Sự khác nhau giữa đảng và chính quyền

Đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo; quan hệ giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày phát hành: 04/04/2020 Lượt xem 13650

1. Quan niệm đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo

Sự khác nhau giữa đảng và chính quyền


1) Quan niệm đảng cầm quyền

Đảng là khái niệm rất rộng - tổ chức của một nhóm người, một phe phái có cùng quan điểm, cùng chí hướng, thực hiện một mục đích. Khái niệm đảng trong bài viết này là đảng chính trị - tổ chức đại diện cho một cộng đồng lớn, một giai cấp, có tôn chỉ, mục đích thực hiện ý chí và lợi ích của cộng đồng, của giai cấp.

Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào mô hình chế độ chính trị khác nhau mà ở đó có một hay nhiều đảng cạnh tranh, đấu tranh với nhau để nắm quyền lãnh đạo xã hội, thực hiện mục đích của mỗi đảng. Để thực hiện được mục đích của mình,, nhiệm vụ đầu tiên của mỗi đảng chính trị là phải nắm được chính quyền (nắm giữ quyền lực nhà nước) để lãnh đạo nhà nước, triển khai chủ trương, đường lối chính trị của đảng.

Theo quan niệm phổ biến hiện nay, đảng cầm quyền là đảng chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh giữa nhiều đảng. Đảng thắng cử đứng ra thành lập chính quyền, đưa ra chủ trương, đường lối, chính sách dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước, đại diện cho công dân cả nước. Theo quan niệm này, trên thế giới có nhiều cách thức và mô hình cầm quyền, song chủ yếu xoay quanh 2 mô hình chính: mô hình Nghị viện và mô hình Tổng thống.

Sự cầm quyền của mô hình Nghị viện: Đảng cầm quyền là đảng chính trị hoặc liên minh chính trị chiếm đa số trong nghị viện. Trong cơ quan lập pháp (quốc hội), đảng này nắm quyền hành pháp - Chính phủ (Thủ tướng). Sự cầm quyền của mô hình Tổng thống: Đảng cầm quyền là đảng của tổng thống - người đã được nhân dân lựa chọn (qua cuộc bầu cử tổng thống). Tổng thống đứng đầu cơ quan hành pháp. Quyền lực tổng thống do vậy, ưu trội hơn quyền lực của quốc hội (lập pháp).

Quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản khác với quá trình cầm quyền phổ biến nêu trên - do bản chất và sứ mệnh chính trị đặc thù của đảng. Tôn chỉ, mục đích, lý tưởng của Đảng Cộng sản là đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, tiến tới chủ nghĩa cộng sản - chế độ tiến bộ nhất của loài người. Về lý thuyết, đảng cộng sản có thể giành chính quyền trong nhà nước tư sản, song trong thực tế, điều đó là không thể, bởi thể chế chính trị tư sản chỉ bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, các đảng cộng sản không thể bình đẳng với các chính đảng tư sản. V.I. Lênin đã chỉ rõ: “chỉ kẻ ngu ngốc mới nghĩ rằng, giai cấp vô sản phải giành lấy đa số trong các cuộc bầu cử dưới sự áp bức của giai cấp tư sản...rồi mới giành chính quyền”.

Do tính chất và đặc điểm như vậy, các đảng cộng sản (Liên Xô, Trung Quốc, các nước Đông Âu, Cu Ba, Việt Nam...) đều không thể cầm quyền bằng các cuộc bầu cử, mà phải tiến hành các cuộc cách mạng lật đổ chế độ xã hội cũ, lập ra chính quyền mới, xây dựng thể chế chính trị với một nhà nước mới phù hợp với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Nắm được chính quyền, đảng cầm quyền bằng cách, đưa ra cương lĩnh và đường lối chính trị, chiến lược hành động bảo vệ chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị với trụ cột là nhà nước, huy động lực lượng toàn xã hội thực hiện mục đích của đảng và cũng là của nhân dân.

2) Về mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo

Với bản chất, nguyên tắc và thực tế của quá trình giành chính quyền của các đảng cộng sản nêu trên, sự cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là 2 khái niệm vừa khác nhau, vừa thống nhất với nhau.

