi mà đã kết thúc trong tháng 8 năm 1914.[36]

Trong giai đoạn này, hệ thống tài chính toàn cầu chủ yếu gắn liền với tiêu chuẩn vàng. Vương quốc Anh lần đầu tiên chính thức thông qua tiêu chuẩn này vào năm 1821. Chẳng bao lâu sau đó là Canada vào năm 1853, Newfoundland năm 1865, Hoa Kỳ và Đức [de jure] năm 1873. Các công nghệ mới, chẳng hạn như điện báo, cáp xuyên Đại Tây Dương, điện thoại vô tuyến, tàu hơi nước và hàng hóa được phép và đường sắt cho phép di chuyển khắp thế giới ở mức độ chưa từng có.[37]

Từ đầu thế kỷ XX trở đi, nhà nước tư bản chủ nghĩa từ chỗ hầu như không can thiệp vào nền kinh tế, thì lại can thiệp mạnh mẽ vào cơ chế thị trường, điều chỉnh thu nhập, sau đó là một quá trình quốc hữu hóa lớn diễn ra ở một số nước. Sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền do sự sáp nhập các doanh nghiệp tạo nên các tập đoàn kinh tế gần như không chịu sự cạnh tranh mang tính tự nhiên cũng là một đặc điểm trong giai đoạn thứ ba này. Thời kỳ này, theo nhận định của Lenin, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, tạo nguồn gốc cho cuộc xung đột toàn cầu đầu tiên là thế chiến thứ nhất.

Sàn giao dịch chứng khoán New York [1963]

Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng toàn cầu của những năm 1930, nhà nước đóng một vai trò ngày càng nổi bật trong hệ thống tư bản trên khắp thế giới. Sự bùng nổ sau chiến tranh đã kết thúc vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 và tình hình đã trở nên tồi tệ hơn do sự gia tăng của lạm phát.[38] Chủ nghĩa tiền tệ, một bản sửa đổi của Kinh tế học Keynes tương thích hơn với laissez-faire, đã làm tăng uy tín lớn trên thế giới của tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan tại Hoa Kỳ và Margaret Thatcher ở Vương quốc Anh trong những năm 1980. Lợi ích công cộng và chính trị bắt đầu chuyển từ cái gọi là quan điểm tập thể về chủ nghĩa tư bản được quản lý của Keynes tập trung vào lựa chọn cá nhân, được gọi là "chủ nghĩa tư bản tái cơ cấu".[39]

Theo học giả Harvard Shoshana Zuboff, một chi mới của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản giám sát, kiếm tiền từ dữ liệu thu được thông qua giám sát.[40][41][42] Cô khẳng định nó lần đầu tiên được phát hiện và củng cố tại Google, nổi lên do sự "khớp nối của các cường quốc lớn của kỹ thuật số với sự thờ ơ triệt để và tự đại nội tại của chủ nghĩa tư bản tài chính và tầm nhìn tự do mới của nó đã thống trị thương mại trong vòng ít nhất ba thập kỷ, đặc biệt trong nền kinh tế Anglo"[41] và phụ thuộc vào kiến trúc toàn cầu về hòa giải máy tính tạo ra một biểu hiện quyền lực mới được phân phối và phần lớn không được nhắc đến mà cô gọi là "Big Other".[43]

Nhìn chung bức tranh của chủ nghĩa tư bản hiện đại có thể là một quá trình đan xen nhau giữa tư hữu hóa ["tư bản hóa"] hay quốc hữu hóa ["xã hội hóa", "Nhà nước hóa"] ở các quốc gia, mà nguyên nhân từ sự lên cầm quyền của các lực lượng cánh tả ủng hộ chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả những người tự do cánh tả, hay các lực lượng cánh hữu hay cánh tả thiên hữu nhưng các đặc điểm cơ bản của nó là tự do kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường ["mạnh được yếu thua"] và những người cánh tả ủng hộ - quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản từ khởi nguồn nguyên thủy thì luôn tồn tại trừ một số quốc gia trong một số giai đoạn. Sự xuất hiện các hình thức công ty cổ phần bao gồm cả cổ phần của Nhà nước, hay hình thức hợp tác cổ phần, ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa các nước chủ nghĩa xã hội dần cải cách mở cửa kinh tế, chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với các hiệp định thương mại tự do làm cho sự phân biệt giữa chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội trở nên mờ nhạt đi, không còn rạch ròi như trước.

Mối quan hệ với dân chủSửa đổi

Mối quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa tư bản là một lĩnh vực mang tính tranh cãi về lý thuyết và trong các phong trào chính trị phổ biến. Việc mở rộng quyền bầu cử phổ biến cho nam giới ở thế kỷ 19 ở Anh xảy ra cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và dân chủ công nghiệp đã trở nên phổ biến đồng thời với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản để tạo ra mối quan hệ nhân quả hoặc tương hỗ giữa họ.[44] Tuy nhiên, theo một số tác giả trong chủ nghĩa tư bản thế kỷ 20 cũng đi kèm một loạt các thành phần chính trị khá khác biệt với các nền dân chủ tự do, bao gồm các chế độ phát xít, chế độ quân chủ tuyệt đối và các quốc gia độc đảng.[20] Lý thuyết hòa bình dân chủ khẳng định rằng nền dân chủ hiếm khi chống lại các nền dân chủ khác, nhưng các nhà phê bình của lý thuyết đó cho rằng điều này có thể là do sự giống nhau về chính trị hay ổn định hơn là vì họ là dân chủ hay tư bản. Các nhà phê bình trung bình cho rằng mặc dù tăng trưởng kinh tế theo chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến nền dân chủ trong quá khứ, nhưng không thể làm như vậy trong tương lai..[45][46]

Một trong những người ủng hộ lớn nhất của ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản thúc đẩy tự do chính trị, Milton Friedman, lập luận rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh cho phép quyền lực kinh tế và chính trị được tách biệt, đảm bảo rằng họ không đụng độ với nhau. Các nhà phê bình vừa phải đã thách thức điều này, nói rằng các nhóm vận động hành lang ảnh hưởng hiện tại đã có chính sách tại Hoa Kỳ là một mâu thuẫn, do sự chấp thuận của công dân United. Điều này đã khiến mọi người đặt câu hỏi về ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh thúc đẩy tự do chính trị. Phán quyết về công dân United cho phép các công ty chi tiêu số tiền không được tiết lộ và không được kiểm soát về các chiến dịch chính trị, chuyển đổi kết quả thành lợi ích và phá hoại nền dân chủ thực sự. Như được giải thích trong các tác phẩm của Robin Hahnel, trung tâm của hệ thống thị trường tự do là khái niệm về tự do kinh tế và những người ủng hộ đó đánh đồng nền dân chủ kinh tế với tự do kinh tế và tuyên bố rằng chỉ có hệ thống thị trường tự do mới có thể cung cấp tự do kinh tế. Theo Hahnel, có một vài phản đối về tiền đề rằng chủ nghĩa tư bản cung cấp tự do thông qua tự do kinh tế. Những phản đối này được hướng dẫn bởi những câu hỏi quan trọng về ai hoặc quyết định nào mà quyền tự do của họ được bảo vệ nhiều hơn. Thông thường, câu hỏi về sự bất bình đẳng được đưa ra khi thảo luận về chủ nghĩa tư bản thúc đẩy nền dân chủ tốt như thế nào. Một lập luận có thể đứng là tăng trưởng kinh tế có thể dẫn đến sự bất bình đẳng vì vốn có thể thu được ở các mức độ khác nhau bởi những người khác nhau. Trong thủ đô của thế kỷ 21, Thomas Piketty thuộc trường Kinh tế Paris khẳng định rằng sự bất bình đẳng là hậu quả không thể tránh khỏi của tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế tư bản và sự tập trung kết quả của cải có thể làm mất ổn định xã hội dân chủ và làm suy yếu lý tưởng của công lý xã hội, nơi chúng được xây dựng.[47]

Các quốc gia có hệ thống kinh tế tư bản đã phát triển mạnh theo các chế độ chính trị được cho là độc tài hoặc áp bức. Singapore có một nền kinh tế thị trường mở thành công nhờ vào môi trường cạnh tranh, kinh doanh thân thiện và luật lệ mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên, hệ thống chính trị Singapore thường được cho là: [1] Bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính phủ, mặc dù trên danh nghĩa đó là nhà nước dân chủ và là một trong số những nước ít tham nhũng nhất,[48] nó cũng hoạt động chủ yếu dưới sự cai trị của một đảng; và [2] Không bảo vệ quyền tự do ngôn luận một cách mạnh mẽ, vì báo chí do chính phủ kiểm soát, cũng như thiên hướng bảo vệ pháp luật bảo vệ hòa bình dân tộc và tôn giáo, nhân phẩm tư pháp và danh tiếng cá nhân. Cũng như vậy, khu vực tư nhân [tư bản] tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã phát triển theo cấp số nhân và phát triển mạnh kể từ khi thành lập, mặc dù có một chính phủ mà phương Tây cho là độc tài. Sự cai trị của nhà độc tài Augusto Pinochet ở Chile dẫn đến tăng trưởng kinh tế và mức độ bất bình đẳng cao[49] bằng cách sử dụng các phương tiện độc tài để tạo môi trường an toàn cho đầu tư và chủ nghĩa tư bản.

