Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Khi người thầy nhầm lẫn “quyền lực” với “quyềnuy”


Trong thời gian qua, báo chí trong nước liên tục đưa tin về những vụ giáo viên bạo hành học sinh. Đã có nhiều bài báo bàn về nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết tình trạng này. Bài viết nào cũng có căn cứ và tính thuyết phục của nó nhưng theo tôi tình trạng giáo viên bạo hành học sinh phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với một lọat các hiện tượng khác cùng những yếu tố có liên quan. Thêm nữa không nên chỉ nhìn nhận nạn thầy bạo hành trò trong phạm vi hẹp là những hành động “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” mà cần khảo sát nó ở phạm vi rộng hơn. Với ý nghĩa đó, ở bài viết này, tôi muốn đề cập tới góc nhìn của nhà giáo dục học người Nhật Tanaka Yoshitaka(1), người đã có ba năm( 2004-2007) làm việc ở Việt Nam trong vai trò cố vấn giáo dục. Khi nghiên cứu về mối quan hệ thầy trò ở Việt Nam, Tanaka đã xem xét nó trong sự tương tác của các yếu tố kết thành hệ thống và cho rằng ở Việt Nam mối quan hệ thầy trò ở nhà trường bị phá hỏng vì ở người thầy có sự ngộ nhận nghiêm trọng giữa “quyền lực” và “quyền uy”.

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Sự ngộ nhận quyền lực và quyền uy

Trong cuốn “Cải cách giáo dục ở Việt Nam: Liệu đã thực hiện được phương châm coi trẻ em là trung tâm? ”, do Akashi Shoten ấn hành năm 2008, Tanaka đã phác thảo lại bộ mặt giáo dục Việt Nam và đề cập đến nạn giáo viên bạo hành học sinh. Theo ông một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng giáo viên bạo hành học sinh là“sự ngộ nhận giữa quyền lực và quyền uy”. Tanaka cho rằng trong đời sống hàng ngày người ta thường hiểu và dùng hỗn hợp hai từ “quyền lực” và “quyền uy” tuy nhiên trong lĩnh vực giáo dục thì chúng mang hai nội hàm khái niệm khác nhau. Ông dẫn lại luận điểm của nhà nghiên cứu Okada khi giải thích thế nào là “quyền lực” và “quyền uy” cũng như sự khác biệt giữa chúng. Quan điểm của Okada cho rằng “quyền uy” của người thầy đối với học sinh là việc cho dù người thầy có ý đồ hay không có ý đồ đối với những lời nói, hành động của mình thì học trò vẫn lắng nghe và có thái độ vâng lời. Tuy nhiên ông cũng chỉ rõ không phải người thầy nào cũng có được “quyền uy” và quan trọng hơn là không phải cứ ai làm thầy là có nó. Tại sao? Bởi vì chủ thể cảm nhận được “quyền uy” xét đến cùng là học sinh và “quyền uy” không phải là thứ mà người giáo viên đơn phương tạo ra được. “Quyền uy” của người thầy sinh ra từ quá trình người học sinh tự mình đánh giá giáo viên ở nhiều phương diện và nếu như trong đầu người học sinh bật ra ý nghĩ “A! đây quả là một người giáo viên đáng kính, một người giáo viên tuyệt vời!” thì trong trường hợp ấy anh ta sẽ tự nguyện trao “quyền uy” cho người thầy. Ở đây một vấn đề khác sẽ lại đặt ra là có thể người giáo viên X có “quyền uy” đối với học sinh Y nào đó ( bởi trong thâm tâm học sinh Y đã ngầm đánh giá và trao “quyền uy” cho giáo viên này) nhưng điều đó không thể đảm bảo rằng giáo viên X sẽ có cả “quyền uy” với những học sinh còn lại vì có thể các em không đánh giá cao và tự nguyện trao quyền uy cho giáo viên này.

Tóm lại “quyền uy” là thứ mà học sinh tự nguyện tạo ra rồi trao cho người giáo viên và như thế người đựợc trao “quyền uy” là người thầy mà xét ở một số phương diện ít nhất phải có những đặc tính ưu tú về tài năng và nhân cách. Với ý nghĩa này thì cả Tanaka và Okada đều chủ trương hình ảnh người giáo viên “quyền uy” là hình ảnh đáng trân trọng và nên xây dựng.

Tương phản với “quyền uy” là “quyền lực”.Nếu như “quyền uy” là quà tặng tự nguyện của học sinh cho người thầy, thì quyền lực là thứ mà bản thân người giáo viên có thể đơn phương quyết định. Theo kết quả quan sát và phân tích của Tanaka thì những giáo viên “quyền lực” là những kẻ không hề chú ý đến người xung quanh nhìn mình là người như thế nào? Đánh giá mình như thế nào? Họ coi hành động, lời nói của mình là tuyệt đối và duy nhất đúng. Họ cũng luôn có tham vọng ép người khác phải tuân lệnh.Trong trường hợp người khác không nghe theo, họ sẽ dùng sức mạnh để cưỡng ép. Chính vì thế theo Tanaka, khi xây dựng một nền giáo dục lành mạnh thực sự vì con người, vì tương lai của xã hội cũng như của nhân loại thì người giáo viên “quyền lực” là thứ không một ai có lương tâm mong muốn. Theo lô-gíc đó, một nền giáo dục đầy rẫy những giáo viên “quyền lực” sẽ không bao giờ sinh ra những thế hệ học sinh có tư duy độc lập, có lòng dũng cảm và luôn biết làm người tự do.

Những biểu hiện và hậu quả của việc ngộ nhận giữa “quyền lực” và “quyền uy”

Trong ba năm ở Việt Nam với vai trò là cố vấn giáo dục, Tanaka đã đi thực tế nhiều trường phổ thông ở Việt Nam, tham dự nhiều giờ học khác nhau, phỏng vấn nhiều giáo viên và những người làm việc trong ngành giáo dục. Ông đã phân tích những dữ liệu từ nhiều nguồn nói trên để làm rõ những biểu hiện trên thực tế của sự “ngộ nhận giữa quyền lực và quyền uy”.

Khi trực tiếp quan sát các giờ học ở trường tiểu học Việt Nam, Tanaka vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra một thực tế hoàn toàn tương phản với Nhật Bản. Đó là ở Việt Nam trong bất cứ lớp học nào, học sinh cũng thường ngồi yên rất ngoan ngoãn và lắng nghe giáo viên giảng bài. Ông rất ngạc nhiên khi thấy có rất ít học sinh nói chuyện riêng, ngủ gật hay chạy ra khỏi lớp học. Thêm nữa mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi rất nhiều học sinh giơ tay trả lời một cách nghiêm túc đến mức kinh ngạc với cánh tay đặt vuông góc trên mặt bàn. Tanaka kinh ngạc bởi ông đã quen với chuyện ở nước Nhật trong nhiều trường tiểu học, học sinh có thể ngồi khi phát biểu ý kiến, tranh luận với bạn bè hay giáo viên trong giờ học. Đôi khi học sinh có thể phát biểu mà không cần giơ tay xin phép khi ý tưởng vụt đến. Tại sao học sinh tiểu học Việt Nam lại có tinh thần nhẫn nại và sự chịu đựng bền bỉ đến thế cho dù trong nhiều giờ học giáo viên chỉ đọc đi đọc lại nội dung sách giáo khoa một cách rất nhàm chán? Để trả lời câu hỏi này, Tanaka đã cất công tra cứu, phân tích hồ sơ dự giờ và phát hiện ra rằng tư thế tồn tại và sự hiện diện của người giáo viên trong lớp học rất đặc biệt. Đấy là một tư thế đầy “quyền lực” thay vì có “quyền uy”.