Sự khác nhau giữa đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền: Khái niệm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, như trình bày ở trên, rộng hơn khái niệm Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang bản chất lãnh đạo và thực tế đã thực hiện chức năng lãnh đạo của mình. Để đạt được mục đích giải phóng dân tộc, thực hiện độc lập tự do, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức, xây dựng lực lượng, lãnh đạo giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền tư tưởng cộng sản, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tập hợp quần chúng, làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện Đảng chưa có chính quyền. Mới 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc cách mạng Tháng Tám thần thánh, giành chính quyền về tay nhân dân.

Rõ ràng, lãnh đạo là thuộc tính, là sứ mệnh tự thân của Đảng. Nói đến đảng là nói đến chức năng lãnh đạo. Đảng là lực lượng tiên phong, là hạt nhân của phong trào, của hy sinh phấn đấu để đạt tới mục đích của đảng. Là đảng mang lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tư tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đảng ra đời là từ ý nguyện, lợi ích của nhân dân tiến bộ, đảng phải mang và thể hiện ý chí của nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện cho được mục đích của nhân dân.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tỏ rõ trong tất cả các giai đoạn đấu tranh, xây dựng nhà nước và thực hiện lợi ích của nhân dân Việt Nam từ khi giành được chính quyền, xây dựng chính quyền mới và sử dụng quyền đó để xây dựng chế độ chính trị - xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình phát triển của đảng, nó cũng thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn, tài tính của đảng.

Sự thống nhất giữa đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền: Giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền (Hồ Chí Minh). Đó là bối cảnh thuận lợi mới để Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Đảng không phải hoạt động bí mật với những điều kiện khó khăn trong việc thực hiện sứ mệnh của đảng trước dân tộc, nhân dân như khi chưa cầm quyền. Đảng cầm quyền nghĩa là Đảng có toàn bộ chính quyền, sử dụng quyền lực nhà nước để lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện mục đích của đảng và của toàn dân; Đảng nắm toàn bộ chính quyền bằng sự tổ chức và sử dụng chính quyền nhà nước để lãnh đạo toàn xã hội xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, trong điều kiện đảng cầm quyền thì đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo là thống nhất với nhau. Đảng lãnh đạo không chỉ bằng quyền lực chính trị mà bằng cả quyền lực nhà nước. Nhà nước lúc này (trong nghĩa này) trở thành công cụ chính trị của đảng. Đảng lãnh đạo bằng sức mạnh của toàn bộ nhà nước (pháp quyền xã hội chủ nghĩa). Đảng vừa lãnh đạo bằng sức mạnh và lực lượng của đảng, vừa lãnh đạo bằng sức mạnh và lực lượng của nhà nước. Nội hàm sự lãnh đạo của đảng trong bối cảnh, điều kiện này là rộng hơn, lớn hơn, mạnh mẽ hơn.

Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng là chủ thể lãnh đạo, nhà nước là trụ cột và thực hiện chức năng quản lý xã hội. Đảng cầm quyền và lãnh đạo, có nghĩa là đảng không chỉ sử dụng quyền lực chính trị của đảng để lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Điều quan trọng hơn là, cùng với sức mạnh quyền lực chính trị của mình, Đảng sử dụng cả sức mạnh quyền lực nhà nước (chính quyền) để lãnh đạo toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Ở đây không thể đồng nhất quyền lực chính trị của đảng với quyền lực chính quyền (của nhà nước). Song đảng cầm quyền và lãnh đạo, hay đảng lãnh đạo trong điều kiện cầm quyền, trên cơ sở tôn chỉ mục đích của đảng, đảng tổ chức, xây dựng nhà nước, đề ra nguyên tắc và cơ chế vận hành để hoạt động hiệu lực và hiệu quả, thực hiện đúng mục đích của đảng.

Ở các mô hình cầm quyền phương Tây, khi một đảng đứng lên cầm quyền, đảng đó hóa thân vào nhà nước. Trong mô hình của Việt Nam, đảng không biến thành (hóa thân vào) nhà nước. Mà đảng sử dụng quyền lực nhà nước bằng cách xây dựng nhà nước (pháp quyền xã hội chủ nghĩa) theo đúng bản chất, ý chí, mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này thể hiện tính đặc thù trong phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng.