Tính đa dạng của chủ nghĩa tư bảnSửa đổi

Peter A. Hall và David Soskice lập luận rằng các nền kinh tế hiện đại đã phát triển hai hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau: nền kinh tế thị trường tự do [hoặc LME] [ví dụ như Hoa Kỳ, Anh, Canada, New Zealand và Ireland] và các nền kinh tế thị trường [CME] [ví dụ: Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và Áo]. Hai loại này có thể được phân biệt theo cách chính mà các công ty phối hợp với nhau và các tác nhân khác, chẳng hạn như công đoàn. Trong các LME, các công ty chủ yếu phối hợp các nỗ lực của họ bằng cách phân cấp và cơ chế thị trường. Các nền kinh tế thị trường phối hợp dựa nhiều hơn vào các hình thức tương tác phi thị trường trong việc phối hợp mối quan hệ của họ với các tác nhân khác [để mô tả chi tiết xem các giống chủ nghĩa tư bản]. Hai hình thức tư bản này đã phát triển các quan hệ công nghiệp khác nhau, đào tạo nghề và giáo dục, quản trị doanh nghiệp, quan hệ giữa các công ty và quan hệ với nhân viên. Sự tồn tại của các hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau này có tác động xã hội quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và bất ổn. Từ đầu những năm 2000, số lượng người ngoài thị trường lao động đã phát triển nhanh chóng ở châu Âu, đặc biệt là trong giới trẻ, có khả năng ảnh hưởng đến sự tham gia của xã hội và chính trị. Sử dụng các lý thuyết tư bản chủ nghĩa, có thể giải quyết các ảnh hưởng khác nhau đến sự tham gia của xã hội và chính trị mà sự gia tăng của người ngoài thị trường lao động có nền kinh tế thị trường tự do và phối hợp [Ferragina và cộng sự, 2016].[50] Sự bất ổn xã hội và chính trị, đặc biệt là trong giới trẻ, dường như rõ ràng hơn trong tự do hơn so với các nền kinh tế thị trường phối hợp. Điều này cho thấy một vấn đề quan trọng đối với nền kinh tế thị trường tự do trong thời kỳ khủng hoảng. Nếu thị trường không cung cấp cơ hội việc làm phù hợp [như trong những thập kỷ trước], những thiếu sót của các hệ thống an sinh xã hội tự do có thể làm giảm sự tham gia xã hội và chính trị hơn cả ở các nền kinh tế tư bản khác nhau.

Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại những giới hạn không thể vượt qua

[ĐCSVN] - Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và quan hệ phân phối nói riêng đã được điều chỉnh thích nghi như thế nào? Những mâu thuẫn cơ bản vốn có nào của chủ nghĩa tư bản mà nó không thể tự khắc phục được? Và tại sao chúng ta không lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa? Dưới góc nhìn khoa học kinh tế chính trị, bài viết sẽ góp phần làm rõ những luận điểm trên.

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đăng trên Báo Nhân Dân số ra ngày 17/5/2021. Bài viết chỉ rõ: “Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó…”. Vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và quan hệ phân phối nói riêng đã được điều chỉnh thích nghi như thế nào? Những mâu thuẫn cơ bản vốn có nào của chủ nghĩa tư bản mà nó không thể tự khắc phục được? Và tại sao chúng ta không lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa? Dưới góc nhìn khoa học kinh tế chính trị, bài viết sẽ góp phần làm rõ những luận điểm trên.

1. Những điều chỉnh, thích nghi có tính bước ngoặt về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại

Trước hết, phải nhìn nhận chủ nghĩa tư bản là một nấc thang trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. C.Mác đánh giá: Chủ nghĩa tư bản là xấu xa so với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nó là một hình thái kinh tế, xã hội tiến bộ nhất so với những hình thái kinh tế, xã hội đã có trong lịch sử. Và sự điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại được thực hiện trên nhiều phương diện, nhất là quan hệ sản xuất.

Trở lại lịch sử những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, các học giả tư sản “rêu rao” về chiến thắng của chủ nghĩa tư bản, cho đây là thời điểm “cáo chung của học thuyết Mác”, rằng chủ nghĩa xã hội đã “lỗi thời, lạc hậu”, và chủ nghĩa tư bản mới là đích đến cuối cùng của nhân loại. Đồng thời, bằng những điều chỉnh để tự thích nghi về quan hệ sản xuất, họ cũng biện minh cho một thứ chủ nghĩa tư bản đã có sự thay đổi về chất để trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản tiến bộ… Vậy, những điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là gì?.

Về quan hệ sở hữu: Ngoài đối tượng sở hữu đã có những thay đổi lớn [từ sở hữu hiện vật sang giá trị], với việc chia nhỏ cổ phần, phát hành cổ phiếu mệnh giá thấp, chủ nghĩa tư bản đã huy động được hàng triệu nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân tập trung thành nguồn lực to lớn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, phần nào làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo “không gian” cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu phần nào “xóa đi” ranh giới giữa nhà tư bản với người lao động, tạm thời dung hòa mâu thuẫn giữa ông chủ và người làm thuê. Bởi về mặt hình thức, cả nhà tư bản và người lao động đều có cổ phần và trở thành cổ đông của nhà máy, xí nghiệp nên đều là “ông chủ” - đồng sở hữu, đều “bình đẳng” trước phương án tổ chức quản lý và kết quả sản xuất kinh doanh.

Về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất: Trong chủ nghĩa tư bản đương đại, ta thấy dường như các nhà tư bản tách rời và đứng ngoài quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Bằng việc áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và sử dụng những người lao động có trình độ cao về tổ chức quản lý sản xuất, các nhà tư bản đã từng bước hoàn thiện quy trình sản xuất, đồng thời chọn lựa đưa ra được những phương án kinh doanh tối ưu. Các nhà tư bản không còn trực tiếp hiện diện trong các dây chuyền sản xuất như vai trò của những người “đốc công”. Quan hệ trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh dường như chỉ còn lại là quan hệ giữa những người lao động với nhau. Có chăng chỉ là sự khác biệt về “sắc áo, lợi ích và thẩm quyền”. Mâu thuẫn, xung đột trực diện giữa các nhà tư bản và lao động dường như đã được giải quyết.

Về quan hệ phân phối: Bên cạnh các hình thức phân phối thông qua giá cả sức lao động, trong chủ nghĩa tư bản đương đại cũng xuất hiện nhiều hình thức phân phối khác đa dạng, phong phú hơn. Bao gồm: Điều tiết phân phối giá trị thặng dư thông qua thuế; phân phối thông qua lợi tức cổ phần; trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội; các hình thức đầu tư cho giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; tăng mức “thưởng và đãi ngộ cho người lao động”… phần nào tạo ra nguồn thu nhập thêm cho người lao động. Sự bóc lột của nhà tư bản không còn “đậm nét” như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mà thay vào đó là hình ảnh của các nhà tư bản “quan tâm, chăm sóc và sẻ chia” cùng người lao động.

Như vậy, sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đã làm cho hình ảnh “cừu ăn thịt người” với “lỗ chân lông nhuốm đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản” của chủ nghĩa tư bản “bóc lột, ăn bám”, “tàn nhẫn” trong quá khứ bị lu mờ. Thay vào đó là hình ảnh về một chủ nghĩa tư bản “hiện đại, tiến bộ”, “chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân ái”… Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể giải thích khoa học cả về hiện tượng, hình thức, mục đích, nguyên nhân và giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại.

2. Bản chất của những điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại

Cần khẳng định: Sự biến đổi thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là có thật nhưng sự điều chỉnh đó không thể tự nó chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội mới. Sự điều chỉnh đó vẫn trong phạm vi giới hạn vỏ bọc của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn nằm trong giai đoạn độc quyền của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Có thể cắt nghĩa vấn đề trên bằng những luận cứ khoa học sau:

Một là, về quan hệ sở hữu: Mặc dù có sự đa dạng về sở hữu, nhưng vấn đề đặt ra là trong hàng triệu triệu cổ phần của các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, người lao động nắm tỉ lệ bao nhiêu? Ai vẫn là người nắm số lượng cổ phần, cổ phiếu lớn hoặc giữ tỉ lệ cổ phiếu chi phối?... Câu trả lời chắc chắn vẫn là các nhà tư bản. Thông qua chế độ tham dự, theo mô hình một công ty mẹ khống chế nhiều công ty con, một công ty con khống chế nhiều công ty cháu... mà quyền lực kinh tế, chính trị, xã hội của nhà tư bản, của các tổ chức độc quyền tăng lên. Vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện nay làm cho nó phù hợp được phần nào đó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm mục tiêu tiếp tục duy trì và củng cố chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, tuy nhiên, bản chất của quan hệ sở hữu không thay đổi.

Hai là, về tổ chức quản lý sản xuất: Trong tổ chức quản lý sản xuất, việc thuê mướn hoặc sa thải [kể cả giám đốc điều hành sản xuất, giám đốc kỹ thuật, giám đốc marketing, thậm chí cả giám đốc tài chính …] đều do các nhà tư bản quyết định. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người, tiềm lực khoa học, công nghệ phục vụ cho khát vọng làm giàu của nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh thích nghi về tổ chức quản lý đã tạo ra sự thích ứng nhất định để thúc đẩy xã hội hoá lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do tư liệu sản xuất thuộc quyền chiếm hữu của nhà tư bản nên quyền tổ chức quản lý sản xuất vẫn do giai cấp tư sản điều hành, chi phối và mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân vẫn là quan hệ giữa ông chủ và người làm thuê. Trong cuốn “Tư bản thế kỷ XXI”, Thomas Piketty, nhà kinh tế học người Pháp nhận định “Dữ liệu kế toán mà hiện tại các doanh nghiệp được yêu cầu phải công bố là hoàn toàn không đủ để cho phép người lao động hay những công dân bình thường có thể có ý kiến về các quyết định của công ty, nói gì đến việc can thiệp vào những quyết định đó”[2].

Ba là, trong quan hệ phân phối: Thực hiện trả lợi tức cổ phần và sử dụng một bộ phận lợi nhuận khổng lồ để phân phối thông qua các quỹ không làm cho bản chất của quan hệ phân phối thay đổi. Nhìn nhận một cách khác, việc điều chỉnh quan hệ phân phối sản phẩm phần nào góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân làm thuê. Tuy nhiên, những điều chỉnh về quan hệ phân phối đã làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản không còn là xã hội bóc lột và bất công, là “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, xã hội mà “toàn dân là tư sản”, từ đó gây ra sự chia rẽ trong phong trào đấu tranh của công nhân.