Tanaka đã tỉ mỉ thống kê và phân tích những lời nói của giáo viên trong từng lớp học, từng giờ dạy và thấy rằng những từ ngữ mang tính mệnh lệnh được dùng với tần suất rất cao và phụ họa với nó là tiếng thước nện lên bảng chát chúa. Tiếng “chát” của chiếc thước kẻ dài đập mạnh lên mặt bàn hay mặt bảng đen gây cho Tanaka một ấn tượng choáng váng. Từ đó ông rút ra kết luận “ Trong lớp học người giáo viên đã trở thành người có quyền lực tuyệt đối. Người thầy đã trở thành biểu tượng của quyền lực khi nắm trong tay cả tri thức và kĩ năng”(2). Hậu quả là giờ học diễn ra hoàn toàn theo kiểu giao tiếp một chiều. Trước thái độ, hành động và những chỉ dẫn mang tính mệnh lệnh của giáo viên, học sinh đã “không thể phát biểu ý kiến hay ý tưởng của mình. Điều duy nhất có thể làm là nghe theo mệnh lệnh và tìm cách trả lời các câu hỏi có đáp án mà người giáo viên mong muốn”(3). Trong những giờ học như thế hình ảnh học sinh thật tương phản với hình ảnh của giáo viên “ Trong giờ học không hề thấy ở các em học sinh dáng vẻ tự nhiên vốn có…thông thường thì lớp học sẽ phải đầy ắp bầu không khí sôi nổi nhưng có vẻ như tinh thần của học sinh ở đây dường như lại ở một thế giới khác”(4)

Suốt thời gian ngồi trong lớp học, học sinh đã phải kìm nén và sự náo động khi tiếng chuông hết giờ vang lên đã nói lên điều đó. Tanka cho rằng nếu tiến hành giờ học kiểu thuyết trình hay đọc sách giáo khoa ở Nhật thì học sinh sẽ nói chuyện riêng với bạn bè trong lớp, gục đầu ngủ hay chạy ra khỏi lớp học. Nhưng ở Việt Nam, học sinh rất chăm chú lắng nghe dù trong lòng rất…chán. Ông cho rằng những biểu hiện trong giờ học cho thấy dù vô thức hay có ý thức, người giáo viên đã gây sức ép lớn lên học trò và ông gọi đây là“sự lạm dụng quyền lực nghề nghiệp”. Sự “lạm dụng quyền lực nghề nghiệp” này là hậu quả tất yếu của việc“ ngộ nhận quyền lực của nghề nghiệp là quyền lực của riêng bản thân mình”. Đó là quá trình diễn tiến từ lòng tự tôn của bản thân và sự kính trọng, tin tưởng của xã hội như “ nghề giáo viên là nghề đáng kính”, “ những lời nói của giáo viên là đúng” thành “ ta là người đáng phải được tôn trọng”, “ những gì ta nói đều là chân lý”. Đây là một sự ngộ nhận nghiêm trọng và “quyền uy” của nghề nghiệp đã trở thành “quyền lực của cá nhân” và nó gây ra những hậu quả khôn lường. Một khi người giáo viên có quan niệm sai lầm như vậy thì cho dù bản thân người đó thiếu năng lực đi chăng nữa thì mặc nhiên họ coi bản thân mình đã có sẵn “quyền uy”. Hậu quả là trong phần lớn các trường hợp cho dù giáo viên có nói sai, làm sai đi nữa thì bản thân người giáo viên và cả người xung quanh vẫn cho là đúng. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới bản thân người giáo viên có cảm giác, ý nghĩ “mình thật là vĩ đại! mình thật là tuyệt vời!” và bằng lòng với vị trí của mình không tiếp tục nỗ lực nữa. Kết cục là người giáo viên đó chẳng những không nâng cao được năng lực nghề nghiệp mà nguy nghiểm hơn là bản thân họ không hề nhận thức được mối nguy hiểm của sự nhầm lẫn. Do đó chuyện người giáo viên khăng khăng “tôi đã nói thì học trò dứt khoát phải nghe”, “tôi đã nói là chỉ có đúng” trở thành hiện tượng phổ biến. Hậu quả nhãn tiền là những người giáo viên này sẽ tạo nên hàng loạt những giờ học căng thẳng và vô hồn bởi họ không hề chú ý tới mối quan tâm, hứng thú của học sinh. Họ làm cho học sinh mất đi niềm say mê học tập và không có hứng thú tập trung vào chuyện học hành. Khi ấy người giáo viên chỉ còn cách dựa vào quyền lực mà dồn ép học sinh. Và cứ thế giáo dục quay tít mù trong cái vòng luẩn quẩn.

Tại sao người giáo viên Việt Nam có “ quyền uy” và “quyền lực” lớn?

Khi xem xét giáo dục Việt Nam dưới góc độ xã hội học, Tanaka đã phát hiện ra một điều khiến chúng ta không khỏi giật mình và suy nghĩ :“Người giáo viên Việt Nam có địa vị xã hội cao nhưng địa vị kinh tế lại cực thấp”.Đặc trưng chứa đựng mâu thuẫn này sẽ có liên hệ trực tiếp tới sự nhầm lẫn “quyền lực” và “quyền uy” của người thầy. Trả lời cho câu hỏi tại sao người giáo viên Việt Nam có “quyền uy” lớn Tanaka dẫn ra hai lí do chủ yếu.

Thứ nhất nó xuất phát từ quan niệm về đạo đức của người Việt. Việt Nam từ thời cổ đại đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đặc biệt là tư tưởng Nho giáo Khổng-Mạnh. Những tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam. Người Việt coi trọng các chuẩn mực đạo đức như: nhân nghĩa, trung hiếu, yêu gia đình, coi trọng mối quan hệ thầy trò và quan hệ trên dưới theo lứa tuổi, địa vị xã hội. Trong môi trường xã hội với những chuẩn mực đạo đức đó thì người giáo viên không phải chỉ là “thầy” của học sinh mà còn là “thầy” của cả những người bình thường theo nghĩa rộng.

Thứ hai là do tính “ưu tú” của người giáo viên. Muốn trở thành giáo viên, thông thường người đó phải có bằng cao đẳng hoặc đại học và như vậy trong mắt những người bình thường trong xã hội họ là những người có học và có bằng cấp cao. Mặt khác, tính “ưu tú” còn được thể hiện trong giờ học qua lời nói của giáo viên với ngôn từ trau chuốt, giọng nói truyền cảm, chữ viết trên bảng thì thẳng và đẹp như một tác phẩm nghệ thuật. Khi chứng kiến những thứ đó người dân bình thường sẽ không khỏi ngưỡng mộ.