2. Quan hệ giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự khác nhau giữa đảng và chính quyền

1) Đặc điểm có tính nguyên tắc của phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng

Nếu như đặc điểm về bản chất và mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam quy định đặc điểm của quá trình giành quyền lực chính trị, thì đó cũng là cái tạo nên đặc điểm có tính nguyên tắc về phương thức cầm quyền và phương thức lãnh dạo của Đảng.

Phương thức cầm quyền và lãnh đạo có tính nguyên tắc của Đảng Cộng sản Việt Nam là không chấp nhận đa nguyên chính tri, đa đảng đối lập - Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất cầm quyền. Phấn đấu cho chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu bất di bất dịch của Đảng. Điều đó, về nguyên tắc, chỉ do Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền (nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa), đảng không chia sẻ quyền lực cho bất cứ đảng nào khác. Thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thành quả xây dựng và phát triển chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành quả của sự hy sinh, phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của toàn dân tộc. Đòi hỏi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, để bảo đảm dân chủ trong cầm quyền và lãnh đạo của đảng như một số người nêu lên chỉ là lý luận lừa bịp, muốn thủ tiêu vai trò duy nhất cầm quyền và lãnh đạo chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đã nắm được quyền thống trị, V.I. Lênin chỉ rõ: “Đảng nắm quyền đó với ý thức là chỉ một mình mình nắm”[1].

Khi nói “Đảng ta là Đảng cầm quyền”, Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh vị thế duy nhất nắm quyền lực nhà nước, mà còn nhấn mạnh vị thế lãnh đạo Nhà nước, cả hệ thống chính trị và xã hội của Đảng. Đảng cầm quyền trong ý nghĩa này đã hàm chứa cả đảng lãnh đạo. Điều đó không có nghĩa, quyền lực của Đảng là “siêu quyền lực”, đứng trên quyền lực nhà nước (như có người hiểu). Đảng và Nhà nước là hai chủ thể quyền lực khác nhau trong một thể chế chính trị - xã hội. Quyền lực của Đảng là quyền lực của giai cấp - một lực lượng trong xã hội; đây là quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân - đây là quyền lực tổ chức, phục vụ, kiến tạo phát triển đất nước. Sự duy nhất cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải được Nhân dân thừa nhận, lựa chọn và được ghi nhận trong Hiến pháp (tính chính đáng chính trị). Đảng cầm quyền bằng Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan công quyền, không tự biến mình thành Nhà nước. Nếu quyền lực đảng đồng nhất với quyền lực nhà nước thì xã hội sẽ không còn dân chủ, mà trở thành độc tài.

Phương thức cầm quyền và lãnh đạo đó cũng không phải là phương thức “toàn trị” như có người đã gán cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng duy nhất cầm quyền là để giữ vững mục đích chính trị (CSCN) của Đảng, của Nhân dân. Đảng không toàn ý (độc quyền) nắm quyền và “cai trị”, “cưỡng ép” Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm theo ý chí chủ quan của Đảng. Đảng cầm quyền bằng ý chí và nguyện vọng của Nhân dân (ghi trong Hiến pháp) và lãnh đạo cả hệ thống chính trị thực hiện mục đích của Nhân dân và cũng là của Đảng.

2) Phương thức cầm quyền của Đảng

Là chủ thể duy nhất cầm quyền, Đảng phải chịu trách nhiệm trước toàn dân về vận mệnh của đất nước. Để làm tốt sứ mệnh đó, Đảng dùng quyền lực chính trị của mình, xây dựng hệ thống chính trị: Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; xác định vị trí, vai trò, quyền hạn của mình cũng như của các thành viên trong hệ thống chính trị. Đảng xây dựng nhà nước đúng bản chất, chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có bộ máy, nguyên tắc và cơ chế vận hành bảo đảm cho việc thực hiện tốt nhất mục đích của Đảng. Đảng xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội sao cho chúng thực sự là đại diện hiệu lực và giám sát, phản biện hiệu quả của nhân dân; đồng thời chúng trở thành tổng lực tham chính và xây dựng đảng, nhà nước.

Đảng bố trí người của đảng (một cách hợp pháp) giữ các vị trí chủ chốt của bộ máy nhà nước; đề ra phương hướng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nắm công tác cán bộ của nhà nước. Trên cơ sở đó, Đảng xây dựng cương lĩnh chính trị, hoạch định đường lối phát triển đất nước theo đúng mục tiêu của Đảng. Thông qua Nhà nước, Đảng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật; lãnh đạo Nhà nước thực hiện đường lối phát triển đất nước của Đảng.

