Tại sao chị dậu bán con

Tắt đèn là một trong số những tác phẩm xuất sắc của Ngô Tất Tố. Ông đã xây dựng nhân vật chị Dậu với lòng thương yêu chồng con tha thiết. Có thể nói những dòng, những trang thể hiện tấm lòng người vợ, người mẹ của chị Dậu, mà điển hình là hai chương X, XI. Ở hai chương này, nhà văn miêu tả rất thành công tâm trạng đau đớn, giằng xé của chị Dậu khi phải về nhà báo tin cho con biết nó đã bị bán cho Nghị Quế.

Đầu chương X [đoạn trích SGK], chị Dậu về tới nhà. Giờ đây khó khăn lớn nhất của chị Dậu là phải làm sao nói cho cái Tí biết rằng nó đã bị bán cho Nghị Quế. Chị phải làm sao đây khi lúc sáng, chị đã hứa sẽ không bán nó cho Nghị Quế. Hình như lúc này, bao nhiêu lo nghĩ dồn dập kéo tới nên khi chị không chú ý tới bên ngoài. Thằng Dần vòi vĩnh, chị không để ý. Cái Tí chạy ra “đon đả đón chào”, chị cũng “không trả lời”. Chị “thơ thẩn” đón lấy tay con, bế con và “ngồi ghé vào bên mép chõng”. Dường như chị không ý thức được việc mình làm, hành động “đón lấy con bé con” hoàn toàn do bản năng sai khiến. Tâm trạng, hành động như thế, ta chỉ bắt gặp ở những người quá đau khổ... Nhưng đau khổ đến “thơ thẩn” người, ai gọi không nói, ai hỏi không thưa như chị Dậu, có lẽ là trường hợp hiếm thấy.

Khi nhìn thấy cảnh các con hiếu thảo, ngoan ngoãn mà ngây thơ, như người khác chắc hẳn rất vui và hãnh diện. Nhưng chị Dậu thì khi nhìn thấy các con hiếu thảo, ngoan ngoãn, chị cảm thấy bị dao găm cắt từng khúc ruột, còn đau đớn nào bằng nỗi đau phải bán con trong khi đứa con rất ngoan ngoãn? càng nhìn chúng nó, chị càng nước mắt ngắn dài. Phải chăng, ngoài nỗi đau phải bán con, chị Dậu còn mang mặc cảm có tội với con? Năm lần bảy lượt cái Tí giục mẹ ăn, và cũng từng ấy lần chị buồn khổ. Chỉ đã cầm củ khoai lên, rồi đặt xuống chõng bởi chị có nuốt nổi đâu? Nỗi đau khổ, sự phân vân đắn đo trong chị Dậu là rất lớn. Làm sao có thể báo cho con cái tin đau đớn ấy, chị Dậu vẫn chưa nghĩ ra. Song không ngờ, cái Tí lại chính là người hé cho chị một tia sáng khi nó dỗ mẹ, để mẹ nó ăn khoai. Thế là chị Dậu vừa nói vừa mếu thông báo cho nó việc bán con. Nỗi đau khổ lúc trước, giờ vỡ òa ra. Chị Dậu như thấy mình có tội, không muốn ăn tranh phần của con. Lời nói của chị như lời tâm sự, như lời hối hận nhưng cũng tràn đầy xót xa. Nếu như ở nhà Nghị Quế, chị phải đắn đo về giá cả bán con, thì khi ở nhà, chị lại phải phân vân suy nghĩ bởi các con hiếu thảo và ngoan ngoãn quá- Khi nói ra được điều khó nói ấy, sự phân vân đắn đo đã bị át đi bởi một nỗi đau đớn, khổ sở đang dâng lên. Chị chỉ thổn thổn, thức thức, không nói thêm được câu nào. Phải, còn gì để mà nói nữa, nói gì được hơn trong lúc này nữa, khi mà những tiếng khóc bị kìm trở lại thành tiếng nấc nghẹn trong cổ? Chị dần dần cúi xuống, đối diện với con bé đương bú. Chị không còn đủ can đảm để đối diện với những đứa lớn. Chúng đã hiểu hết chuyện nhà. Hơn nữa, chị luôn mang nỗi ân hận giày vò đối với cái Tí, làm sao còn có thể quay ra dỗ nó! Hay chị quay vào con bé đương bú bởi nếu quay ra dỗ hai đứa trẻ kia, chị - vô tình sẽ không chịu được những lời van xin tha thiết, những tiếng kêu, tiếng lạy của chúng mà để cái Tí ở nhà, chồng chị sẽ tiếp tục bị hành hạ?