Ngoài hai lí do chính kể trên, Tanka còn đề cập đến mối liên hệ chằng chịt qua lại giữa việc thực hiện một chương trình-một bộ sách giáo khoa cùng những bất cập trong hệ thống hành chính giáo dục. Đây là những yếu tố cơ bản làm cho người thầy nhầm lẫn giữa “quyền lực” và “quyền uy”.

Theo Tanaka việc thực hiện một chương trình với một bộ sách giáo khoa duy nhất trong thời gian dài đã làm phát sinh hiện tượng “độc quyền chân lý”.Ông phân tích rằng giáo dục Việt Nam do coi trọng tính tuyệt đối của chương trình, sách giáo khoa cho nên giáo viên không có cơ hội để phát huy tính sáng tạo, tự chủ của mình. Giáo viên không tiến hành nghiên cứu nội dung tài liệu giảng dạy hay nội dung học thuật mà chỉ quan tâm đến những nội dung và phương pháp được quy định trong chương trình hay trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên mà thôi. Họ cũng thiết kế bài giảng chỉ căn cứ trên cảm tính chủ quan của bản thân mà không hề tính đến việc làm thỏa mãn mối quan tâm, hứng thú của học trò. Thêm nữa quan niệm truyền thống phổ biến ở Việt Nam coi mục đích giáo dục là “truyền đạt kiến thức” hay “cung cấp tri thức” đã nhốt cả giáo viên lẫn học sinh trong một cái khung rất chắc. Hệ thống hành chính giáo dục quá chặt chẽ lại chỉ thiên về mối quan hệ theo chiều dọc (cấp trên-cấp dưới) mà coi nhẹ chiều ngang(quan hệ giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp, quan hệ trường với trường, quan hệ trò với trò, quan hệ khu vực với khu vực…) đã làm cho sự ngộ nhận giữa “ quyền lực” và “quyền uy” ngày càng trầm trọng gây ra những vấn đề mà giáo dục Việt Nam đang hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt.

Cải cách giáo dục để tạo ra ngày một nhiều những người thầy “quyền uy”

Những lí luận và dẫn chứng của nhà giáo dục Tanaka vừa tóm tắt ở trên không phải là không có những điểm cần tranh luận và trao đổi tuy nhiên góc độ tiếp cận vấn đề và những nhận xét đáng kinh ngạc của ông sẽ có ích cho chúng ta khi tư duy về giáo dục nước nhà.Khi nền giáo dục đang đối mặt với một hệ thống những vấn đề cơ bản và đòi hỏi một cuộc cải cách chiến lược thì đương nhiên nó sẽ phải gánh trên vai cả sự kì vọng và …tức giận của người dân- những người đang đóng thuế để nuôi giáo dục và ngày đêm trông mong giáo dục tạo nên sự đổi thay tốt đẹp. Người giáo viên đương nhiên sẽ là người tiếp nhận cả hai gánh nặng ấy cho dù nói cho công bằng có những việc họ muốn làm nhưng nằm ngoài tầm tay với. Trong quá trình tìm lối thoát cho giáo dục thì việc tìm kiếm một mô hình giáo dục tức là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “ Chúng ta muốn xây dựng một nền giáo dục như thế nào?” là không thể tránh khỏi. Muốn trả lời câu hỏi này lẽ tất nhiên câu hỏi “ Chúng ta muốn nhà trường giáo dục nên những học sinh như thế nào?” và “ Để giáo dục nên những học sinh đó chúng ta cần những người giáo viên như thế nào?” sẽ lại đặt ra và buộc chúng ta phải trả lời. Điều này có nghĩa là khi phác họa chân dung của nền giáo dục mới, đồng thời cũng là phác họa tương lai của dân tộc Việt Nam, chúng ta không thể không vẽ ra hình ảnh người học sinh mà thực chất đó là người công dân tương lai mà chúng ta mơ ước, cũng như hình ảnh người giáo viên-hai nhân vật đóng vai trò trung tâm của nền giáo dục. Xoay quanh hình ảnh học sinh và hình ảnh người giáo viên cần xây dựng sẽ có nhiều tranh luận nhưng ở đây tôi tán thành ý kiến của nhà giáo dục học Tanaka khi cho rằng nền giáo dục Việt Nam trong tương lai phải là nền giáo dục có nhiều người thầy “quyền uy” thay cho những người thầy “quyền lực”.

Nguyễn Quốc Vương

Nhật Bản, 10/2010

(Bài đã in trong sách “Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản”, NXB Phụ nữ, in lần đầu 2017, tái bản lần 3 năm 2018)

(1)Tanaka Yoshitaka sinh năm 1964 tại Kyoto, tốt nghiệp khoa kinh tế đại học Shiga( Nhật Bản), lấy bằng thạc sĩ nghành Hành chính quốc tế tại Mĩ. Hiện tại ông là nghiên cứu viên chính của trung tâm phát triển quốc tế, hội viên hội giáo dục học Nhật Bản, chuyên nghiên cứu phát triển giáo dục, phát triển xã hội. Cho đến nay ông đã đến làm cố vấn giáo dục ở nhiều nước châu Á như Thái Lan, Việt nam, Indonesia…

(2) Tanaka Yoshitaka: “ Cải cách giáo dục ở Việt Nam: Liệu đã thực hiện được phương châm coi trẻ em là trung tâm? ”, Akashi Shoten , 2008, trang 51

(3)Tanaka Yoshitaka, sđd, tr.50

(4)Tanaka Yoshitaka, sđd, tr.50

  • Tags: Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản, giáo dục so sánh

Sự khác biệt giữa quyền lực và quyền lực

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy
Khi câu hỏi liên quan đến việc gây ảnh hưởng hoặc thao túng người khác, hai điều luôn song hành trong lĩnh vực quản lý là Quyền lựcQuyền lực . Hai cái này được sử dụng để làm cho mọi người trả lời theo cách được hướng dẫn. Quyền lực được gọi là năng lực của một cá nhân ảnh hưởng đến ý chí hoặc hành vi của người khác. Như chống lại, thẩm quyền được gọi là quyền sở hữu của một người để đưa ra mệnh lệnh cho người khác.

Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng hai thuật ngữ này là một và giống nhau, nhưng tồn tại một ranh giới khác biệt giữa quyền lực và thẩm quyền. Trong khi cái trước được thực hiện trong một năng lực cá nhân, cái sau được sử dụng trong một năng lực chuyên nghiệp. Vì vậy, về chủ đề này, chúng ta sẽ đưa ra ánh sáng về sự khác biệt cơ bản giữa hai, hãy xem xét.