3. Giới hạn về những điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản - Chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ là tất yếu

Chủ nghĩa tư bản không thể tự mình vượt ra ngoài vỏ bọc của chính nó để biến thành một hình thái kinh tế - xã hội mới. Đó cũng chính là giới hạn của sự biến đổi thích nghi, quy định địa vị lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và của chủ nghĩa tư bản giai đoạn độc quyền nói riêng. Giới hạn mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua chính là lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao, tạo ra một khối lượng hàng hoá vật phẩm và dịch vụ khổng lồ, lẽ ra nhân loại sẽ không còn đói nghèo, thất nghiệp, thất học và nợ nần v.v. để từng bước đạt tới đỉnh cao của văn minh và hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, tình trạng bóc lột, bất công, đói nghèo vẫn đang diễn ra và ngày càng sâu sắc hơn. Nguyên nhân của những tình trạng này là do quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế. Quan hệ sản xuất đó mâu thuẫn ngày càng sâu sắc hơn với lực lượng sản xuất đã xã hội hoá ở trình độ cao. Đây chính là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại và được biểu hiện về mặt xã hội thành những mâu thuẫn chủ yếu sau:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê: Hiện nay, giai cấp công nhân hiện đại có trình độ chuyên môn ngành nghề ngày càng cao, trong số đó có người giữ các chức vụ là giám đốc, tổng giám đốc... Nhưng xét cho cùng vì không có tư liệu sản xuất nên họ vẫn ở địa vị của người làm thuê, vẫn phải làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. Tiền lương vẫn là thu nhập chủ yếu và vẫn là giá cả sức lao động của người công nhân làm thuê. Họ vẫn đang bị bần cùng hoá [cả tương đối và tuyệt đối].

Thứ hai, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển, chậm phát triển: Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, các nước tư bản phát triển vẫn không từ bỏ ý đồ lôi kéo các nước đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa nhằm áp đặt quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, người ta nói nhiều về “chủ nghĩa thực dân kinh tế”, “chủ nghĩa thực dân công nghệ”. Chính mối quan hệ kinh tế bất bình đẳng giữa các nước tư bản phát triển với các nước thế giới thứ ba đã đem lại những khoản siêu lợi nhuận cho các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, sức lao động dồi dào và rẻ mạt đã biến các nước có nền kinh tế lạc hậu thành những miền đất hứa cho tư bản sinh sôi và cho những công nghệ, thiết bị lạc hậu của các nước tư bản phát triển tiếp tục “sản sinh” giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền tư bản, giữa các công ty xuyên quốc gia, giữa các trung tâm quyền lực tư bản chủ nghĩa với nhau: Đây là mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa tư bản, nó đã từng tồn tại trong suốt cả thế kỷ XX và vẫn tiếp diễn sang thế kỷ XXI. Chính mâu thuẫn này đã đẩy nhân loại lâm vào hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc nhất trong lịch sử. Hiện tại, mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực kinh tế tư bản chủ nghĩa gay gắt tới mức người ta đã dùng tới những thuật ngữ như: chiến tranh địa chính trị; chiến tranh cá thu, chiến tranh ôtô; chiến tranh nhôm, thép; chiến tranh vaccine… Đặc biệt, thời gian gần đây mâu thuẫn giữa Mỹ với Liên minh châu Âu [EU], giữa Mỹ với các nước tư bản khác trên các vấn đề thương mại, sự đóng góp tài chính cho các hoạt động quân sự… chính là liên minh trong mâu thuẫn đã được V.I.Lênin khái quát bằng cụm từ “liên minh chó sói”.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội và những vấn đề toàn cầu: Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có người cho rằng chủ nghĩa xã hội không còn và như vậy, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội cũng không còn nữa. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại ở một số quốc gia, vẫn là một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội vẫn là một trào lưu chính trị - tư tưởng ở các nước tư bản, các nước có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và ở ngay chính cả những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị tan rã cách đây trên dưới 3 thập niên. Đặc biệt, khi phần lớn những lợi nhuận của xã hội chỉ tập trung vào trong tay số ít các nhà tư bản, sự bất bình đẳng trong xã hội tiếp tục gia tăng thì những vấn đề toàn cầu đói nghèo, dịch bệnh, sự biến đổi của khí hậu, chiến tranh, tội phạm quốc tế… sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để.

Nhận định về sự điều chỉnh, thích nghi chủ nghĩa tư bản đương đại, Thomas Piketty cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế hiện đại và sự truyền bá tri thức đã giúp tránh được sự diệt vong theo quan quan điểm của Marx nhưng không giúp điều chỉnh những cấu trúc tư bản sâu xa và tình trạng bất bình đẳng - hay chí ít là không nhiều như người ta đã từng hình dung trong những thập niên lạc quan sau Thế chiến II" và “Chủ nghĩa tư bản tự động tạo ra tình trạng bất bình đẳng tùy tiện và không bền vững, làm xói mòn những giá trị trọng dụng nhân tài, vốn là nền tảng của các xã hội dân chủ[3]".

Đánh giá về bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện nay, đồng thời khẳng định tại sao Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có".

Chính những giá trị tốt đẹp của chế độ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu trên là bản chất đích thực của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, đó cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì để từng bước hiện thực hóa./.

------------------------------------------------------------------

[1] Học viện Chính trị Công an nhân dân.

[2] Thomas Piketty, Tư bản thế kỷ XXI, Nxb trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2021, tr.719-720.

[3] Thomas Piketty, Tư bản thế kỷ XXI, Nxb trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2021, tr.10-11.

NĐT - PHM

TỪ QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ “XÓA BỎ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU” suy nghĩ về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Posted on 10 Tháng Mười Hai, 2009 by Civillawinfor

THS. VŨ THỊ KIỀU PHƯƠNG – Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tiếp cận quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” từ hai vấn đề: một là, chế độ tư hữu đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cần phải bị xóa bỏ; hai là, nếu “xóa bỏ chế độ tư hữu” là cần thiết, là tất yếu thì thời điểm lịch sử của sự kiện đó là khi nào, bài viết chỉ ra rằng, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu”chỉ có thể xảy ra một cách nội tại và tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển của xã hội. Cuối cùng, bài viết chỉ ra mối liên hệ giữa quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” với quan điểm của Đảng ta về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhất là vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân.

1. Chúng ta đều biết rằng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tất yếu để nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Song, trong thực tế, xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là một việc dễ dàng, bởi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “là vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ”. Ngay nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta “cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã hoàn chỉnh ngay từ đầu, mà còn phải trải qua một quá trình xây dựng rất lâu dài”[1]; do vậy, đã nảy sinh nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên cứu và giải đáp thỏa đáng hơn nữa, trong đó có vấn đề sở hữu nói chung, sở hữu tư nhân nói riêng. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta cũng chỉ rõ, sở hữu và thành phần kinh tế là một trong những vấn đề chưa được làm rõ “ở tầm quan điểm và chủ trương lớn”, nên chúng ta “chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành”[2]. Sự chưa thống nhất và chưa rõ ràng đó còn có nguyên nhân do nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn đang trong quá trình hình thành, nên mối quan hệ giữa thể chế xã hội chủ nghĩa và nhiều yếu tố của nền kinh tế thị trường chưa được làm rõ.

Theo chúng tôi, để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối với con đường phát triển hiện nay ở nước ta, như vấn đề sở hữu tư nhân chẳng hạn, việc đào sâu nghiên cứu quan điểm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin là cần thiết. Góp phần vào công việc có ý nghĩa đó, trong bài viết này, chúng tôi trình bày quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu”.

2. Trong chủ nghĩa Mác, “xóa bỏ chế độ tư hữu” là một vấn đề lớn. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung vào hai vấn đề: một là, chế độ tư hữu đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cần phải bị xóa bỏ? và hai là, nếu “xóa bỏ chế độ tư hữu” là cần thiết, là tất yếu thì thời điểm lịch sử của sự kiện đó là khi nào?

C.Mác trình bày quan niệm của ông về chế độ tư hữu và “xóa bỏ chế độ tư hữu” trong nhiều tác phẩm. Có tác phẩm C.Mác viết chung với Ph.Ăngghen, như Hệ tư tưởng Đức, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, v.v.. Có tác phẩm C.Mác viết riêng, như Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, Tư bản, v.v.. Về vấn đề này, chúng ta cũng cần phải kể đến các tác phẩm Ph.Ăngghen viết riêng, như Chống Đuyrinh, Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, v.v.. Song, dù viết chung hay viết riêng, dù thời điểm các ông viết là khi nào, chúng ta vẫn có thể nhận thấy một điều rất rõ là, tinh thần và tư tưởng của các ông về chế độ tư hữu và “xóa bỏ chế độ tư hữu” là thống nhất.

Thứ nhất, về vấn đề chế độ tư hữu đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cần phải bị xóa bỏ, câu trả lời có rất rõ trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844của C.Mác: chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa. Cũng cần nói thêm rằng, sự phát triển của kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc như Ađam Xmít, Ricácđô, Kênê,… cùng sự phát triển mạnh mẽ và điển hình của chủ nghĩa tư bản thời kỳ đó là hai điều kiện chín muồi cho những kết luận về chế độ tư hữu và “xóa bỏ chế độ tư hữu” của C.Mác.

Trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, C.Mác đã chỉ ra và phân tích rất rõ chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa như thế nào trên hai phương diện: một là, sự tha hóa của người công nhân trong sản phẩm lao động của anh ta; và hai là, sự tha hóa của người công nhân “trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất”.

Ở phương diện thứ nhất, biểu hiện của sự tha hóa là, sản phẩm do lao động của người công nhân làm ra không những không thuộc về anh ta, mà còn “đối lập với lao động như một thực thể xa lạ, như một lực lượng không phụ thuộc vào người sản xuất”. “Người công nhân sản xuất càng nhiều của cải, sức mạnh và khối lượng sản phẩm của anh ta càng tăng thì anh ta càng nghèo”. “Người công nhân càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta lại trở thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm càng tăng thêm giá trị thì thế giới con người càng mất giá trị”[3]. Nói chung, anh ta làm ra càng nhiều vật phẩm thì số vật phẩm anh ta có thể chiếm hữu được càng ít và anh ta bị chính sản phẩm do mình làm ra – tư bản – thống trị càng mạnh.

Ở phương diện thứ hai, “sự tha hóa của công nhân trong sản phẩm của anh ta không chỉ có ý nghĩa là lao động của anh ta trở thành một vật phẩm, có được sự tồn tại bên ngoài, mà còn có ý nghĩa là lao động của anh ta tồn tạiở bên ngoài anh ta, không phụ thuộc vào anh ta, xa lạ với anh ta, và lao động ấy trở thành một lực lượng độc lập đối lập với anh ta, có nghĩa là đời sống mà anh ta truyền cho vật phẩm, chống lại anh ta như một đời sống đối địch và xa lạ”[4]. Điều đó cũng có nghĩa là, trong lao động, đáng ra người công nhân khẳng định mình thì anh ta lại thấy mình “phủ định mình”, đáng ra người công nhân phải cảm thấy mình sung sướng thì anh ta lại “cảm thấy mình khổ sở”, đáng ra người công nhân “phát huy một cách tự do nghị lực thể chất và tinh thần” của mình thì anh ta lại cảm thấy mình đang “làm kiệt quệ thân thể của mình và phá hoại tinh thần của mình”.