Cho tới chiều ấy, chị Dậu còn suy nghĩ đắn đo. Phải bán con, chị khổ sở lắm chứ. Có phải chị không cố gắng đâu! Chị đã nghĩ ngợi, phân vân hết mọi lẽ để cuối cùng vẫn phải cắn răng: Cảnh nhà đã thế, mẹ đành dứt tình với con. Chị cũng hiểu việc làm của chị trái đạo lí mà không thể cưỡng lại. Cái dáng bộ “đứng phắt dậy”, quả quyết, chùi nước mắt là kết cục của sự tuyệt vọng. Chị đã cùng đường rồi, chị còn cách nào nữa đâu ngoài việc bán con? Lời cầu xin; U van con, u lạy con, con có thương thầy, thương u... lặp lại nhiều lần trong bài là cả một tiếng kêu than nức nở, là sự đau khổ không gì sánh nổi trong tâm hồn chị. Thương con mà phải van lạy con để chịu mất con, thử hỏi còn gì bất hạnh hơn? Cứu chồng mà phải rứt ruột bán con, thử hỏi còn sự lựa chọn nào nghiệt ngã, cay đắng hơn? Trong đoạn này, tuy cảm tính của người mẹ luôn được bộc lộ bằng những tiếng khóc: sụt sịt, lã chã hai hàng nước mắt, khóc nức nở v.v... Song lí trí của chị vẫn át đi tất cả. Chị Dậu thì van lạy con, khi thì cố kiếm những lời thấm thìa xót ca để khuyên con, lúc lại tỏ ra độ đau đớn” hay “cố kiếm cho được cái giọng ngon ngọt để dỗ thằng Dần”.

Trên đường sang nhà Nghị Quế, chị Dậu vẫn thổn thức. Nhưng nỗi đau đớn đã được chị kìm nén, nên lặn vào “trong đáy tim”, Tuy vậy, nỗi đau ấy vẫn không thể kìm nén nổi, nên nước mắt chị vẫn lăn dài. Thái độ “giả câm giả điếc” ấy phải chăng là sự chất chứa bao đau thương xót xa trong lòng chị? Bất kì người mẹ nào sắp phải xa con cũng cố níu kéo cho giờ phút ấy chậm tới. Song, chị Dậu lại phải “giả câm, giả điếc” mong cho chóng tới nhà cụ Nghị. Có phải chị không thương con đâu, sau này chị vẫn luôn luôn nghĩ tới nó đấy chứ? Xét cho cùng chị làm thế cũng chính bởi chị thương con. Vì thương con nhưng vẫn phải rứt ruột bán đi, nên chị không muốn thấy con nữa. Làm sao chị có thể phó thác số phận của chồng theo cảm tính của chị, mà ngay lúc ấy, nó đang cưỡng lại chị, không cho chị dắt con đi? Chắc hẳn, chị còn ở lại lâu với cái Tí thì hai mẹ con càng phải chịu đau khổ, mà chị lại càng đau khổ hơn bởi chị đã làm trái với lẽ trời. Chị Dậu không muốn đau khổ hơn nữa, chắc rằng chị muốn hai mẹ con chia tay nhau sớm để chị bớt dằn vặt, cho chị thanh thản hơn.