Xây dựng thể chế chính trị và gắn liền với đó là thiết chế chính trị bảo đảm tính khoa học và tính hợp lý (phù hợp với các đặc điểm quốc gia, dân tộc) là yêu cầu và điều kiện tiên quyết để Đảng cầm quyền - sử dụng và thực thi quyền lực hiệu lực và hiệu quả. Phương thức cầm quyền thành công của Đảng còn là xác định đúng các mục tiêu chính trị và lãnh đạo các thành viên của hệ thống chính trị làm tốt các nhiệm vụ của mình trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng,...

3) Phương thức lãnh đạo của Đảng:

- Bằng quyền lực của mình, Đảng chi phối, tác động, chỉ đạo các thành viên trong hệ thống chính trị, quan trọng nhất là Nhà nước và bằng Nhà nước, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng

- Đảng lãnh đạo thông qua cương lĩnh, chiến lược, chỉ thị, các nghị quyết của Đảng đối với các tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội,...

- Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng để cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưa chúng vào thực tiễn.

- Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới địa phương, các bộ, ban, ngành trong hệ thống chính trị.

- Đảng đào tạo đảng viên có đủ phẩm chất, tài năng, có năng lực tuyên truyền, vận động quần chúng, giới thiệu người vào các cơ quan quyền lực dân cử (QH, HĐND các cấp) và giữ những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước.

- Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra của các tổ chức đảng với nội dung chủ yếu là kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành nghị quyết của đảng.

- Đảng lãnh đạo bằng tính tiên phong, gương mẫu, từ tư tưởng, hành động đến đạo đức, lối sống, nhân cách “công bộc của dân”.

- Lãnh đạo theo tinh thần “dân là gốc”, dựa vào dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh nhân dân đúng tinh thần của dân, do dân, vì dân, hiệu quả, thu phục và cuốn hút quần chúng làm theo đảng.

- Lãnh đạo một cách dân chủ, trí tuệ, khoa học, nghệ thuật, văn minh..., đó là phương thức lãnh đạo nhạy bén, khéo léo, linh hoạt. Phương thức lãnh đạo này càng cần thiết đối với một đảng duy nhất cầm quyền./.

GS, TS. Nguyễn Văn Huyên

Nguyên Viện trưởng Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.




[1] V.I. Lênin toàn tập, t.43, Nxb. Tiến bộ, M.1978, tr156.

Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản ly, nhân dân làm chủ (phần 1)

Ngày phát hành: 24/07/2019 Lượt xem 1921


I. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

1. Những nhận thức đã rõ

Đại hội IV của Đảng ta (1976) đã đề cập đến mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Bước sang thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ này được xem là một trong những mối quan hệ lớn, được nhận thức sâu sắc hơn và rõ hơn trong điều kiện mới.

1.1. Trước hết, nhận thức sâu sắc hơn và đây đủ hơn về nhân dân làm chủ trong mối quan hệ với Đảng và Nhà nước. Nhân dân làm chủ được xác định là mục tiêu cao nhất trong mối quan hệ. Cả ba chủ thể Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải phấn đấu vì mục tiêu nhân dân làm chủ. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đều vì mục đích đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính vì thế nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” có bước nhận thức mới, đầy đủ hơn so với trước đây. Chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước là nhân dân. Quyền lực của Đảng cũng như quyền lực nhà nước đều bắt nguồn, ra đời, tồn tại và phát triển từ quyền lực của nhân dân. Với nhận thức đó, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta – Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhân dân Việt nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này” (lời mở đẩu). Quyền lập hiến thuộc về nhân dân mà không phải như nhận thức trước đây duy nhất thuộc về Quốc hội. Bằng quyền lập hiến của mình, mà Nhân dân giao quyền, Nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Vì thế, đề cao nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một đòi hỏi tất yếu. Nhân dân trước đây chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thì ngày nay không những thông qua các cơ quan đại diện do mình bầu ra và các cơ quan nhà nước khác mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ được Đảng ta đề cao và được xem là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và quản lý của nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đúng như Cương lĩnh của Đảng đã chỉ rõ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được khẳng định vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của công cuộc đổi mới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mối quan hệ này.