Đến đây, câu hỏi đặt ra là, nếu sản phẩm người công nhân làm ra không thuộc về anh ta thì thuộc về ai? Tại sao trong quá trình lao động, người công nhân “cảm thấy mình bị tách khỏi bản thân mình”, cảm thấy lao động của mình là “lao động cưỡng bức” và chỉ xem lao động là “một phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu khác” chứ không xem lao động là nhu cầu?

Câu trả lời là: sản phẩm do người công nhân làm ra thuộc về địa chủ và nhà tư bản – “những vị thần có đặc quyền và ăn không ngồi rồi và ở đâu cũng đều ở trên công nhân và định pháp luật cho công nhân”[5], bởi họ là những người nắm giữ tư liệu sản xuất. C.Mác gọi những người này lànhững người sở hữu. Còn người công nhân, trong thực tế, chỉ nhận được một phần rất nhỏ – “cái mà không có nó thì tuyệt đối không thể được: chỉ đúng cái cần thiết để người công nhân tồn tại – không phải như một con người mà như một công nhân và không phải để người công nhân duy trì loài người, mà duy trì giai cấp nô lệ – giai cấp công nhân”[6]; bởi người công nhân không có sở hữu về tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hot xã hội nên phải làm thuê để nhận một khoản tiền công ít ỏi, không tương xứng với lao động của anh ta từ những người sở hữu. Cũng vì vậy, lao động của người công nhân không thuộc về anh ta. Lao động của người công nhân chịu sự chi phối của sự tích tụ, tích lũy tư bản và của sự phân công lao động ngày càng phát triển bởi sự tích lũy tư bản đó. Về vấn đề này, C.Mác viết: “Người công nhân ngày càng lệ thuộc hoàn toàn vào việc làm và hơn nữa vào một công việc nhất định, hết sức phiến diện, máy móc. Bên cạnh việc người công nhân bị hạ thấp, về mặt tinh thần và thể xác, xuống thành một cái máy, việc con người biến thành một hoạt động trừu tượng và một cái dạ dày, người công nhân cũng ngày càng phụ thuộc vào mọi sự dao động của giá cả thị trường, vào việc sử dụng những tư bản và vào ý muốn của người giàu. Đồng thời sự tăng thêm của giai cấp những người chỉ sống bằng lao động làm tăng thêm sự cạnh tranh giữa những công nhân với nhau, do đó cũng hạ thấp giá cả của họ xuống”[7]. Nói tóm lại, lao động của người công nhân không thuộc về anh ta, mà thuộc về một người khác – “người không phải công nhân”, đó là những người sở hữu.

Cũng trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, từ khái niệm lao động bị tha hóa được rút ra trong quá trình phân tích sự tha hóa của người công nhân, C.Mác đã chỉ rõ sở hữu tư nhân với tư cách sản phẩm của lao động bị tha hóa là như thế nào. Đồng thời, ông khẳng định, “một mặt, sở hữu tư nhân là sản phẩm của lao động bị tha hóa, và mặt khác, nó là phương tiện làm cho lao động bị tha hóa, là sự thực hiện sự tha hóa ấy”[8].

Đặc biệt là, trong tư tưởng của C.Mác về chế độ tư hữu và “xóa bỏ chế độ tư hữu”, chúng ta có thể thấy rằng, không chỉ “những công nhân không có sở hữu” mới bị tha hóa, mà ngay cả “những người sở hữu” – “người – không – phải – công – nhân” cũng bị tha hóa. Song, khác với hoạt động tha hóa ở người công nhân, sự tha hóa của những “người – không – phải – công – nhân” biểu hiện ra là “trạng thái tha hóa”[9]. Trạng thái tha hóa này được C.Mác chỉ ra và phân tích rõ nét trong những phần ông viết về sự tích lũy tư bản chủ nghĩa và về lợi nhuận của tư bản trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 và nhất là, trong Tư bản. Chẳng hạn, trong Tư bản, khi chỉ ra sự tha hóa của lực lượng tư bản mới ra đời, C.Mác đã trích dẫn sự mô tả của T.J.Dunning về lòng tham của tư bản như một minh chứng điển hình, đó là: “Tư bản sợ tình trạng không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít, cũng như giới tự nhiên sợ chân không. Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Được bảo đảm 10 phần trăm lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50 phần trăm thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần trăm thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ”[10].

Tựu trung lại, chế độ tư hữu khiến cho con người trở nên xa lạ với chính mình và làm biến mất “tồn tại có tính chất người” của con người. Chế độ tư hữu khiến cho giá trị con người bị hạ thấp xuống chỉ bằng máy móc, khiến cho người công nhân “cảm thấy mình chỉ còn là con vật” trong những chức năng con người của anh ta, khiến cho “cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người, còn cái có tính người thì biến thành cái vốn có của súc vật”[11]. Do đó, “xóa bỏ chế độ tư hữu” là cần thiết và tất yếu. “Xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu” là một giải pháp để giải phóng con người, mà trước hết là những người công nhân không có sở hữu, khỏi ách thống trị của chế độ tư hữu và trả lại cho con người một đời sống đích thực thay vì một “đời sống bị tha hóa”. Và, vì “xóa bỏ chế độ tư hữu” chính là “hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân”, nên sự giải phóng công nhân “không chỉ là sự giải phóng của họ”, mà còn “bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người; và sở dĩ như thế là vì toàn bộ cái chế độ nô dịch loài người nói chung bao hàm trong quan hệ của công nhân với sản xuất và vì mọi quan hệ nô dịch đều chỉ là những biến thể và kết quả của quan hệ ấy”[12]. Ở đây, chúng ta không chỉ thấy mầm mống quan niệm của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, mà còn có thể thấy tính nhân văn sâu sắc trong tư tưởng của ông.

Song, theo quan niệm của C.Mác, cần lưu ý rằng, chủ nghĩa cộng sản không xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà cụ thể là, xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” – “biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”[13]. Theo nghĩa đó, lý luận về sự xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” của chủ nghĩa cộng sản có thể được “tóm tắt” thành một luận điểm duy nhất là: “xóa bỏ chế độ tư hữu”. Theo chúng tôi, vấn đề được C.Mác đề cập ở đây là tính chất của chế độ tư hữu. Bởi theo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chủ nghĩa cộng sản tuyệt nhiên không muốn xóa bỏ sự chiếm hữu cá nhân của người công nhân đối với những sản phẩm lao động của anh ta, vì “sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một quyền lực chi phối lao động của người khác”, cũng không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội; mà vấn đề là, cần phải “xóa bỏ tính chất bi thảm của cái phương thức chiếm hữu” sản phẩm lao động do người công nhân làm ra và dùng sự chiếm hữu ấy nô dịch lao động của người khác – cái phương thức “khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản” trong chừng mực “những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi”[14].

Thứ hai, về thời điểm lịch sử của sự “xóa bỏ chế độ tư hữu”, câu trả lời có khá rõ trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844. C.Mác đã chỉ rõ, trước ông, trong lịch sử đã có những tư tưởng về sự “xóa bỏ chế độ tư hữu”. Đó là những tư tưởng về một chủ nghĩa cộng sản mà C.Mác gọi là “chủ nghĩa cộng sản thô lỗ” hay “chủ nghĩa cộng sản chưa hoàn bị”. Chủ nghĩa cộng sản này chỉ là sự hoàn thành “sự ghen ghét và sự thèm muốn bình quân hóa” xuất phát “từ quan niệm về một mức tối thiểu nào đó”. Đồng nghĩa với đó là, thời điểm và cách thức thực hiện sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” diễn ra một cách chủ quan. Theo C.Mác, “sự xóa bỏ chế độ tư hữu như vậy hoàn toàn không phải là sự chiếm hữu thật sự thước đo ấy, điều đó thấy rõ chính là từ sự phủ định một cách trừu tượng toàn bộ thế giới văn hóa và văn minh, từ việc quay trở về tính giản dị không tự nhiên của người nghèo và không có nhu cầu, người này không những không vượt lên trên trình độ chế độ tư hữu mà thậm chí chưa đạt tới chế độ đó”[15].

Theo C.Mác, khi mâu thuẫn giữa “lao động, bản chất chủ quan của chế độ tư hữu, với tính cách là cái loại trừ sở hữu” và “tư bản, lao động đã khách quan hóa, với tính cách là cái loại trừ lao động, – đó là chế độ tư hữu với tính cách là hình thức” phát triển đến “trình độ mâu thuẫn – của sự đối lập” “với tính cách là hình thức mãnh liệt”[16] thì nó sẽ thúc đẩy sự giải quyết mâu thuẫn đó. Và, sự giải quyết mâu thuẫn này diễn ra trong chủ nghĩa cộng sản, nhưng là một chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn khác với “chủ nghĩa cộng sản thô lỗ” hay “chủ nghĩa cộng sản chưa hoàn bị” mà C.Mác đã phê phán. Chủ nghĩa cộng sản mà C.Mác nói đến sẽ “giải quyết thực sự mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người”, sẽ “giải quyết thực sự cuộc tranh chấp giữa tồn tại và bản chất, giữa sự đối tượng hóa và sự tự khẳng định, giữa tự do và tất yếu, giữa cá thể và loài”[17]. Giải quyết thực sự ở đây có nghĩa là, sự giải quyết đó phải mang tính hiện thực, là những “hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực”. Chỉ có như thế thì mới có thể “xóa bỏ chế độ tư hữu” trong hiện thực thực tế. Còn nếu muốn xóa bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu thì chỉ cần tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản là đủ.

Theo chúng tôi, trong quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu”, thời gian của sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” là định tính và phụ thuộc vào sự phát triển của mâu thuẫn giữa lao động và tư bản. Điều đáng lưu ý là, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” sẽ phải “kinh qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”[18]. Bởi vì, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của chế độ tư hữu có tính lịch sử của nó, với những ý nghĩa lịch sử của nó. Điều đó có nghĩa là, mặc dù chúng ta hiểu được thế nào là chế độ tư hữu và hơn thế, hiểu được bản chất của chế độ đó, nhưng chúng ta hoàn toàn không thể dùng mệnh lệnh hành chính, dùng mong muốn chủ quan của chúng ta để “xóa bỏ chế độ tư hữu” trong hiện thực. Sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” này chỉ có thể xảy ra một cách nội tại và tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển của xã hội. Giờ “tận số” của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa sẽ đến khi “sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa”. Khi đó, cái vỏ ấy sẽ “vỡ tung ra” và “những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt”[19]. C.Mác gọi đó là “sự phủ định cái phủ định”.