Qua hai chương X và XI của tác phẩm Tắt đèn, hình ảnh chị Dậu hiện lên với đức tính thương chồng, yêu con tha thiết. Lòng vị tha, đức hi sinh của chị là một nét điển hình của người phụ nữ Việt Nam.

Ở hai chương này, Ngô Tất Tố đã thành công lớn trong việc miêu tả tâm trạng chị Dâu, giữa một bi kịch trong muôn vàn bi kịch của đời chị. Lối viết văn khách quan mà không kém phần xúc động của ông đã tạo niên sự hấp dẫn không chỉ ở hai chương này mà còn ở toàn tác phẩm.

Đặc biệt qua đoạn trích Con có thương thầy thương u... thuộc chương X và XI của tiểu thuyết Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã ít chú ý kể sự kiện mà đi sâu diễn tả nỗi niềm bên trong để làm nỗi bật tâm lí và tính cách nhân vật. Một trong những nét nổi bật của tính cách ấy là tấm lòng thương con của chị Dậu. Các sự kiện của hai chương rất đơn giản: văn tự bán con đã đóng triện của lí trường, chị Dậu về nhà báo cho cái Tí biết việc nó đã bán rồi dẫn con, dắt chó sang nhà Nghị Quế. Thương con là đặc điểm nổi bật của trái tim người mẹ, nhưng thương con mà phải bán con để cứu chồng khỏi bị đánh đập hành hạ vì thiếu thuế lúc ốm đau thì chỉ có chị Dậu và tài năng phân tích tâm lí của nhà văn. Thương con, nên mọi việc mua bán đã xong, chị Dậu không nỡ nói ra ngay sự thật về việc cái Tí bị bán. Nhưng càng chậm nói ra sự thật, chị Dậu càng đau đớn. Chương X giống như một cuộc đối thoại ngầm giữa nỗi đau sâu kín của chị với những lời nói, cử chỉ của hai đứa con ngoan, hiếu thảo và rất ngây thơ. Tác giả đã khéo léo làm cho người đọc đau với nỗi đau chị Dậu! Thằng Dần vô tâm và ngây thơ, không hiểu rõ cảnh nhà. Nó hỏi mẹ nó đi đâu từ trưa đến giờ, có mua được gạo không, vì sao mẹ về mà không có gạo. Cái Tí sớm chia sẻ lo toan với mẹ. Điều mà nó quan tâm là thầy nó được cởi trói chưa? Vì sao nón của mẹ rách tan tành, tay buộc giẻ. Thấy mẹ không trả lời, nó kể việc nhà: nào là cái Tỉu quấy khóc, nó phải lèo đèo cắp em ở sườn để hì hụi rửa khoai, tra nồi xin lửa nhóm bếp, nào là củi ướt chảy ướt chả; hì hụi mãi vẫn không cháy cho, thế mà nó vẫn luộc chín nồi khoai. Thằng Dần vòi vĩnh, quấy nhiễu bao nhiêu, thì cái Tí lại tỏ ra ngoan bấy nhiêu. Nó mắng em sa sả, không cho em làm tội mẹ. Nó muốn chia sẻ nỗi đau của mẹ cha. Nó tìm mọi cách làm mẹ vui lòng để vợi bớt nỗi đau. Mẹ về, nó chào mẹ đon đả. Nó kể chuyện nhà bằng giọng hú hí. Nó gọi cái Tỉu bằng cô ả, cô ta. Nó kể chuyện giống như pha trò. Tí ấy hỏi mãi, kể mãi mà mẹ vẫn chẳng nói gì, cái Tí cố làm cho mẹ vui, phải trò chuyện với nó bằng câu hỏi: “U bảo con có ngoan không?” Nhưng chị Dậu không trả lời. Thơ thẩn... rồi chị Dậu vẫn không nói gì. Buồn rầu... Sau những câu hỏi, sau câu chuyện con cà, con kê của cái Tí, câu văn trên được láy đi, láy lại giống như một điệp khúc làm nổi bật sự im lặng kéo dài của chị Dậu. Chị Dậu về nhà là để báo cho cái Tí một cái tin rất buồn, rất đau. Chưa hay biết về sự nghiệt ngã đang chờ đợi, cái Tí cố làm cho mẹ được vui, được khuây khỏa. Làm sao có thể nói được với một đứa con như thế, rằng nó đã bị mẹ bán đi. Trong sự im lặng của chị Dậu có nỗi đau tê tái hòa lẫn với tình thương con da diết. Đó là nỗi đau chết nửa người của chị Dậu, là tất cả tình thương sâu kín không nói nên lời, không dám làm đau lòng