Biểu đồ so sánh

Cơ sở để so sánhQuyền lựcThẩm quyền
Ý nghĩaQuyền lực có nghĩa là khả năng hoặc tiềm năng của một cá nhân để gây ảnh hưởng đến người khác và kiểm soát hành động của họ.Quyền hợp pháp và chính thức để đưa ra mệnh lệnh và mệnh lệnh, và đưa ra quyết định được gọi là Cơ quan.
Nó là gì?Đó là một đặc điểm cá nhân.Đó là một quyền chính thức, được trao cho các quan chức cao cấp.
NguồnKiến thức và chuyên môn.Vị trí & văn phòng
Hệ thống cấp bậcQuyền lực không theo bất kỳ hệ thống phân cấp.Quyền hành theo thứ bậc.
Cư trú vớiNgườiChỉ định
Hợp phápKhôngVâng

Định nghĩa sức mạnh

Theo thuật ngữ quyền lực, chúng tôi có nghĩa là năng lực cá nhân của một cá nhân để ảnh hưởng đến người khác làm hoặc không thực hiện một hành động. Nó là độc lập và không chính thức trong tự nhiên có nguồn gốc từ sự lôi cuốn và địa vị. Đó là một khả năng có được xuất phát từ kiến ​​thức và chuyên môn. Đó là quyền kiểm soát hành động, quyết định và biểu diễn của người khác.

Quyền lực không phân cấp, tức là nó có thể chảy theo bất kỳ hướng nào như nó có thể chảy từ cấp trên sang cấp dưới (cấp dưới) hoặc cấp dưới (cấp trên) hoặc giữa những người làm việc ở cùng cấp, nhưng các bộ phận khác nhau của cùng một tổ chức (theo chiều ngang ) hoặc giữa những người làm việc ở các cấp khác nhau và các phòng ban của cùng một tổ chức (đường chéo). Theo cách này, nó không bị giới hạn trong bất kỳ ranh giới. Hơn nữa, yếu tố chính trị thường được gắn liền với nó.

Định nghĩa của chính quyền

Quyền hạn là quyền hợp pháp và chính thức đối với một người, người có thể đưa ra quyết định, ra lệnh và ra lệnh cho người khác thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Nó được trao cho các quan chức cấp cao, để hoàn thành các mục tiêu của tổ chức. Đó là bản chất phân cấp, nó chảy xuống, tức là ủy thác từ cấp trên đến cấp dưới.

Nói chung, quyền hạn được thực thi để hoàn thành công việc thông qua người khác. Nó được gắn liền với vị trí, tức là bất kỳ người nào có được vị trí đó đều thích quyền lực gắn liền với nó, vị trí càng cao, quyền lực của anh ta càng cao. Vì quyền hạn nằm trong sự chỉ định, nên nếu không có thẩm quyền, vị trí được trao cho người đó sẽ không có tác dụng. Hơn nữa, nó chỉ giới hạn trong tổ chức.

NộI Dung:

  • Biểu đồ so sánh
  • Định nghĩa quyền lực
  • Định nghĩa Quyền hạn
  • Sự khác biệt chính giữa quyền lực và quyền hạn
  • Phần kết luận

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy
Khi câu hỏi là về việc gây ảnh hưởng hoặc thao túng người khác, hai điều song hành trong lĩnh vực quản lý làQuyền lực Thẩm quyền. Hai điều này được sử dụng để khiến mọi người phản hồi theo cách được hướng dẫn. Quyền lực được hiểu là khả năng của một cá nhân để ảnh hưởng đến ý chí hoặc hành vi của người khác. Ngược lại, quyền hạn được gọi là quyền của một người để trao quyền chỉ huy cho người khác.

Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng hai thuật ngữ này là một và giống nhau, nhưng tồn tại một ranh giới rõ ràng khác biệt giữa quyền lực và quyền hạn. Trong khi cái trước được sử dụng với tư cách cá nhân, thì cái sau được sử dụng với tư cách nghề nghiệp. Vì vậy, về chủ đề này, chúng ta sẽ làm sáng tỏ sự khác biệt cơ bản giữa hai loại, hãy xem.

Nhà giáo sẽ là người thầy "quyền lực" hay "quyền uy"?

Ông Tanaka vô cùng kinh ngạc khi ở Việt Nam học sinh thường ngồi yên rất ngoan ngoãn và lắng nghe giáo viên giảng bài. Mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi rất nhiều học sinh giơ tay trả lời một cách nghiêm túc đến mức kinh ngạc với cánh tay đặt vuông góc trên mặt bàn. Ông kinh ngạc bởi đã quen với chuyện ở nước Nhật, học sinh có thể ngồi khi phát biểu ý kiến, tranh luận với bạn bè hay giáo viên trong giờ học. Đôi khi học sinh có thể phát biểu mà không cần giơ tay xin phép khi ý tưởng vụt đến. T

LTS:Đây bài báo được viết bởi nhà giáo Nguyễn Quốc Vương từ tháng 10 năm 2010 đề cập tới góc nhìn của nhà giáo dục học người Nhật Tanaka Yoshitaka(1), người đã có ba năm (2004-2007) làm việc ở Việt Nam trong vai trò cố vấn giáo dục về mối quan hệ thầy trò ở Việt Nam. Nội dung bài viết trên đã được đưa vào cuốn sách "Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?".

Dù bài viết đã lâu nhưng trong không khí trao đổi những vấn đề liên quan tới quan hệ giữa thầy và trò cũng như tính kỷ luật trong nhà trường thì vẫn còn nguyên giá trị để chúng ta suy ngẫm, soi nhìn lại mình khi liên tục đưa tin về những vụ giáo viên bạo hành học sinh. Theo tác giả, tình trạng giáo viên bạo hành học sinh phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với một lọat các hiện tượng khác cùng những yếu tố có liên quan. Thêm nữa không nên chỉ nhìn nhận nạn thầy bạo hành trò trong phạm vi hẹp là những hành động “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” mà cần khảo sát nó ở phạm vi rộng hơn.

Với ý nghĩa đó, ở bài viết này, TS Vương đã đề cập tới góc nhìn của nhà giáo dục học người Nhật Tanaka Yoshitaka(1), người đã có ba năm( 2004-2007) làm việc ở Việt Nam trong vai trò cố vấn giáo dục. Khi nghiên cứu về mối quan hệ thầy trò ở Việt Nam, Tanaka đã xem xét nó trong sự tương tác của các yếu tố kết thành hệ thống và cho rằng ở Việt Nam mối quan hệ thầy trò ở nhà trường bị phá hỏng vì ở người thầy có sự ngộ nhận nghiêm trọng giữa “quyền lực” và “quyền uy”.

Tuần Việt Nam xin đăng tải lại bài viết để quý vị độc giả tham khảo và cùng suy ngẫm.

Sự ngộ nhận quyền lực và quyền uy

Trong cuốn “Cải cách giáo dục ở Việt Nam: Liệu đã thực hiện được phương châm coi trẻ em là trung tâm? ”, do Akashi Shoten ấn hành năm 2008, Tanaka đã phác thảo lại bộ mặt giáo dục Việt Nam và đề cập đến nạn giáo viên bạo hành học sinh.

Theo ông một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng giáo viên bạo hành học sinh là“sự ngộ nhận giữa quyền lực và quyền uy”. Tanaka cho rằng trong đời sống hàng ngày người ta thường hiểu và dùng hỗn hợp hai từ “quyền lực” và “quyền uy” tuy nhiên trong lĩnh vực giáo dục thì chúng mang hai nội hàm khái niệm khác nhau.

