So sánh mức sống indonesia và hồ chí minh năm 2024

Kinh tế Indonesia là một nền kinh tế thị trường nhưng lại có hơn 164 công ty sở hữu quốc doanh, hoạt động kinh doanh các mặt hàng cơ bản như dầu mỏ, gạo, và điện lực.

Tính riêng trong quý 4 năm 2018, nền kinh tế nước này tăng 5,18%, đưa tốc độ tăng trưởng cả năm 2018 đạt 5,17%.

Bất chấp những bất ổn trên các thị trường tài chính do tình trạng các dòng vốn "chảy" khỏi thị trường Indonesia, thâm hụt ngân sách năm 2018 của Indonesia ước vào khoảng 1,72% tổng sản phẩm quốc nội [GDP], thấp hơn mức dự tính ban đầu của chính phủ nước này là 2,19% GDP. Đây cũng là mức thâm hụt ngân sách trên GDP thấp nhất kể từ năm 2012.

Trong năm 2018, Indonesia lần đầu tiên kể từ năm 2011 đạt thặng dư ngân sách cơ bản 4.100 tỷ rupiah [khoảng 283,25 triệu USD].

Nhìn chung, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Indonesia vẫn ổn định và chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp. Đứng đầu vẫn là nhóm mặt hàng khoáng sản đạt 22,5 tỷ USD, chiếm 15,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Mặc dù được cho là mức tăng đáng khích lệ nhưng Indonesia cũng thừa nhận mức tăng trưởng của năm 2018 không đạt được mục tiêu kế hoạch phát triển trung hạn quốc gia. Trong kế hoạch ngân sách nhà nước Indonesia năm 2018, chính phủ đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho cả năm ở mức 5,4%.

Trong khi đó ở Việt Nam, từ 2002 đến 2018, hơn 45 triệu người đã thoát nghèo, tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% [3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá]. GDP đầu người tăng 2,5 lần, đạt trên 2.500 USD năm 2018.

Sau khi chạm đỉnh ở mốc 7,1% năm 2018, tăng trưởng GDP thực được dự báo giảm nhẹ trong năm 2019, do sức cầu bên ngoài giảm và do duy trì thắt chặt chính sách tín dụng và tài khóa. Tăng trưởng GDP thực được dự báo vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, xoay quanh mức 6,5% trong các năm 2020 và 2021.

Hiện tại, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu điện thoại và linh kiện, hàng dệt may, máy vi tính và sản phẩm điện tử, các mặt hàng nông thủy sản, giày dép, gỗ và sắt thép các loại…

Kết thúc một nữa chặng đường của năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt 243,48 tỷ USD, tăng 8,0% [tương ứng tăng 18,1 tỷ USD] so với cùng kỳ năm trước. Trong đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 122,53 tỷ USD, tăng 7,2% và nhập khẩu đạt 120,94 tỷ USD, tăng 8,9%.

Trong tháng 6/2019, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 1,93 tỷ USD. Kết quả này đã góp phần đưa mức thặng dư thương mại hàng hóa của cả nước trong nửa đầu năm 2019 đạt thặng dư 1,59 tỷ USD.

Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia

Việt Nam và Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 30/12/1955. Mối quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Indonesia được xây dựng trên nền tảng vững chắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Sukarno gây dựng, được các thế hệ lãnh đạo, nhân dân hai nước dày công vun đắp, xây dựng, phát triển.

Việt Nam và Indonesia có nhiều điểm tương đồng, cùng là thành viên ASEAN, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương [APEC] và nhiều tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế khác.

Với Việt Nam, Indonesia là đối tác quan trọng, giàu tiềm năng. Ngược lại, Indonesia đánh giá cao vai trò, vị thế của Việt Nam, là một trong những nước có ảnh hưởng lớn trong ASEAN. Hai nước đã ký nhiều hiệp định và thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực. Nhiều cơ chế hợp tác giữa hai bên đã được thiết lập như: Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác kinh tế; Ủy ban hợp tác song phương cấp Bộ trưởng Ngoại giao.