cái Tí với cái tin sét đánh ấy. Tình huống ngày càng căng thẳng cùng với hàng loạt hành động tiếp theo của cái Tí. Nó lễ mễ bưng rổ khoai luộc. Nó bới từ trên rổ bới lên, gắp những mẩu khoai to xếp đầy hai bát. Nó đặt một bát lên bàn thờ để dành phần cho thầy nó, rồi dặn em không được ăn vén. Tuy mẹ không trả lời. cái Tí cũng đang vui. Dường như chỉ cần có cái ăn, có mẹ, được giúp đỡ mẹ là nó đã vui rồi. Bằng cái dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhàng, nó đặt một bát lên chõng mời mẹ ăn khoai. Thằng Dần ngồi sán bên cạnh rổ khoai và nuốt nước dãi ừng ực. Cái Tí lật đật chạy đi tìm quạt để quạt cho khoai chóng nguội. Khi rổ khoai vừa đi hết khỏi, hai đứa trẻ xúm lại... Những sự hiếu thảo, ngoan ngoãn của hai đứa trẻ ngây thơ vô tình lộ ra từ nãy đến giờ, hình như là những lưỡi dao găm cắt tùng khúc ruột chị Dậu. Nỗi đau của chị Dậu trào ra thành dòng nước mắt. Càng nhìn chúng nó, chị càng nước mắt ngắn dài. Cái Tí bắt đầu cảm thấy có một cái gì không bình thường trong sự im lặng kéo dài và những giọt nước mắt của mẹ nó. Nó giục mẹ ăn khoai để có sữa cho em bé bú. Nó bưng bát khoai chìa tận vào mặt mẹ. Nể con, chị Dậu cầm lấy một củ, rồi lại đặt xuống chõng. Thái độ của cái Tí từ chỗ ngạc nhiên, chuyển qua băn khoăn và giờ đầy vẻ nghi ngại hiện ra sắc mặt. Kịch tính được đấy lên đến cao trào khi chị Dậu bảo với cái Tí rằng nó chỉ còn được ăn ở nhà với các em bữa cuối cùng này thôi. Chi Dậu vẫn tránh không nói tới chữ bán. Ngô Tất Tố miêu tả tâm lí vô cùng tinh tế. Ông rất am hiểu tâm lí con người, nên không để cho chị Dậu nói ra cái tiếng bán rất tàn bạo ấy. Một người yêu con như chị Dậu không nỡ và cũng không thể nói ra tiếng bán con. Nhà văn để ra tiếng bán ấy phát ra từ miệng cái Tí khiến chị Dậu, và cả chúng ta, những người đọc, càng thêm đau đớn: “U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng bán con đi, tội nghiệp! u để con ở nhà chơi với em con ". Ngô Tất Tố sử dụng rất tài tình các chi tiết ngoại hình miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật. Biết có chuyện chẳng lành, nhưng chưa hiểu hết ý câu của mẹ, cái Tí xám mặt lại và hỏi bằng giọng luống cuống: "Vậy thì bữa sau con ăn ở đâu?". Quá bất ngờ khi nghe mẹ nói rằng sẽ phải ăn ở nhà cụ Nghị thôn Đoài, cái Tí giẫy nẩy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc... Thương con, đau đến thắt lòng chị Dậu chỉ thổn thổn, thức thức:, không nói lên được câu gì. Bộ mặt sầu thảm dần dần ngả xuống, đối thằng với mặt con bé đương bú. Thương con, chị Dậu không nỡ nói ra sự thật về việc cái Tí bị bán. Càng chậm nói, chị càng giữ mãi nỗi đau và sự hồi hộp riêng. Khi sự thật được nói ra, nỗi đau vỡ òa, chị Dậu cố tỏ ra quả quyết, giả câm giả điếc để dẫn con, dắt cho sang nhà Nghị Quế. Càng tỏ ra quả quyết, càng giả điếc giả câm, trái tim chị càng tan nát với nỗi niềm riêng. Chương X và XI được gắn kết với nhau bằng sự diễn biến tâm trạng đầy kịch tính ấy. Những giọt nước mắt của chị Dậu ở cuối chương trên, tiếng khóc, tiếng lải nhải của cái Tí và thằng Dằn ở đầu chương này chuẩn bị cho nỗi đau lên đến điểm đỉnh trong tâm trạng chị Dậu. Chị Dậu càng rũ rượi. Chống tay lên trán, chị như nghĩ ngợi phân vân. Một lúc sau, chị đứng phắt dậy với dáng điệu quả quyết: 