1.2. Nhà nước quản lý trong mối quan hệ với Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Việc khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phản ánh quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, đầy đủ, sâu sắc và cụ thể hơn về những tư tưởng của Nhà nước kiểu mới được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và xây dựng trong giai đoạn trước đây và những giá trị tiến bộ, phù hợp có thể kế thừa và phát triển về nhà nước pháp quyền của nhân loại ngày nay. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng theo những đặc trưng cơ bản sau đây:

Trước hết, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực Nhà nước về nhân dân.

Hai là, quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xét về bản chất là thống nhất, nhưng về kỹ thuật và tổ chức hoạt động của nó có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và các đạo luật. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí và hiệu lực tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật, chủ yếu là các đạo luật là kết quả của sự thể chế đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tính pháp quyền được đề cao trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Bốn là, bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân và không ngừng hoàn thiện cơ chế pháp lý thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước tôn trọng và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, có thiện chí các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc thừa nhận.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan, không những trước đây mà cả trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã lựa chọn, một mặt Đảng phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mặt khác đòi hỏi Nhà nước phải có năng lực để thực hiện các chức năng, thẩm quyền được nhân dân và xã hội giao phó.

1.3. Nhận thức rõ hơn và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ

- Đảng giữ vị trí, vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên, bằng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ … Thước đo hiệu quả lãnh đạo của Đảng thể hiện ở kết quả phát huy vai trò của Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nhiều hay ít.

- Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước chỉ mạnh khi phát huy được đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

- Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước và bằng các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình và bằng các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân được Hiến pháp và luật quy định; có trách nhiệm xây dựng Đảng và Nhà nước ngày càng vững mạnh.

2. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau và nguyên nhân

2.1. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau

Một là, chưa có sự nhận thức thống nhất và rõ ràng giữa 2 thuật ngữ Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Hiến pháp năm 2013 viết Đảng cộng sản Việt Nam là … lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4). Như vậy, cầm quyền và lãnh đạo giống và khác nhau như thế nào? Khi nào thì gọi Đảng ta là Đảng cầm quyền và khi nào thì gọi là Đảng lãnh đạo. Về vấn đề này một số người cho rằng, ở nước ta Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo là một, chỉ khác nhau cách nói, cách dùng thuật ngữ. Người khác lại cho rằng, Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo có sự khác nhau. Đảng cầm quyền là Đảng phải hóa thân vào Nhà nước để vừa cầm quyền, vừa lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo là để chỉ khi Đảng chưa giành được chính quyền.

Ở các nước dân chủ và pháp quyền tư sản không có thuật ngữ Đảng lãnh đạo mà chỉ có Đảng cầm quyền là Đảng thắng cử sau các cuộc tổng tuyển cử hoặc là liên minh với một số Đảng để có đa số trong Nghị viện để thành lập Chính phủ được gọi là Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là Đảng đã “hóa thân” vào bộ máy nhà nước. Tùy theo hình thức chính thể cộng hòa hay đại nghị mà người đứng đầu Đảng thắng cử sau tổng tuyển cử trở thành Tổng thống hay Thủ tướng, còn những nhân vật chủ chốt của Đảng cầm quyền giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Đảng thắng cử với Nhà nước hòa vào nhau làm một. Nhà nước thực thi đường lối thể hiện trong Cương lĩnh tranh cử của Đảng cầm quyền.

Ở nước ta, chỉ có một Đảng, có nên đồng nhất Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền là một hay không là câu hỏi chưa có câu trả lời rõ ràng. Đảng vẫn có bộ máy tổ chức riêng để thực thi vai trò lãnh đạo. Đã có một thời các Ban của Đảng giảm thiểu hoà nhập vào Nhà nước; nhưng sau đó lại tái thành lập để thực thi vai trò lãnh đạo như Ban Nội chính, Ban Kinh tế. Lãnh đạo nhà nước và xã hội thì Đảng coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo. Còn cầm quyền có phương thức cầm quyền không? và đó là phương thức gì? Vì còn lúng túng trong nhận thức, chưa phân biệt rõ ràng vị trí, vai trò lãnh đạo với vị trí, vai trò cầm quyền nên không có sự nhất quán trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, Đảng vừa lãnh đạo (có tổ chức bộ máy riêng để thực hiện vai trò lãnh đạo), lại vừa cầm quyền (nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng nắm giữ các cương vị chủ chốt của bộ máy nhà nước) nên không tránh khỏi giữa Đảng và Nhà nước có sự trùng lắp trong công việc, dựa dẫm, ỷ lại nhau.