Ông dẫn lại luận điểm của nhà nghiên cứu Okada khi giải thích thế nào là "quyền lực” và "quyền uy” cũng như sự khác biệt giữa chúng. Quan điểm của Okada cho rằng "quyền uy” của người thầy đối với học sinh là việc cho dù người thầy có ý đồ hay không có ý đồ đối với những lời nói, hành động của mình thì học trò vẫn lắng nghe và có thái độ vâng lời.

Tuy nhiên ông cũng chỉ rõ không phải người thầy nào cũng có được "quyền uy” và quan trọng hơn là không phải cứ ai làm thầy là có nó. Tại sao? Bởi vì chủ thể cảm nhận được "quyền uy” xét đến cùng là học sinh và "quyền uy” không phải là thứ mà người giáo viên đơn phương tạo ra được. “Quyền uy” của người thầy sinh ra từ quá trình người học sinh tự mình đánh giá giáo viên ở nhiều phương diện và nếu như trong đầu người học sinh bật ra ý nghĩ “A! Đây quả là một người giáo viên đáng kính, một người giáo viên tuyệt vời!” thì trong trường hợp ấy anh ta sẽ tự nguyện trao “quyền uy” cho người thầy.

Ở đây một vấn đề khác sẽ lại đặt ra là có thể người giáo viên X có "quyền uy” đối với học sinh Y nào đó ( bởi trong thâm tâm học sinh Y đã ngầm đánh giá và trao "quyền uy” cho giáo viên này) nhưng điều đó không thể đảm bảo rằng giáo viên X sẽ có cả "quyền uy” với những học sinh còn lại vì có thể các em không đánh giá cao và tự nguyện trao quyền uy cho giáo viên này.

Tóm lại: "quyền uy” là thứ mà học sinh tự nguyện tạo ra rồi trao cho người giáo viên và như thế người đựợc trao “quyền uy” là người thầy mà xét ở một số phương diện ít nhất phải có những đặc tính ưu tú về tài năng và nhân cách. Với ý nghĩa này thì cả Tanaka và Okada đều chủ trương hình ảnh người giáo viên “quyền uy” là hình ảnh đáng trân trọng và nên xây dựng.

Tương phản với “quyền uy” là “quyền lực”.Nếu như “quyền uy” là quà tặng tự nguyện của học sinh cho người thầy, thì quyền lực là thứ mà bản thân người giáo viên có thể đơn phương quyết định. Theo kết quả quan sát và phân tích của Tanaka thì những giáo viên "quyền lực” là những người không hề chú ý đến người xung quanh nhìn mình là người như thế nào? Đánh giá mình như thế nào? Họ coi hành động, lời nói của mình là tuyệt đối và duy nhất đúng. Họ cũng luôn có tham vọng ép người khác phải tuân lệnh.

Trong trường hợp người khác không nghe theo, họ sẽ dùng sức mạnh để cưỡng ép. Chính vì thế theo Tanaka, khi xây dựng một nền giáo dục lành mạnh thực sự vì con người, vì tương lai của xã hội cũng như của nhân loại thì người giáo viên "quyền lực” là thứ không một ai có lương tâm mong muốn. Theo lô-gíc đó, một nền giáo dục đầy rẫy những giáo viên “quyền lực” sẽ không bao giờ sinh ra những thế hệ học sinh có tư duy độc lập, có lòng dũng cảm và luôn biết làm người tự do.

Biểu hiện và hậu quả của việc ngộ nhận giữa "quyền lực” và "quyền uy”

Trong ba năm ở Việt Nam với vai trò là cố vấn giáo dục, Tanaka đã đi thực tế nhiều trường phổ thông ở Việt Nam, tham dự nhiều giờ học khác nhau, phỏng vấn nhiều giáo viên và những người làm việc trong ngành giáo dục. Ông đã phân tích những dữ liệu từ nhiều nguồn nói trên để làm rõ những biểu hiện trên thực tế của sự ngộ nhận giữa "quyền lực" và "quyền uy”.

Khi trực tiếp quan sát các giờ học ở trường tiểu học Việt Nam, Tanaka vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra một thực tế hoàn toàn tương phản với Nhật Bản. Đó là ở Việt Nam trong bất cứ lớp học nào, học sinh cũng thường ngồi yên rất ngoan ngoãn và lắng nghe giáo viên giảng bài. Ông rất ngạc nhiên khi thấy có rất ít học sinh nói chuyện riêng, ngủ gật hay chạy ra khỏi lớp học. Thêm nữa mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi rất nhiều học sinh giơ tay trả lời một cách nghiêm túc đến mức kinh ngạc với cánh tay đặt vuông góc trên mặt bàn.

Tanaka kinh ngạc bởi ông đã quen với chuyện ở nước Nhật trong nhiều trường tiểu học, học sinh có thể ngồi khi phát biểu ý kiến, tranh luận với bạn bè hay giáo viên trong giờ học. Đôi khi học sinh có thể phát biểu mà không cần giơ tay xin phép khi ý tưởng vụt đến. Tại sao học sinh tiểu học Việt Nam lại có tinh thần nhẫn nại và sự chịu đựng bền bỉ đến thế cho dù trong nhiều giờ học giáo viên chỉ đọc đi đọc lại nội dung sách giáo khoa một cách rất nhàm chán? Để trả lời câu hỏi này, Tanaka đã cất công tra cứu, phân tích hồ sơ dự giờ và phát hiện ra rằng tư thế tồn tại và sự hiện diện của người giáo viên trong lớp học rất đặc biệt. Đấy là một tư thế đầy “quyền lực” thay vì có “quyền uy”.

Tanaka đã tỉ mỉ thống kê và phân tích những lời nói của giáo viên trong từng lớp học, từng giờ dạy và thấy rằng những từ ngữ mang tính mệnh lệnh được dùng với tần suất rất cao và phụ họa với nó là tiếng thước nện lên bảng chát chúa. Tiếng “chát” của chiếc thước kẻ dài đập mạnh lên mặt bàn hay mặt bảng đen gây cho Tanaka một ấn tượng choáng váng.

Từ đó ông rút ra kết luận: "Trong lớp học người giáo viên đã trở thành người có quyền lực tuyệt đối. Người thầy đã trở thành biểu tượng của quyền lực khi nắm trong tay cả tri thức và kĩ năng” (2). Hậu quả là giờ học diễn ra hoàn toàn theo kiểu giao tiếp một chiều. Trước thái độ, hành động và những chỉ dẫn mang tính mệnh lệnh của giáo viên, học sinh đã “không thể phát biểu ý kiến hay ý tưởng của mình. Điều duy nhất có thể làm là nghe theo mệnh lệnh và tìm cách trả lời các câu hỏi có đáp án mà người giáo viên mong muốn”(3). Trong những giờ học như thế hình ảnh học sinh thật tương phản với hình ảnh của giáo viên “ Trong giờ học không hề thấy ở các em học sinh dáng vẻ tự nhiên vốn có…thông thường thì lớp học sẽ phải đầy ắp bầu không khí sôi nổi nhưng có vẻ như tinh thần của học sinh ở đây dường như lại ở một thế giới khác”.(4)

Suốt thời gian ngồi trong lớp học, học sinh đã phải kìm nén và sự náo động khi tiếng chuông hết giờ vang lên đã nói lên điều đó. Tanka cho rằng nếu tiến hành giờ học kiểu thuyết trình hay đọc sách giáo khoa ở Nhật thì học sinh sẽ nói chuyện riêng với bạn bè trong lớp, gục đầu ngủ hay chạy ra khỏi lớp học. Nhưng ở Việt Nam, học sinh rất chăm chú lắng nghe dù trong lòng rất…chán. Ông cho rằng những biểu hiện trong giờ học cho thấy dù vô thức hay có ý thức, người giáo viên đã gây sức ép lớn lên học trò và ông gọi đây là“sự lạm dụng quyền lực nghề nghiệp”.