- Thôi, phải tội với trời, mẹ chịu! Cảnh nhà đã thế, mẹ đành dứt tình với con!
- Tức thì chị chùi nước mắt và đi làm những việc... đau đớn nhất.

Các hành động đứng phắt dậy, cử chỉ chùi nước mắt biểu hiện ý nghĩ dứt tình thái độ quả quyết của chị Dậu. Chị xích con chó cái buộc vào cột nhà, nhốt đàn chó con vào rổ thưa trên cờ mẹt đậy và lạt chẳng chắc chắn. Chị lục quần áo của cái Tí gói lại, cho cái Tỉu bú thêm lúc nữa. Xong xuôi, một tay bưng rổ chó con lên đầu, một tay cầm xích dắt con chó cái, chị giục cái Tí đội nón, cắp lấy gói quần áo để sang bên cụ Nghị. Nhưng chị Dậu càng quả quyết thì cái Tí càng níu kéo, xin van. Sự mâu thuẫn ấy là nỗi đau tan đàn xẻ nghé, là tiếng lòng ai oán nhất của người dân chế độ sưu thuế đương thời. Chị Dậu cương quyết nhưng phải chứng kiến cảnh cái Tí vừa lau sạch nước mắt, lại mếu, lại giàn giụa nước mắt, chị càng đau đớn. Vừa giục con đội nón, ôm lấy gói quần áo để ra đi, chị đã sụt sịt. Thấy cái Tí nhếch nhác mếu mào khóc, chị Dậu lã chã hai hàng nước mắt, cố kiếm lời thấm thía để khuyên con nhưng bản thân chị lại nức nở. Tâm trạng chị Dậu khép lại bằng một đoạn văn có rất nhiều dư âm: Với những tiếng thổn thức trong đáy tim và những giọt nước mắt luôn luôn đọng ở gò má, chị Dậu cố sống cố chết nhũng nhẵng dẫn con chó lẽo đẽo dưới ánh nắng mùa hè. Con vẫn lướt mướt khóc, chó vẫn ỷ ẳng kêu, chị vẫn nhất định giả câm giả điếc mong cho chóng đến nhà cụ Nghị. Chị Dậu, với lòng thương con trong hoàn cảnh éo le này, là điểm sáng của tác phẩm Tắt đèn. Qua đó, hình ảnh, phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ nông dân trước Cách mạng tháng Tám được tô đậm. 

Ngô Tất Tố xứng đáng là nhà văn của nông dân. Ông am hiểu và cảm thông sâu sắc với đời sống tủi cực của những con người suốt đời cổ cày vai bừa. Bằng tài năng và tấm lòng, ông đã thể hiện thấm thía nỗi đau tan cửa nát nhà, mẹ con, chị em phân lìa do thuế nặng, sưu cao mà những người nông dân đã phải trải qua dưới chế độ thực dân, phong kiến.

Video liên quan

Chủ Đề