Hai là, chưa có nhận thức đầy đủ và phân biệt rõ ràng giữa lãnh đạo và quản lý. Ranh giới giữa hai tư cách Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý không phải lúc nào cũng rõ ràng. Vì vậy, trong thực tiễn còn có sự lẫn lộn giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Mặc dù Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra các phương thức lãnh đạo của Đảng, khác với phương thức quản lý nhà nước, nhưng trong thực tế không phải lúc nào cũng trả lời được một cách minh bạch. Bởi lãnh đạo hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả quản lý; quản lý theo nghĩa rộng bao gồm cả lãnh đạo. Vì thế, tiếp tục phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý trong lãnh đạo của Đảng và trong quản lý của nhà nước là một nhu cầu của thực tiễn hiện nay về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để phòng chống sự bao biện, làm thay hay ỷ lại.

Ba là, nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” được ghi nhận trong Cương lĩnh và trong Hiến pháp năm 2013, nhìn chung chưa được nhận thức sâu sắc, đầy đủ và còn có sự khác nhau và lúng túng trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong hoạt động lập pháp:

+ Thứ nhất, vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất được hiểu như thế nào? Quyền lực nhà nước thống nhất ở đâu? Ý nghĩa của quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như thế nào? Về những vấn đề này đang có những quan niệm khác nhau. Một số người cho rằng, ở nước ta do đặc thù của một Đảng cầm quyền, nên quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể ở Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, Ban Bí thư. Và vì quan niệm như vậy, nên khi có các ý kiến khác nhau trong tổ chức và hoạt động quyền lực nhà nước phải chờ đợi, dựa dẫm, ỷ lại xin ý kiến của cấp ủy. Ngược lại, cũng có người cho rằng quyền lực nhà nước là tập trung và thống nhất ở Quốc hội. Bới Quốc hội được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội là thiết chế có toàn quyền, là cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Đây thực chất là quan điểm theo nguyên tắc tập quyền vốn đã tồn tại trong tổ chức quyền lực nhà nước trong nhiều năm ở nước ta. Cũng có một số người khác lại tuyệt đối hóa sự thống nhất của quyền lực nhà nước, “lo sợ quyền lực nhà nước không thống nhất, sợ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mất đoàn kết”. Quan điểm này nhấn mạnh yếu tố phối hợp giữa các cơ quan, coi nhẹ phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây chính là quan điểm dẫn đến hạ thấp vai trò kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và hạ thấp vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân.

Ngày nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, theo chúng tôi, quan niệm đúng đắn hơn cả là quyền lực nhà nước là thống nhất ở nhân dân thể hiện tập trung ở bản Hiến pháp - phương tiện để nhân dân trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp mà không phải nhân dân trao hết thảy quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, rồi đến lượt mình Quốc hội lại trao quyền hành pháp cho Chính phủ, trao quyền tư pháp cho Tòa án nhân dân như quan điểm của các bản Hiến pháp thời kỳ trước đây (trừ Hiến pháp 1946). Quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm 2011) và với Hiến pháp năm 2013: Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ đại diện mà còn cả bằng các quyền dân chủ trực tiếp, trong đó trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất. Có quan niệm như vậy thì nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mới được đảm bảo thực hiện đầy đủ, không hình thức. Quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Không có quyền lực nhà nước nào cao hơn quyền nào, đứng trên quyền nào. Do vậy, quyền lực nhà nước thống nhất ở mục tiêu chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thể hiện tập trung trong Hiến pháp. Vì thế, Đảng và Nhà nước phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, tôn trọng và đề cao Hiến pháp. Cả Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp – phương tiện chính trị - pháp lý để thống nhất quyền lực nhà nước.