Sự “lạm dụng quyền lực nghề nghiệp” này là hậu quả tất yếu của việc“ ngộ nhận quyền lực của nghề nghiệp là quyền lực của riêng bản thân mình”. Đó là quá trình diễn tiến từ lòng tự tôn của bản thân và sự kính trọng, tin tưởng của xã hội như "nghề giáo viên là nghề đáng kính”, "những lời nói của giáo viên là đúng" thành "ta là người đáng phải được tôn trọng", "những gì ta nói đều là chân lý”.

Đây là một sự ngộ nhận nghiêm trọng và "quyền uy” của nghề nghiệp đã trở thành "quyền lực của cá nhân” và nó gây ra những hậu quả khôn lường. Một khi người giáo viên có quan niệm sai lầm như vậy thì cho dù bản thân người đó thiếu năng lực đi chăng nữa thì mặc nhiên họ coi bản thân mình đã có sẵn "quyền uy". Hậu quả là trong phần lớn các trường hợp cho dù giáo viên có nói sai, làm sai đi nữa thì bản thân người giáo viên và cả người xung quanh vẫn cho là đúng.

Nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới bản thân người giáo viên có cảm giác, ý nghĩ "mình thật là vĩ đại! mình thật là tuyệt vời!” và bằng lòng với vị trí của mình không tiếp tục nỗ lực nữa. Kết cục là người giáo viên đó chẳng những không nâng cao được năng lực nghề nghiệp mà nguy nghiểm hơn là bản thân họ không hề nhận thức được mối nguy hiểm của sự nhầm lẫn.

Do đó chuyện người giáo viên khăng khăng “tôi đã nói thì học trò dứt khoát phải nghe”, “tôi đã nói là chỉ có đúng” trở thành hiện tượng phổ biến. Hậu quả nhãn tiền là những người giáo viên này sẽ tạo nên hàng loạt những giờ học căng thẳng và vô hồn bởi họ không hề chú ý tới mối quan tâm, hứng thú của học sinh. Họ làm cho học sinh mất đi niềm say mê học tập và không có hứng thú tập trung vào chuyện học hành. Khi ấy người giáo viên chỉ còn cách dựa vào quyền lực mà dồn ép học sinh. Và cứ thế giáo dục quay tít mù trong cái vòng luẩn quẩn.

Tại sao người giáo viên Việt Nam có “ quyền uy” và “quyền lực” lớn?

Khi xem xét giáo dục Việt Nam dưới góc độ xã hội học, Tanaka đã phát hiện ra một điều khiến chúng ta không khỏi giật mình và suy nghĩ :“Người giáo viên Việt Nam có địa vị xã hội cao nhưng địa vị kinh tế lại cực thấp”.Đặc trưng chứa đựng mâu thuẫn này sẽ có liên hệ trực tiếp tới sự nhầm lẫn “quyền lực” và “quyền uy” của người thầy. Trả lời cho câu hỏi tại sao người giáo viên Việt Nam có "quyền uy” lớn Tanaka dẫn ra hai lí do chủ yếu.

Thứ nhấtnó xuất phát từ quan niệm về đạo đức của người Việt. Việt Nam từ thời cổ đại đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đặc biệt là tư tưởng Nho giáo Khổng - Mạnh. Những tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam. Người Việt coi trọng các chuẩn mực đạo đức như: nhân nghĩa, trung hiếu, yêu gia đình, coi trọng mối quan hệ thầy trò và quan hệ trên dưới theo lứa tuổi, địa vị xã hội. Trong môi trường xã hội với những chuẩn mực đạo đức đó thì người giáo viên không phải chỉ là “thầy” của học sinh mà còn là “thầy” của cả những người bình thường theo nghĩa rộng.

Thứ hailà do tính "ưu tú” của người giáo viên. Muốn trở thành giáo viên, thông thường người đó phải có bằng cao đẳng hoặc đại học và như vậy trong mắt những người bình thường trong xã hội họ là những người có học và có bằng cấp cao. Mặt khác, tính "ưu tú” còn được thể hiện trong giờ học qua lời nói của giáo viên với ngôn từ trau chuốt, giọng nói truyền cảm, chữ viết trên bảng thì thẳng và đẹp như một tác phẩm nghệ thuật. Khi chứng kiến những thứ đó người dân bình thường sẽ không khỏi ngưỡng mộ.

Ngoài hai lí do chính kể trên, Tanka còn đề cập đến mối liên hệ chằng chịt qua lại giữa việc thực hiện một chương trình-một bộ sách giáo khoa cùng những bất cập trong hệ thống hành chính giáo dục. Đây là những yếu tố cơ bản làm cho người thầy nhầm lẫn giữa “quyền lực” và “quyền uy”.

Theo Tanaka việc thực hiện một chương trình với một bộ sách giáo khoa duy nhất trong thời gian dài đã làm phát sinh hiện tượng "độc quyền chân lý”.Ông phân tích rằng giáo dục Việt Nam do coi trọng tính tuyệt đối của chương trình, sách giáo khoa cho nên giáo viên không có cơ hội để phát huy tính sáng tạo, tự chủ của mình. Giáo viên không tiến hành nghiên cứu nội dung tài liệu giảng dạy hay nội dung học thuật mà chỉ quan tâm đến những nội dung và phương pháp được quy định trong chương trình hay trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên mà thôi. Họ cũng thiết kế bài giảng chỉ căn cứ trên cảm tính chủ quan của bản thân mà không hề tính đến việc làm thỏa mãn mối quan tâm, hứng thú của học trò.

Thêm nữa quan niệm truyền thống phổ biến ở Việt Nam coi mục đích giáo dục là “truyền đạt kiến thức” hay “cung cấp tri thức” đã nhốt cả giáo viên lẫn học sinh trong một cái khung rất chắc. Hệ thống hành chính giáo dục quá chặt chẽ lại chỉ thiên về mối quan hệ theo chiều dọc (cấp trên-cấp dưới) mà coi nhẹ chiều ngang (quan hệ giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp, quan hệ trường với trường, quan hệ trò với trò, quan hệ khu vực với khu vực…) đã làm cho sự ngộ nhận giữa "quyền lực” và "quyền uy” ngày càng trầm trọng gây ra những vấn đề mà giáo dục Việt Nam đang hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt.