3. Từ quan niệm của C.Mác về chế độ tư hữu và “xóa bỏ chế độ tư hữu”, liên quan đến vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, có hai điểm cần lưu ý. Một là, hoàn cảnh lịch sử của quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu”. Quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” được hình thành vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh mẽ và điển hình ở châu Âu với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân và sự tích tụ, tích lũy tư bản đã phát triển đến mức có thể khiến cho “một bộ phận những kẻ trước kia là nhà tư bản rơi vào hàng ngũ giai cấp công nhân”. Và, chế độ tư hữu được C.Mác bàn đến ở đây không phải là một chế độ tư hữu bất kỳ, mà đó là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định. Trong khi, sự phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không trực tiếp trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó, sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” nói riêng vào con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một việc làm đòi hỏi phải có sự tìm tòi và sáng tạo. Hai là, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” phải xét đến tính chất của chế độ tư hữu, tức là phải xem tư nhân trong chế độ tư hữu là người lao động hay là người không lao động. Bởi vì, “quyền tư hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất của mình là cơ sở của nền sản xuất nhỏ, mà sản xuất nhỏ lại là điều kiện tất yếu để phát triển nền sản xuất xã hội và cá tính tự do của bản thân người lao động”[20]. Theo đó, có thể nói, sở hữu tư nhân của người lao động là một giá trị. Bởi, rốt cuộc, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” tư bản chủ nghĩa là để “khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra”[21].

4. Từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, trải qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X, quan điểm của Đảng ta về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có nhiều đổi mới và sáng tạo, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trong đó, những đổi mới và sáng tạo của Đảng ta trong sự chỉ đạo chiến lược về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất đáng kể. Có thể nói, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong những năm đổi mới vừa qua có một phần đóng góp không nhỏ của các loại hình kinh tế tư nhân [cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân].

Gần đây, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, một vấn đề nhạy cảm – vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân đã được Đảng ta đưa ra một cách thẳng thắn. Văn kiện ghi rõ: “Đảng ta chủ trương: đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương”[22]. Theo chúng tôi, đây là sự khuyến khích đảng viên làm giàu chính đáng. Sự khuyến khích này là hoàn toàn đúng đắn. Bởi vì,một mặt, mỗi đảng viên trước hết là một cá nhân, một con người với những khả năng, nhu cầu và mong muốn đa dạng của bản thân họ. Sự bộc lộ, thỏa mãn và phát triển những khả năng, nhu cầu và mong muốn ấy dù là tiềm tàng, nhưng thường trực. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân thể hiện một sự quan tâm sâu sắc tới sự phát triển ngày càng toàn diện hơn của người đảng viên trước hết với tư cách một con người. Mặt khác, khi đảng viên được tự do làm giàu chính đáng thì đồng thời, đảng viên hoàn toàn có thể góp phần làm giàu cho xã hội, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Song, bởi tính chất nhạy cảm của vấn đề, bởi sở hữu tư nhân không chỉ là sản phẩm của lao động bị tha hóa, mà còn “là phương tiện làm cho lao động bị tha hóa, là sự thực hiện sự tha hóa ấy”, nên quan điểm của Đảng ta về việc cần sớm ban hành và chỉ đạo thực hiện những quy định cho hoạt động kinh tế tư nhân của đảng viên là cần thiết. Theo chúng tôi, quan điểm của Đng ta về việc đảng viên làm kinh tế tư nhân và những quy định của nó cũng góp phần vào việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Về vấn đề này, có thể nói, Đảng ta đã vừa quán triệt tư tưởng về sự phát triển toàn diện của con người và tư tưởng về sở hữu tư nhân và “xoá bỏ chế độ tư hữu” của C. Mác, vừa có sự sáng tạo để những tư tưởng đó có một sự tồn tại và phát triển phù hợp với hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc khuyến khích sự phát triển sở hữu tư nhân trong một nền kinh tế thị trường còn non trẻ, ở một quốc gia đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội một cách gián tiếp, nghĩa là bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như nước ta, có thể sẽ đem lại những hệ quả không mong muốn và làm nguy hại tới định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã lựa chọn. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, khi mặt trái của sở hữu tư nhân [chiếm đoạt tư liệu sản xuất xã hội, bóc lột lao động và làm cho con người tha hóa] được cơ chế còn đang trong quá trình hình thành của nền kinh tế thị trường “khuyến khích” phát triển vượt ra ngoài tầm tác động, giám sát của thể chế xã hội chủ nghĩa cũng đang trong quá trình xây dựng. Dẫu vậy, việc Đảng ta khẳng định và tạo điều kiện cho sở hữu tư nhân có được một vị trí thích đáng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự hoạch định và chỉ đạo chiến lược cần thiết, đúng đắn và phù hợp với các quy luật vận động và phát triển của xã hội. Và, qua đó, có thể khẳng định tầm tư duy lãnh đạo và bản lĩnh chính trị của Đảng ta.

Qua sự phân tích mối liên hệ giữa quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” và vấn đề sở hữu tư nhân ở Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, sức sống của chủ nghĩa Mác vẫn là bất diệt. Song, cũng cần phải nói thêm rằng, đối với con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, nếu như việc nhận thức chủ nghĩa Mác cần phải có sự tìm tòi, thì việc vận dụng chủ nghĩa Mác không thể thiếu sự sáng tạo./.

Chú thích

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.330.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.65.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.42. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.128.

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.129-130.

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.79.

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.79.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.76.

[8] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.142.

[9] Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.145.

[10] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.1056.

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42. tr.133.

[12] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.143-144.

[13] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t. 4, tr.615.

[14] Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.617-618.

[15] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.165.

[16] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.163.

SOURCE: Tạp chí Triết học số 8 [207], năm 2008

Share this:

  • Click to print [Opens in new window]
  • Click to email this to a friend [Opens in new window]
  • Click to share on Twitter [Opens in new window]
  • Click to share on Facebook [Opens in new window]
  • Click to share on Tumblr [Opens in new window]
  • Click to share on LinkedIn [Opens in new window]
  • Click to share on Pinterest [Opens in new window]
  • Click to share on WhatsApp [Opens in new window]
  • Click to share on Skype [Opens in new window]
  • More

  • Click to share on Reddit [Opens in new window]

Like this:

Like Loading...

Related

Filed under: 1. Lý luận chung, Nhà nước và nền KTTT, Quyền sở hữu, Xã hội, nhà nước và pháp luật Việt Nam |

2 Responses

  1. Toi La Toi, on 6 Tháng Mười, 2011 at 10:43 chiều said:

    Ai viet bai nay la nguoi bi dien: nhai lai nhieu thu rac ruoi nen bi “tau hoa nhap ma” roi.

    Trả lời

  2. Vivaldi, on 11 Tháng Mười Hai, 2009 at 8:49 sáng said:

    Ở đây cần phải làm rõ là Mác chống chế độ tư hữu khi và chỉ khi nó bị biến thành phương tiện để những kẻ cầm quyền [chủ sở hữu] nô dịch, áp bức và bóc lột người khác.

    Trả lời

Leave a Reply Cancel reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Tranh luận mô hình 'tư bản' hay 'xã hội chủ nghĩa' với thực tế Việt Nam

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Người dân mong cuộc sống tốt đẹp hơn

Vào thời điểm chuẩn bị cho thêm một kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị 5 triệu thành viên, dự kiến vào đầu 2021, TBT Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đề cao “chủ nghĩa Marx-Lenin” ở Việt Nam.

Việt Nam: Tiêu chuẩn mới cho Tổng Bí thư ‘được hạ bớt’

Đảng 'trở thành dân tộc' hay để Dân yêu Đảng 'như con'?

Tính chất 'xã hội chủ nghĩa' của thể chế ở Việt Nam đang giảm đi, hay tăng lên là một câu hỏi khó trả lời, vì nước này đã nói là đi theo con đường 'kinh tế thị trường'.

Quảng cáo

Cùng lúc, 45 năm sau khi cuộc chiến với VNCH và Hoa Kỳ kết thúc, bộ máy chính trị tại Việt Nam hiện vẫn nêu cao 'định hướng XHCN'.

Kỷ niệm 130 năm sinh nhật chủ tịch Hồ Chí Minh [19/5/1890 - 19/5/2020], TBT Trọng nói:

"...Xuất phát từ điều kiện lịch sử của Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ, nước ta cần phải trải qua thời kỳ quá độ, từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự nghiệp mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, sẽ có vô vàn khó khăn, phức tạp phải vượt qua."

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Người Việt Nam còn quan tâm chủ nghĩa xã hội hay tư bản?

Hồi đầu 2019, Pew Research Center công bố một điều tra dư luận của họ cho thấy 55% người Mỹ nghĩ tiêu cực về “chủ nghĩa xã hội” [socialism], và có 42% bày tỏ quan điểm tích cực.

Cần nói đây là cách hiểu của họ về “chủ nghĩa xã hội” kiểu Phương Tây, có tự do ngôn luận, quyền biểu tình, hội họp và an sinh xã hội tốt.

Những người ủng hộ 'chủ nghĩa xã hội' ở Mỹ nói họ tin rằng 'socialism' cho người lao động quyền có tiếng nói, và giúp giảm bất công, phân biệt giàu nghèo.

Phái không thích CNXH cho rằng thể chế này “đã được thử nghiệm ở rất nhiều nơi, nhiều lần và đầu thất bại, điển hình là Venezuela”.

Một số không nhỏ nói CHXH “triệt tiêu sáng kiến” và “hạn chế tự do”.

Tổng thống Donald Trump trong cuộc vận động tranh cử 2020 liên tục tấn công phe Dân chủ Mỹ là “những kẻ theo chủ nghĩa xã hội”.

Tuy thế, ứng viên hàng đầu của Dân chủ, ông Bernie Sanders tự nhận là “người XHCN dân chủ” - democratic socialist, chứ không phải là 'socialist'.