+ Thứ hai, về yếu tố phối hợp trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp…” cũng còn nhận thức không thống nhất. Có người cho rằng phối hợp là phương thức, cách thức, lề lối làm việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, các cơ quan nhà nước làm đúng, làm đủ các nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp và pháp luật quy định là phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Phối hợp không có nghĩa là làm thay công việc của cơ quan khác. Vì thế, phối hợp không phải là yếu tố quyết định trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, phối hợp có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định chất lượng của việc thực hiện các quyền. Ví dụ như, phối hợp giữa hành pháp và lập pháp trong xây dựng luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo quan niệm này. Quy trình thông qua luật chia làm 2 bước: bước đầu tiên, cơ quan soạn thảo (thường là Chính phủ) trình, Quốc hội cho ý kiến; sau bước đầu đó, toàn bộ dự thảo Luật là sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra (các Uỷ ban của Quốc hội) hoàn thiện dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua. Thực tiễn này chỉ ra rằng, dự án Luật được Quốc hội thông qua, nếu chất lượng tốt thì không sao, nhưng chất lương không tốt thì trách nhiệm thuộc về ai? Không xác định được rõ ràng (ví dụ như Bộ luật hình sự hay Luật bảo hiểm xã hội). Theo chúng tôi, phối hợp trong lao động quyền lực nhà nước chỉ đặt ra khi các quyền thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà không thống nhất thì mới đặt ra phối hợp để tìm giải pháp “thỏa hiệp” đúng đắn nhất nhằm giải quyết vấn đề. Tuyệt đối phối hợp không phải là việc làm thay công việc của nhau để dẫn đến dựa dẫm, ỷ lại, không làm hết trách nhiệm của mình và không xác định được trách nhiệm thuộc về ai, nhằm hạ thấp việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước.

+ Thứ ba, yếu tố “kiểm soát” trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất …” cũng còn những nhận thức không thống nhất và đầy đủ. Một số người cho rằng, quyền lực nhà nước, nhất là quyền hành pháp đòi hỏi phải hoạt động năng động, kiến tạo mới góp phần làm giàu đất nước. Đề cao kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ hạn chế sự năng động, sáng tạo trong lao động quyền lực nhà nước. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước như con dao hai lưỡi, một mặt để phòng chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và mặt khác sẽ hạn chế sự năng động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, một số người lại quá nhấn mạnh vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước và cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là phương thức làm cho Nhà nước mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước chỉ mạnh khi quyền lực nhà nước được kiểm soát một cách chặt chẽ. Theo chúng tôi, kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp của tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.Tính phức tạp đó một mặt, do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để chống sự lạm dụng, nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và pháp quyền nào. Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước mà không làm mất đi tính mềm dẻo, cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước. Cái khó nhất để kiểm soát quyền lực nhà nước là phải thiết kế được một chính quyền nhà nước có khả năng kiểm soát được xã hội và sau nữa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng, đó là việc thiết kế được về mặt tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, sao cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất.

2.2. Những nguyên nhân về nhận thức chưa rõ hoặc có ý kiến khác nhau.

- Một là, vấn đề Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền cũng như vấn đề lãnh đạo và quản lý không phải là vấn đề mới mà đã được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều năm nay. Nhưng là vấn đề khó đối với nước ta, khi mà vẫn còn hai bộ máy song song tồn tài. Một bộ máy lãnh đạo và một bộ máy quản lý. Vì thế không tránh khỏi trùng lắp, lẫn lộn giữa lãnh đạo, cầm quyền và quản lý. Tình trạng dựa dẫm, ỷ lại và bao biện làm thay chức năng của nhau đã thường được phê phán trong các văn kiện của Đảng, nhưng khó mà khắc phục được một cách triệt để. Chừng nào mà lãnh đạo, cầm quyền và quản lý còn tách rời nhau thì các vấn đề trên chưa thể giải quyết một cách triệt để.

- Hai là, đối với nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và vấn đề có cần luật về Đảng hay không? những vấn đề mới khác về chất so với các quan niệm vốn đã tồn tại nhiều năm trong tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta, nên không thể nhận thức một cách đầy đủ ngay. Mặt khác, thói quen thần thành hóa và tuyệt đối hóa những tư duy lý luận của chủ nghĩa xã hội hiện thực và sức ỳ của nhận thức truyền thống về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, đã cản trở việc tiếp thu những nhân tố mới.

(Còn tiếp)

GS.TS Trần Ngọc Đường

PGS.TS Phạm Văn Chúc