Cải cách giáo dục để tạo ra ngày một nhiều những người thầy "quyền uy"

Những lí luận và dẫn chứng của nhà giáo dục Tanaka vừa tóm tắt ở trên không phải là không có những điểm cần tranh luận và trao đổi tuy nhiên góc độ tiếp cận vấn đề và những nhận xét đáng kinh ngạc của ông sẽ có ích cho chúng ta khi tư duy về giáo dục nước nhà.Khi nền giáo dục đang đối mặt với một hệ thống những vấn đề cơ bản và đòi hỏi một cuộc cải cách chiến lược thì đương nhiên nó sẽ phải gánh trên vai cả sự kì vọng và …tức giận của người dân - những người đang đóng thuế để nuôi giáo dục và ngày đêm trông mong giáo dục tạo nên sự đổi thay tốt đẹp. Người giáo viên đương nhiên sẽ là người tiếp nhận cả hai gánh nặng ấy cho dù nói cho công bằng có những việc họ muốn làm nhưng nằm ngoài tầm tay với.

Trong quá trình tìm lối thoát cho giáo dục thì việc tìm kiếm một mô hình giáo dục tức là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: "Chúng ta muốn xây dựng một nền giáo dục như thế nào?” là không thể tránh khỏi. Muốn trả lời câu hỏi này lẽ tất nhiên câu hỏi: "Chúng ta muốn nhà trường giáo dục nên những học sinh như thế nào?” và “Để giáo dục nên những học sinh đó chúng ta cần những người giáo viên như thế nào?” sẽ lại đặt ra và buộc chúng ta phải trả lời.

Điều này có nghĩa là khi phác họa chân dung của nền giáo dục mới, đồng thời cũng là phác họa tương lai của dân tộc Việt Nam, chúng ta không thể không vẽ ra hình ảnh người học sinh mà thực chất đó là người công dân tương lai mà chúng ta mơ ước, cũng như hình ảnh người giáo viên - hai nhân vật đóng vai trò trung tâm của nền giáo dục. Xoay quanh hình ảnh học sinh và hình ảnh người giáo viên cần xây dựng sẽ có nhiều tranh luận nhưng ở đây tôi tán thành ý kiến của nhà giáo dục học Tanaka khi cho rằng nền giáo dục Việt Nam trong tương lai phải là nền giáo dục có nhiều người thầy "quyền uy” thay cho những người thầy "quyền lực”.

Nguyễn Quốc Vương

(1) Tanaka Yoshitaka sinh năm 1964 tại Kyoto, tốt nghiệp khoa kinh tế đại học Shiga (Nhật Bản), lấy bằng thạc sĩ ngành Hành chính quốc tế tại Mĩ. Hiện tại ông là nghiên cứu viên chính của Trung tâm phát triển quốc tế, hội viên Hội Giáo dục học Nhật Bản, chuyên nghiên cứu phát triển giáo dục, phát triển xã hội. Cho đến nay ông đã đến làm cố vấn giáo dục ở nhiều nước châu Á như Thái Lan, Việt nam, Indonesia,…
(2) Tanaka Yoshitaka: "Cải cách giáo dục ở Việt Nam: Liệu đã thực hiện được phương châm coi trẻ em là trung tâm? ”, Akashi Shoten , 2008, trang 51
(3) Tanaka Yoshitaka, sđd,tr.50
(4) Tanaka Yoshitaka, sđd,tr.50

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

“Chúng ta chỉ cần những con người không có hình xăm?”

Mọi người dân đều mong chờ Bộ Giáo dục giải quyết hiệu quả bạo lực học đường.

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Xử lý nghiêm cô giáo phạt học sinh uống nước giặt giẻ lau bảng

Bộ GD-ĐT chỉ đạo kiểm điểm, có hình thức xử lý nghiêm việc cô giáo phạt học sinh lớp 3 uống nước giặt giẻ lau bảng ở Hải Phòng

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Cô giáo phạt học sinh lớp 3 uống nước giặt giẻ lau bảng

Một học sinh lớp 3 do nói chuyện riêng trong lớp đã bị cô giáo phạt bằng cách cho uống nước giặt giẻ lau bảng. Vụ việc bị phụ huynh phát giác đến phản ánh với nhà trường.

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Bao giờ hết bất lực nhìn trẻ mầm non bị bạo hành?

Bài toán chất lượng giáo dục mầm non chỉ có thể được giải khi Nhà nước đưa ra quốc sách về giáo dục, ưu tiên phát triển giáo dục mầm non.

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Bị bạo hành: Im lặng để ăn đòn nhẹ hơn

Ở Bắc Giang, một người chồng đang tâm cắt gân tay, gân chân vợ mình ngay trên đường. Và đó không phải là “chuyện gia đình”. Người ta cần đặt ra câu hỏi: điều gì đã cho phép sự việc đau lòng ấy diễn ra?

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Cha mẹ góp phần gây... bạo hành

Nếu cha mẹ, cô bảo mẫu thấy đứa trẻ dán mắt vào tivi, không chịu ăn, thì hãy tự tát vào mặt mình trước, trước khi xử lý đứa bé. Khi đó bạo hành sẽ bớt dần đi.

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy

Bạo hành trẻ: Sự chịu đựng đã đến giới hạn

Hôm qua, người ta thêm lần nữa nhắc chuyện lắp camera trong trường mầm non. Lại khởi tố vụ án. Làm gì thì làm đi. Nhưng không thể chậm hơn một ngày nữa.

Quyền lực, quyền uy, đạo đức trong xã hội có giai cấp, trong điều kiện đảng cầm quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhận thức đúng điều này sẽ góp phần nâng cao đạo đức cách mạng, chống suy thoái về đạo đức.

..................................................

Theo "Từ điển tiếng Việt", quyền lực được hiểu là "quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy"... Còn theo "Từ điển từ và ngữ Hán - Việt" của Giáo sư Nguyễn Lân thì quyền lực được hiểu "sức mạnh của quyền lực được giao để bắt buộc người khác phải theo (ví dụ: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước). Còn quyền uy - cũng theo Nguyễn Lân - là quyền lực và uy thế.

Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, đối với chính đảng của mình và đối với chính đảng và các giai cấp khác.... Những khái niệm về thiện và ác, về lương tâm và danh dự, nghĩa vụ và quyền lợi, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... là những phạm trù thuộc ý thức đạo đức. Đạo đức mang tính giai cấp. Đạo đức chiếm vị trí chi phối, giữ địa vị thống trị đạo đức xã hội là đạo đức của giai cấp cầm quyền.

Như vậy, quyền lực, quyền uy, đạo đức trong xã hội có giai cấp, trong điều kiện đảng cầm quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhận thức đúng điều này sẽ góp phần nâng cao đạo đức cách mạng, chống suy thoái về đạo đức.

Không nhận thức đúng về quyền lực sẽ dẫn tới suy thoái đạo đức

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến tận cuối đời, Bác Hồ luôn trăn trở với sứ mệnh cầm quyền của Đảng. Nỗi bận tâm của người sáng lập Đảng là hoàn toàn có cơ sở, vì nước ta là nước dân chủ, nghĩa là dân làm chủ và dân là chủ.

Từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, Đảng có quyền lực chính trị lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn diện đất nước, lãnh đạo toàn dân xây dựng xã hội mới. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ. Đảng cầm quyền lấy dân làm gốc. Quyền lực của Đảng do dân uỷ thác.

Theo Hồ Chí Minh, "Đảng cầm quyền trong một nước dân chủ, thì việc giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại". Hồ Chí Minh chỉ rõ, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào.

Gương sáng thì dân soi, gương mờ thì dân quay lại

Sự khác nhau giữa quyền lực và quyền uy
Phóng to

Hồ Chí Minh (1890-1969) là nhà cách mạng, một nhà văn hóa kiệt xuất, góp phần làm nên lịch sử đất nước, lịch sử thế kỷ 20 một phần bởi sự nghiệp văn hóa to lớn người đã cống hiến cho dân tộc Việt Nam và nhân loại.

Về mặt lý luận và thực tiễn, giành chính quyền đã khó, giữ và xây dựng chính quyền còn khó hơn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chống đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng nghèo nàn lạc hậu khó khăn hơn nhiều". Chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng (cần hiểu theo tinh thần Hồ Chí Minh là hư hỏng cả tổ chức và con người), để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi là một cuộc chiến đấu khổng lồ. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nêu việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng. Tại sao như vậy?

Bởi vì Đảng ta là đảng cầm quyền, mọi sai, đúng về đường lối, tư tưởng, phẩm chất đạo đức tốt, xấu không bó hẹp trong nội bộ Đảng mà tác động tới toàn xã hội. Hệ thống chính trị mà đứng đầu là Đảng là tấm gương của xã hội, gương sáng thì dân soi, gương mờ thì không soi được, dân quay lưng lại. Như vậy, Đảng giữ vị trí quan trọng hàng đầu của mọi tầm quan trọng.

Quy luật của cuộc sống là đập tan thì dễ, xây dựng, mà thật sự xây dựng thì khó. Cái khó ở đây không phải chỉ ở quy mô của sự nghiệp cách mạng, mà vấn đề là làm sao trong điều kiện Đảng cầm quyền, có được đội ngũ cán bộ đảng viên đủ trí tuệ, bản lĩnh, cái tâm, cái đức để phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Trong xây dựng đất nước, Đảng phải có tư duy mới, bố trí lực lượng mới, phương pháp cách mạng và hành vi mới...

Ngay từ sau khi giành được độc lập, với tầm nhìn xa, trông rộng, Bác Hồ đã cảnh báo những nguy cơ và chỉ ra những căn bệnh của Đảng cầm quyền và của cán bộ, đảng viên do chủ nghĩa cá nhân gây ra, trong đó rất đáng chú ý những căn bệnh như quan liêu, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, "hữu danh vô thực", xu nịnh a dua, kéo bè kéo cánh, mất dân chủ, nhũng lạm (lạm dụng quyền lực để nhũng nhiễu dân), dìm người tài...

Con người thì ai cũng có cái xấu trong lòng, nhưng không phải ai cũng có thể đục khoét được nhân dân và không phải ai cũng được người ta đút lót. Bác Hồ đã chỉ ra rằng trong điều kiện Đảng cầm quyền, những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.

Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư". Như vậy, theo tinh thần của Bác Hồ, ta hiểu tham nhũng không chỉ là tham nhũng kinh tế, mà gốc rễ là tham nhũng quyền lực, và đó là bệnh của cán bộ, công chức.

Thực tiễn cho thấy, nếu cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, chủ chốt có chức, có quyền mà không tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, trở thành những tấm gương sáng trong xã hội, thì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Bởi vì, cán bộ, đảng viên là tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm; là lực lượng tiên phong, nòng cốt của dân tộc: "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau".

Quyền lực nếu được trao vào tay cán bộ thiếu đức, dưới tầm thì việc lộng quyền, kéo bè kéo cánh, thiếu ý thức phục vụ nhân dân, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, thiếu tinh thần trách nhiệm là tất yếu, và cũng tất yếu sẽ dẫn tới tha hóa, biến chất. Ngược lại, nếu quyền lực đó được trao vào tay cán bộ có đức, có trí thì sẽ biến thành sức mạnh, động lực góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Phải rèn luyện đạo đức thật sự

Trong khi nói và viết để giáo dục cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh thường dùng hai chữ "thật sự", như bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân... Trong Di chúc, Người viết : "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".

Tại sao trong một đoạn ngắn, Hồ Chí Minh lại dùng đến bốn lần cụm từ "thật", "thật sự"? Bởi vì "thật sự" là đối lập với giả dối, lừa lọc, mà giả dối là bản chất đạo đức của giai cấp bóc lột.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta rèn luyện đạo đức mới, đạo đức cách mạng tức là đạo đức phục vụ cách mạng, phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, mà lõi cốt là vì độc lập tự do, hạnh phúc của nhân dân. "Thật sự" là bản chất của một đảng cộng sản chân chính cầm quyền, có sứ mệnh lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng đó phải là đạo đức, là văn minh như Bác Hồ đã chỉ ra. Rèn luyện thật sự là để chống lại thói nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói ít làm ít, nói ít không làm, nói một đằng làm một nẻo.

Phải có cơ chế kiểm soát quyền lực

Nhiều nơi trên thế giới có tham nhũng. Ở đâu có quyền lực thì ở đó có tham nhũng. Nếu tham nhũng trước hết là tham nhũng quyền lực, thì phải có cơ chế kiểm soát quyền lực. Theo Hồ Chí Minh, đã kiểm soát quyền lực, nhất là quyền lực của người lãnh đạo, thì phải kiểm soát từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sai lầm đó.

Trong sinh hoạt Đảng, phê bình và tự phê bình, thật sự bảo đảm dân chủ của đảng viên theo tinh thần Hồ Chí Minh là "để đảng viên dám mở mồm ra, dám nói, dám làm" là cách kiểm soát theo nguyên tắc tập trung dân chủ cần phải thực hành triệt để. Cần xây dựng cơ chế trách nhiệm người đứng đầu, trong đó có cơ chế từ chức, được nâng lên thành "văn hóa từ chức". Vấn đề từ chức rất cần sức mạnh của dư luận xã hội, như là một nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận.

Qua dư luận xã hội, mà một kênh rất quan trọng là báo chí, những người có chức quyền tự cảm thấy xấu hổ, lạc lõng giữa quần chúng, đứng về phía đối lập với cái đẹp. Bản chất của vấn đề là "đức trị", tức là tăng cường giáo dục đạo đức. Nhưng đối với kẻ tham nhũng, chỉ có giáo dục đạo đức không thôi thì không thể tiêu diệt được tham nhũng. Cần kết hợp "đức trị" với "pháp trị".

Rất cần "pháp trị" với ý nghĩa là tính khoa học, minh bạch của bộ máy trong điều kiện nhà nước pháp quyền; mặt khác phải nghiêm minh và công bằng về pháp luật. Nếu xử nhẹ kẻ tham nhũng, ăn hối lộ và hối lộ thì sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ. Bài học của Bác Hồ về kết hợp chặt chẽ giữa "đức trị" với "pháp trị" vẫn còn nguyên giá trị trong tình hình hiện nay.