Chừng hai phần ba [65%] nói họ có cách nhìn tích cực về 'chủ nghĩa tư bản” và 1/3 nhìn tiêu cực.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Việt Nam mở cửa du lịch với thế giới

Bản chất, đặc điểm, xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại

Ngày phát hành: 21/05/2020 Lượt xem 113683


1. Trong lịch sử hơn 400 năm từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đến chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thời đại toàn cầu hóa. Trong mọi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản đều mang trong mình những thuộc tính chung, cơ bản, tạo nên bản chất của chủ nghĩa tư bản, phân biệt chủ nghĩa tư bản với các chế độ xã hội khác [hay các hình thái kinh tế - xã hội khác]. Đồng thời, trong mỗi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản lại có những đặc điểm riêng, những biểu hiện mới cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả trong cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.

- Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn phát triển trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Các nước tư bản phát triển, như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản là những nước đi đầu trong nghiên cứu phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đi đầu trong các lĩnh vực điện tử, tin học, thông tin, viễn thông, phát triển Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học... làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chất lượng, hiệu quả của những ngành kinh tế truyền thống và tạo nên nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều sản phẩm mới, công nghệ cao, có giá trị gia tăng, mức cạnh tranh cao. Ngày nay, các nước tư bản phát triển cũng đang đi đầu trong việc phát triển nền kinh tế số, kinh tế tri thức, nền kinh tế thông minh với các ngành công nghiệp thông minh, nông nghiệp, dịch vụ thông minh, hệ thống giao thông, năng lượng, thông tin thông minh, hệ thống phân phối thông minh... Sự phát triển của lực lượng sản xuất trên nền tảng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra tiềm năng cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Các nước tư bản phát triển trở thành các trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học công nghệ của thế giới, có quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người thuộc hàng cao nhất thế giới.

- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có những đặc điểm mới. Tích tụ, tập trung sản xuất làm hình thành các công ty có quy mô ngày càng lớn, trở thành những công ty tư bản độc quyền. Nhu cầu vốn của các công ty này vô cùng lớn, vượt quá khả năng của một vài cá nhân, đòi hỏi phải thu hút các nguồn lực xã hội. Công ty cổ phẩn trở thành hình thức tổ chức phổ biến của các công ty, tập đoàn kinh tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sở hữu tư nhân, nền tảng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong các công ty này, không còn tồn tại dưới hình thức sở hữu của những người sản xuất độc lập, mà là sở hữu tư nhân đã được xã hội hóa. Trong các công ty cổ phần, không chỉ có vốn của các nhà tư bản mà còn có sự tham gia của công nhân, người lao động. Với việc tham gia thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường chứng khoán, số người [và tổ chức] đầu tư vào cổ phiếu ngày càng nhiều, quyền sở hữu cổ phần của công ty ngày càng phân tán. Tuy nhiên, các nhà tư bản vẫn là người nắm giữ cổ phần chi phối công ty, tập đoàn. Trong các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia, siêu quốc gia, các nhà tư bản chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối ở công ty mẹ thì thông qua “chế độ tham dự” có thể chi phối được lượng vốn rất lớn của xã hội.

Trong nền kinh tế tư bản hiện đại, không chỉ hình thức sở hữu mà cả đối tượng sở hữu cũng có những yếu tố mới. Cùng với đối tượng sở hữu là các yếu tố của tư liệu sản xuất truyền thống, như đất đai, tài nguyên, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu..., xuất hiện nhiều đối tượng sở hữu mới, như cổ phiếu, trái phiếu, thương hiệu của doanh nghiệp, nhất là sở hữu trí tuệ, sở hữu các phát minh, sáng chế, bí quyết công nghệ, các thiết kế, kiểu dáng sản phẩm... Việc sở hữu những đối tượng này có ý nghĩ ngày càng lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp và thực tế sở hữu các đối tượng này đều ở trong tay các nhà tư bản.

Các quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, phân phối trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có những thay đổi lớn. Các dây chuyền sản xuất tự động, các máy móc tự động, các robốt thay thế cho con người được sử dụng ngày càng nhiều. Các dây chuyền tự động hóa không chỉ sản xuất hàng loạt một loại sản phẩm mà còn có khả năng sản xuất được những sản phẩm đơn chiếc theo nhu cầu, thiết kế riêng của từng khách hàng. Hệ thống máy tính, trí tuệ nhân tạo đã thay thế nhiều hoạt động quản lý sản xuất, phân phối của con người. Thay thế cho việc tổ chức sản xuất tập trung, hoàn chỉnh một sản phẩm trước đây, ngày nay, việc sản xuất một sản phẩm, nhất là những sản phẩm lớn, phức tạp, được chia nhỏ, phân tán cho nhiều đơn vị sản xuất độc lập thực hiện, chuyên môn hóa sản xuất những chi tiết, linh kiện được tiêu chuẩn hóa, tạo nên chuỗi các công đoạn sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Các đơn vị sản xuất có thể ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác nhau. Cách thức tổ chức sản xuất mới tạo điều kiện, cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng có công nghệ hiện đại hợp tác, liên kết, trở thành vệ tinh, đối tác tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn kinh tế lớn. Các công ty, tập đoàn kinh tế lớn chuyển quản lý từ mô hình “kim tự tháp”, tập trung quyền quản lý vào các công ty mẹ sang quản lý theo mô hình “mạng lưới”, mỗi đơn vị sản xuất là một điểm nút trong mạng lưới, có tính tự chủ cao, có khả năng ứng phó linh hoạt, hiệu quả với các biến động của thị trường. Các nhà tư bản chỉ cần nắm cổ phần chi phối ở công ty mẹ, nắm các công nghệ cốt lõi, thương hiệu, hệ thống phân phối sản phẩm cuối cùng là chi phối được toàn bộ chuỗi giá trị sản phẩm. Nền kinh tế thị trường hiện đại với vai trò chi phối của các tổ chức tư bản độc quyền là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

- Cùng với sự phát triển kinh tế, cơ cấu xã hội, giai cấp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Ngay cơ cấu giai cấp công nhân cũng có những sự thay đổi lớn, quan trọng. Bên cạnh lực lượng đông đảo những công nhân truyền thống, những người lao động làm thuê trực tiếp làm việc trong các dây chuyền sản xuất, lưu thông của các công ty, tập đoàn tư bản, họ được xem là những “công nhân cổ xanh” [trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, họ cũng đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật đến một trình độ nhất định, phải được đào tạo mới đáp ứng được yêu cầu công việc], còn có một bộ phận người lao động làm thuê có trình độ cao, có thu nhập cao, đảm nhận các vị trí lãnh đạo, quản lý, chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau trong guồng máy sản xuất của tư bản, họ được xem là những “công nhân cổ trắng”. Công nhân cổ trắng cùng với tầng lớp công chức, viên chức nhà nước, các luật sư, bác sĩ, giáo sư các trường đại học, các viện nghiên cứu,... trở thành tầng lớp trung lưu của xã hội. Ở các nước tư bản phát triển, tầng lớp trung lưu chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu xã hội, ở giữa hai cực là giai cấp tư sản giàu có và những người lao động có mức sống thấp, những người thất nghiệp có cuộc sống vô cùng khó khăn.

- Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, dù có sự khác nhau ở các nước và ở các thời kỳ khác nhau, nhà nước tư bản đều có vai trò và ảnh hưởng lớn đến các quan hệ kinh tế và sự phát triển kinh tế, tạo nên cơ chế phối hợp giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong việc điều tiết các hoạt động kinh tế của đất nước. Nhà nước không chỉ xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tạo khung khổ pháp luật, duy trì sự ổn định xã hội cho các hoạt động kinh tế, mà còn bằng các chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng hoặc thắt chặt, các hoạt động đầu tư, mua sắm, kiểm soát của chính phủ đối với các ngành, lĩnh vực, với hoạt động của các công ty, tập đoàn kinh tế để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu, đầu tư ra nước ngoài, phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản. Nhà nước đóng vai trò như một nhà tư bản tập thể, lý tưởng. Đồng thời, ở các mức độ khác nhau, Nhà nước ở các nước tư bản phát triển đều thể hiện sự quan tâm, coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền lợi của người lao động, quy định mức tiền lương tối thiểu, điều kiện làm việc, điều hòa quan hệ giữa người lao động và chủ doanh nghiệp; thông qua chính sách thuế để phân phối lại thu nhập, thông qua các chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội để hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn, giảm bớt sự phân hóa và xung đột xã hội; định hướng doanh nghiệp vào thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường.

Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, các tổ chức xã hội do người dân, các tầng lớp, đối tượng xã hội tự nguyện thành lập ngày càng nhiều, có vai trò ngày càng lớn. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội hoạt động để bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội viên của mình, phản ánh với nhà nước nguyện vọng, ý kiến của thành viên, hội viên; thay mặt các thành viên, hội viên thương lượng với giới chủ về tiền lương, điều kiện lao động và các bảo đảm xã hội cho người lao động... Đây là những yếu tố mới, những xu hướng tiến bộ đang hình thành, phát triển trong lòng chủ nghĩa tư bản. Tùy theo mức độ, nội dung can thiệp của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế thị trường mà có nhiều mô hình phát triển khác nhau trong các nước tư bản phát triển, như mô hình kinh tế thị trường tự do [Mỹ, Anh], mô hình kinh tế thị trường xã hội [Đức], mô hình kinh tế thị trường phúc lợi xã hội [các nước Bắc Âu], mô hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển [Nhật Bản, Hàn Quốc]. Sự điều tiết của nhà nước, sự tham gia của các tổ chức xã hội tuy không làm thay đổi được bản chất của tư bản, không xóa bỏ được những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, nhưng làm giảm nhẹ được tính chất đối kháng giai cấp, hạn chế được nguy cơ khủng hoảng và bùng nổ xã hội.

- Một đặc điểm mới, quan trọng khác của chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, Xu hướng phát triển của tư bản là không giới hạn, phá vỡ mọi giới hạn. Ban đầu, khi mới phát triển, tư bản đã phá vỡ tình trạng cát cứ phong kiến, làm hình thành nền kinh tế thống nhất, thị trường thống nhất trong một quốc gia. Khi tư bản phát triển, trở thành các công ty, tập đoàn lớn, thị trường trong nước trở nên nhỏ bé, không đáp ứng được yêu cầu hoạt động, phát triển của tư bản. Bành trướng ra nước ngoài, mở rộng thị trường, khai thác các nguồn lực nước ngoài trở thành một yêu cầu khách quan, tất yếu của tư bản. Các công ty, tập đoàn tư bản lớn là lực lượng xung kích, đi đầu thúc đẩy các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, xuất khẩu tư bản, tạo nên sự vận động, luân chuyển của các luồng vốn, tiền tệ, các luồng hàng hóa, dịch vụ, các hoạt động thương mại, đầu tư trên quy mô toàn cầu, làm hình thành thị trường thế giới, phân công lao động và hợp tác quốc tế trên toàn cầu. Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu từ cả hai phía. Phía các nước tư bản phát triển, các công ty, tập đoàn tư bản lớn mở rộng được thị trường tiêu thụ, khai thác được thêm các nguồn lực để phát triển. Phía các nước kém phát triển có nguồn vốn, máy móc, thiết bị, công nghệ, phương thức sản xuất mới, hiện đại, có thị trường tiêu thụ để khai thác, phát huy các tiềm năng, thế mạnh của mình phát triển đất nước, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, do toàn cầu hóa được dẫn dắt, thúc đẩy bởi các tập đoàn, công ty tư bản và của nhà nước ở những nước tư bản phát triển, là sự mở rộng hoạt động của tư bản trên phạm vi toàn cầu, vì lợi ích của tư bản, nên mặc dù bề ngoài là những quan hệ bình đẳng, tự nguyện của từ hai phía, nhưng thực chất là những quan hệ không bình đẳng [không thể bình đẳng] bởi tương quan lực lượng giữa hai bên. Các công ty, tập đoàn tư bản, được sự hỗ trợ của nhà nước tư bản, nắm mọi lợi thế, yếu tố quyết định để chi phối các nước kém phát triển, các nước kém phát triển ở vào thế yếu, ít có khả năng lựa chọn. Thu hút các nước kém phát triển tham gia vào các chuỗi giá trị sản phẩm của mình là để các tập đoàn tư bản khai thác nguồn lao động phổ thông giá rẻ, các tài nguyên thiên nhiên, chuyển giao những công nghệ thấp, những thiết bị còn có thể và cần được tận dụng, những sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, những lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường... Các nước kém phát triển trở thành khu vực “ngoại vi” của các trung tâm phát triển của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được cải thiện, nhưng có một khoảng cách xa giữa vùng “ngoại vi” với các “trung tâm” và khoảng cách này có xu hướng ngày càng mở rộng.

2. Do chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh, thích nghi, tiếp tục phát triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới như nêu ở trên, nên đã có một số quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay đã thay đổi về bản chất, không còn là chủ nghĩa tư bản như trước đây, không còn là chế độ bóc lột. Ngày nay, máy móc đã thay thế rất nhiều, và trong tương lai, máy móc tự động hóa có thể thay thế hoàn toàn lao động của công nhân ở nhiều công đoạn của quá trình sản xuất; sự giàu có của các nhà tư bản không phải do bóc lột sức lao động của công nhân mà do máy móc đem lại. Hơn nữa, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, hầu hết các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn đều là công ty cổ phần, trong đó không ít công nhân, người lao động cũng có cổ phần, trong thu nhập, ngoài tiền công lao động còn có cổ tức do cổ phần đem lại. Giai cấp công nhân được hữu sản hóa, không còn là giai cấp vô sản; nhiều người lao động làm thuê, nhất là ở các lĩnh vực quản lý, lĩnh vực có trình độ công nghệ cao không những không còn bị bần cùng hóa mà đã trở thành tầng lớp trung lưu của xã hội. Công ty cổ phần đã làm cho sở hữu tư nhân được xã hội hóa, chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa tư bản xã hội, chủ nghĩa tư bản dân chủ, hoàn toàn khác với chủ nghĩa tư bản tư nhân, bóc lột tàn bạo trước đây.

Vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước tư bản đối với nền kinh tế đã giúp chủ nghĩa tư bản khắc phục, hạn chế được những tác động tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường, tạo ra môi trường ổn định, thuận lợi cho hoạt động kinh tế; đồng thời, hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhà nước tư bản vừa can thiệp vào lĩnh vực tiền công, tiền lương, bảo đảm điều kiện làm việc cho người lao động, điều hòa quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, vừa có những quy định hướng các doanh nghiệp thực hiện các trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. Bằng các chính sách phân phối lại, chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và bằng phát triển cung cấp dịch vụ công, nhà nước tư sản đã quan tâm hỗ trợ cải thiện đời sống cho các đối tượng xã hội có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn... chủ nghĩa tư bản hiện đại đã là chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân đạo, chủ nghĩa tư bản có ý thức; trong đó, có những mục tiêu cao đẹp hơn chỉ là tìm kiếm lợi nhuận, đã có cơ chế để giải quyết hài hòa lợi ích của các bên có liên quan nhà nước, nhà tư bản, người lao động; việc xây dựng môi trường văn hóa trong doanh nghiệp, các công ty, tập đoàn kinh tế, trong cộng đồng xã hội và việc bảo vệ môi trường được coi trọng. Từ đó, các quan điểm này cho rằng chủ nghĩa tư bản sẽ còn tiếp tục tồn tại, còn tiềm năng phát triển và sẽ tồn tại vĩnh viễn, là chế độ xã hội cuối cùng, cao nhất của con người.

3. Không thể phủ nhận trong những năm qua, chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh, thích ứng, tận dụng được các thành tựu khoa học công nghệ để tồn tại, tiếp tục phát triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới; trong đó, có những yếu tố có thể xem là những mầm mống của chủ nghĩa xã hội hình thành trong lòng xã hội tư bản. Nhưng có thể khẳng định rằng những điều chỉnh, những đặc điểm mới, yếu tố mới đó vẫn chưa phá vỡ được khuôn khổ, nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa, vẫn chỉ là những điều chỉnh, những sự chuyển biến trong khuôn khổ của chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chỉ là giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền trong thời đại toàn cầu hóa, độc quyền không chỉ trong phạm vi một quốc gia, mà trên quy mô toàn cầu. Thị trường toàn cầu ngày nay do một số tập đoàn tư bản độc quyền chi phối, như: thị trường máy bay do hai công ty Boing và AirBus chia nhau thị phần, thị trường điện thoại di động, các thiết bị điện tử, chủ yếu do các công ty SamSung, Apple, IBM thống trị...

- Theo đuổi lợi nhuận đã, đang và sẽ là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các nhà tư bản; sự giàu có của các nhà tư bản là từ nguồn lợi nhuận này. Nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất. Bóc lột vẫn là bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Quan điểm cho rằng máy móc cũng tạo ra giá trị, tạo ra sự giàu có của nhà tư bản không phải là mới, đã từng bị phê phán. Sai lầm của quan điểm này là ở chỗ không hiểu bản chất của “của cải”, của “tài sản” trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong xã hội tư bản. Đối với con người và xã hội nói chung, ở mọi giai đoạn phát triển, “của cải”, “tài sản” là tất cả những sản phẩm vật chất có ích, cần thiết cho cuộc sống, cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người, là đất, nước, lúa, gạo, các công cụ, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt... Song, đối với nhà tư bản, để thực hiện mục đích làm giàu, sản xuất hay kinh doanh cái gì, hàng hóa gì không quan trọng, đấy chỉ là phương tiện để khi bán đi có được nhiều tiền hơn. Tiền, một hình thái của giá trị, mới thật sự là tài sản, của cải trong xã hội tư bản, có tiền là có thể có được mọi sản phẩm, mọi tài sản vật chất khác. Máy móc cũng là sản phẩm của lao động, nó có giá trị, khi sử dụng máy móc vào sản xuất, giá trị của máy móc được chuyển dần vào sản phẩm. Máy móc có năng suất rất cao, sản xuất ra được rất nhiều sản phẩm nên giá trị chuyển từ máy móc sang mỗi sản phẩm rất nhỏ. Nhưng giá trị của một hàng hóa không phải do chi phí sản xuất riêng, cá biệt của một người sản xuất ra hàng hóa đó quyết định mà là mức chi phí trung bình của xã hội [của nhiều người cùng sản xuất hàng hóa đó] cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Vì vậy, nhà tư bản bán hàng hóa do sử dụng máy móc tạo ra theo giá trị [giá cả] chung, hơn nữa còn theo giá cả độc quyền do mình tự định ra [vì công ty có vị trí độc quyền], sẽ thu được giá trị lớn hơn nhiều giá trị đã bỏ ra. Đây là nguồn gốc đem lại sự giàu có của nhà tư bản. Giá trị tăng thêm này không phải do máy móc tạo ra mà do lao động xã hội tạo ra, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đây là động lực thúc đẩy sử dụng máy móc trong chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng không xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội, mà sự phân hóa còn tiếp tục gia tăng, vẫn là chế độ bất công. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, một bộ phận công nhân có cổ phiếu, cổ phần ở các công ty tư bản. Số lượng công nhân có cổ phiếu có thể đông, nhưng số lượng cổ phiếu mỗi người có đều rất nhỏ, nên thực tế tổng số cổ phiếu mà người công nhân có chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cổ phiếu của các công ty tư bản. Trong những năm 70 của thế kỷ trước, chính phủ Mỹ thực hiện “kế hoạch phát triển sở hữu cổ phiếu của người lao động làm công” [ESOP], lúc cao nhất gần 40% người lao động làm công Mỹ có cổ phiếu, nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Số lượng ít, phân tán, người lao động hoàn toàn không có tiếng nói gì ảnh hưởng tới hoạt động của các công ty. Ở các nước tư bản phát triển, những cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cấp cao, nhờ có trình độ chuyên môn cao [công nhân cổ trắng], cùng với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, tạo thành tầng lớp trung lưu của xã hội chỉ là một bộ phận nhỏ trong lực lượng làm thuê và dù nhà nước còn có các chính sách phân phối lại thu nhập, chính sách bảo hiểm, trợ cấp, cung cấp nhiều dịch vụ công, hỗ trợ những đối tượng khó khăn, nhưng số lượng những người có mức sống thấp, dưới mức nghèo khổ, những người thất nghiệp, người vô gia cư, người nhập cư ở những nước này còn rất lớn. Hơn nữa, để đánh giá chủ nghĩa tư bản hiện đại, không thể chí thấy khu vực “trung tâm” là các nước kinh tế phát triển, mà cần phải thấy cả khu vực “ngoại vi” của nó là những nước đang phát triển, nước nghèo, kém phát triển, nơi có tỷ lệ người nghèo, đói còn rất cao. Chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản giữa người giàu và người nghèo trong thế giới tư bản rất lớn, xu hướng ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Liên hợp quốc, tài sản của 225 người giàu nhất thế giới lớn hơn thu nhập, tài sản của hơn 2,5 tỷ người nghèo trên thế giới. Cuộc khủng hoảng do đại dịch Covid-19 hiện nay đang làm bộ lộ rất nhiều về sự phân hóa xã hội ở các nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là chủ nghĩa tư bản nhân đạo, nhân văn như một số quan điểm đề cao nó.

- Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không ngăn chặn, tránh được các cuộc khủng hoảng kinh tế gắn liền với bản chất của chủ nghĩa tư bản, với mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự can thiệp, điều tiết của nhà nước đã giúp chủ nghĩa tư bản hiện đại tránh được các cuộc khủng hoảng sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ của các giai đoạn trước, nhưng lại làm xuất hiện những hình thức khủng hoảng mới, khủng hoảng cơ cấu xảy ra ở một số ngành, lĩnh vực, mà điển hình nhất là hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ các năm 1973, 1979 đã đẩy các nước tư bản phát triển và kinh tế thế giới vào tình trạng vừa lạm phát vừa đình đốn [Stagflation], suy thoái đến đầu những năm 1980. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á những năm 1997-1998 làm sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá trị đồng tiền, phá sản hàng loạt doanh nghiệp của các nước Châu Á, ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính, tiền tệ và kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2008-2009, được xem là cuộc khủng hoảng lớn nhất từ sau cuộc khủng hoảng 1929-1933 đến nay, làm sụp đổ hàng loạt ngân hàng lớn ở các nước tư bản phát triển, dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu, buộc chính phủ các nước trên thế giới phải có những biện pháp khẩn cấp, bơm hàng trăm tỷ USD để cứu vãn các ngân hàng, thị trường chứng khoán, phục hồi kinh tế. Sau khủng hoảng tài chính 2008-2009, một loạt nước tư bản phát triển: Ailen, Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha lại rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, đứng trước nguy cơ vỡ nợ phải yêu cầu sự trợ giúp của Liên minh Châu Âu [EU], của ngân hàng thế giới [WB], Quỹ tiền tệ quốc tế [IMF]... Khủng hoảng kinh tế đã diễn ra liên tiếp, đẩy nền kinh tế vào suy thoái, làm tăng nạn thất nghiệp, sự căng thẳng xã hội. Đồng thời, chạy theo mục tiêu lợi nhuận tối đa, chủ nghĩa tư bản hiện đại còn là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về môi trường sinh thái và biến đổi khí hậu toàn cầu, đe dọa sự sống của con người trên trái đất. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là chế độ xã hội tạo được sự phát triển ổn định, hài hòa, bền vững cả về kinh tế, xã hội, môi trường.

- Trong chủ nghĩa và bản hiện đại, những mâu thuẫn gắn liền với bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại, dù có những hình thức biểu hiện mới. Đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa tư bản với tư bản, giữa các cường quốc tư bản với các nước nghèo, kém phát triển, đang phát triển. Để có lợi nhuận tối đa, thì đối với nhà tư bản, thời gian lao động của công nhân càng dài càng tốt, cường độ lao động càng cao càng tốt, chi phí tiền lương, tiền công, trang bị bảo hộ lao động, phúc lợi cho người lao động càng ít càng tốt, do đó, luôn tìm mọi cách, kể cả “lách luật” để làm điều này một cách tinh vi. Sự hình thành đội ngũ công nhân “cổ trắng” trong thời đại cách mạng công nghệ và các chính sách điều tiết của nhà nước có góp phần cải thiện đời sống cho một bộ phận công nhân ở các “trung tâm” phát triển, nhưng tư bản lại chuyển đầu tư sang các vùng “ngoại vi” kém phát triển để tận dụng lao động giá rẻ, tạo nên tình trạng thất nghiệp ở khu vực trung tâm. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân cực xã hội ngày càng tăng cả ở khu vực “trung tâm” và “ngoại vi” và việc bổ sung vào đội ngũ những người lao động làm thuê cả những người có trình độ cao làm cho mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong chủ nghĩa tư bản hiện đai sẽ ngày càng phát triển.

Ngày nay, mâu thuẫn giữa các công ty, tập đoàn tư bản, các nước tư bản phát triển với nhau trong việc giành giật thị trường tiêu thụ, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, các phát minh, sáng chế, thành tựu khoa học công nghệ, các nhân lực chất lượng cao... vẫn diễn ra rất gay gắt. Sự ra đời, hoạt động của các tổ chức toàn cầu, khu vực, như WTO, G7, G20, APEC... đã tháo gỡ, giải quyết được một số mâu thuẫn, bất hòa giữa các nước, nhưng không giải quyết được căn bản vấn đề. Sự bế tắc của nhiều vòng đàm phán của WTO, sự kém hiệu quả của thể chế G7, G20... buộc các nước phải tự lo cho mình, phải ký kết các hiệp định song phương, đa phương để bảo vệ lợi ích của mình. Ngày nay, các nước tư bản phát triển không xâm lược, biến các nước nghèo, kém phát triển thành thuộc địa để bóc lột, nô dịch như thời kỳ chủ nghĩa thực dân cũ và mới như trước đây, nhưng mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước nghèo, kém phát triển, đang phát triển vẫn rất gay gắt. Quan hệ giữa các nước tư bản phát triển với các nước kém phát triển, đang phát triển thể hiện bên ngoài như những quan hệ bình đẳng, thỏa thuận từ cả hai phía, nhưng thực chất là quan hệ bất bình đẳng. Các nước tư bản phát triển giàu có, có nguồn lực tài chính lớn, trình độ khoa học công nghệ cao, nắm độc quyền các bí quyết công nghệ, thương hiệu sản phẩm... xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển, kém phát triển không phải với mục tiêu hỗ trợ phát triển các nước này mà để mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tài nguyên, nguồn lao động rẻ, chuyển giao những máy móc thiết bị, những công đoạn những ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường cho những nước này, với giá cả độc quyền do họ chi phối; đồng thời vẫn sử dụng các biện pháp chống bán phá giá, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan [như nguồn gốc xuất sứ, về lao động, điều kiện sản xuất, về vệ sinh an toàn...] để cản trở xuất khẩu hàng hóa của nước đang phát triển, kém phát triển vào nước họ... Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là xã hội công bằng, bình đẳng mà con người hướng tới.

Thay thế chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản ra đời, phát triển là một bước tiến lớn trong lịch sử của nhân loại. Chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường, cơ chế cạnh tranh, mục tiêu lợi nhuận đã tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, thu hút tất cả các nước trên thế giới vào một thị trường chung, tham gia vào sự phân công lao động và hợp tác, liên kết kinh tế trên quy mô toàn cầu. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra khối lượng của cải vật chất to lớn, vượt xa tất cả các chế độ xã hội trước đó cộng lại. Chủ nghĩa tư bản trong hơn 400 năm từ khi ra đời đến nay đã có nhiều điều chỉnh, thay đổi để vượt qua khó khăn, thách thức, tồn tại và phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh tới chủ nghĩa tư bản độc quyền, độc quyền nhà nước, ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại, toàn cầu hóa, nhưng vẫn mang trong mình những mâu thuẫn không thể giải quyết nếu không phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại, với những điều chỉnh mới, sở hữu cổ phần với sự tham gia ngày càng nhiều của người lao động, phát triển các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác tự quản của người lao động, các chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội của nhà nước là những thành quả đấu tranh của người lao động trong các nước tư bản phát triển. Đây là các yếu tố được xem là những mầm mống của chủ nghĩa xã hội hình thành trong lòng chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã bành trướng ra quy mô toàn cầu, giới hạn cuối cùng mà tư bản có thể bành trướng. Chủ nghĩa tư bản không phải, không thể là chế độ xã hội tồn tại vĩnh viễn, cuối cùng của loài người. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đưa khoa học công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế, vai trò của tư bản đã giảm xuống đối với quá trình sản xuất, đang thúc đẩy quá trình phủ định chủ nghĩa tư bản, thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ xã hội mới cao hơn, trên cơ sở kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục, xóa bỏ được những mâu thuẫn, những giới hạn của chủ nghĩa tư bản cản trợ sự phát triển của nhân loại theo hướng tiến bộ. Đây là tất yếu khách quan của lịch sử.

4. Kiến nghị:

- Đẩy mạnh việc nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về thế giới đương đại. Ngày nay, tình hình kinh tế, chính trị, an ninh thế giới diễn biến, thay đổi hết sức nhanh chóng, phức tạp; rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng, của nhân loại nói chung, như biến đổi khí hậu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa, ô nhiễm, nghèo đói, dịch bệnh, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, các mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản... Cần phải được nghiên cứu, đánh giá để hiểu đúng, đầy đủ về chủ nghĩa tư bản hiện đại, dự báo đúng xu hướng vận động phát triển của nó và rút ra những bài học, kinh nghiệm bổ ích cho sự phát triển kinh tế đất nước.

- Đẩy mạnh việc nghiên cứu về mô hình Xô viết của chủ nghĩa xã hội trong hơn 70 năm tồn tại; đánh giá đúng những thành công và thất bại, những đóng góp và ảnh hưởng của nó trong lịch sử, nhất là nguyên nhân dẫn tới sụp đổ; những bài học lịch sử, những vấn đề nhận thức lý luận rút ra từ sự tồn tại, phát triển, thành công và thất bại của mô hình này.

- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trên cơ sở đó từng bước xây dựng, hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế phát triển thấp, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như nước ta.

Làm tốt những nhiệm vụ này sẽ cung cấp cơ sở khoa học cho việc tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, nhân dân ta, cho việc bảo vệ, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sẽ là một sự đóng góp có ý nghĩa của Việt Nam cho phong trào cách mạng của nhân dân thế giới./.

Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch HĐLLTW

Video liên quan

Chủ Đề