Những năm gần đây, trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Indonesia đã có những bước phát triển đáng khích lệ. Kim ngạch trao đổi hàng hóa hai chiều tăng từ 4,6 tỷ USD trong năm 2012 lên 5,6 tỷ USD trong năm 2016, đạt trên 6,5 tỷ USD trong năm 2017 và 7 tháng đầu năm 2018 đạt 4,7 tỷ USD.

Hai bên phấn đấu đạt mốc 10 tỷ USD vào năm 2020. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Indonesia chủ yếu gồm: gạo, dầu thô, xi măng, linh kiện điện tử, hàng nông sản. Việt Nam nhập khẩu từ Indonesia các mặt hàng phân bón, xăng dầu, bao bì, thiết bị máy móc, vải sợi, giấy và bánh kẹo.

Về đầu tư, tháng 6/1989, hai nước chính thức mở đường hàng không Việt Nam – Indonesia. Nhiều tập đoàn lớn của Indonesia đã vào Việt Nam để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Tính đến tháng 6/2018, Indonesia tiếp tục đứng thứ 5 trong ASEAN và thứ 30/126 quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 71 dự án trị giá 514 triệu USD, tập trung vào các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, khai thác than, ngân hàng, khách sạn, chế biến xuất khẩu gỗ, sản xuất sợi và may mặc.

Một số dự án đầu tư lớn gồm: Khu đô thị Nam Thăng Long - Ciputra [2,1 tỷ USD], Liên doanh khách sạn Horizon - Pullman Hà Nội [66 triệu USD]. Hiện Việt Nam có 13 dự án đầu tư sang Indonesia với số vốn 54,7 triệu USD trong các lĩnh vực dầu khí và khai khoáng.

Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 41 thế giới về quy mô GDP và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh CEBR dự báo năm 2022 sẽ tăng 5 bậc lên vị trí thứ 36. Đến năm 2026, dự báo Việt Nam sẽ lọt top 30 nền kinh tế lớn nhất, năm 2031 sẽ đứng thứ 24 và năm 2036 vươn lên đứng thứ 20.

Theo dự báo của IMF, đến năm 2025, Việt Nam sẽ vươn lên đứng thứ 3 Đông Nam Á về quy mô kinh tế với GDP 571,12 tỷ USD. Xếp sau Indonesia [1630 tỷ USD] và Thái Lan [632,45 tỷ USD] và vượt qua Malaysia [556 tỷ USD], Philippines [523,53 tỷ USD], Singapore [496,81 tỷ USD].

Về GDP bình quân đầu người danh nghĩa, theo IMF, Việt Nam trong năm 2021 đứng thứ 6 trong khu vực và thứ 124 trên thế giới, đạt khoảng 3.743 USD.

Theo dự báo của IMF, đến năm 2026, Việt Nam sẽ vươn lên đứng thứ 4 trong nhóm ASEAN-6 về GDP bình quân đầu người, đạt 6.140 USD/người. Xếp sau Singapore [97.316 USD/người], Malaysia [17.121 USD/người], Thái Lan [9.480 USD/người] và vượt qua Indonesia [6.125 USD/người], Philippines [4.801 USD/người].

Vậy GDP bình quân đầu người theo ngang giá sức mua thì sao?

Theo dữ liệu cập nhật nhất của World Bank về GDP bình quân đầu người theo ngang giá sức mua của các quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam đứng thứ 121 thế giới về GDP bình quân trong tổng số 190 có dữ liệu vào năm 2020.

Xét trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 6 về GDP bình quân đầu người theo ngang giá sức mua, đạt 8.650 USD/người/năm. Xếp sau Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và xếp trên Philippines, Lào, Myanmar, Campuchia và Timor-Leste.

Thứ tự này không có sự thay đổi so với GDP danh nghĩa bình quân đầu người. Tuy nhiên, nếu như chênh lệch giữa GDP bình quân danh nghĩa của Singapore và Việt Nam là 17,7 lần, thì theo PPP giảm xuống chỉ còn 11,4 lần. Con số này với Brunei cũng giảm từ 9,1 lần xuống còn 7,6 lần. Với Malaysia lại tăng từ 2,97 lên 3,2 lần. Với Thái Lan gần như không thay đổi [2,08 và 2,1]. Với Indonesia tăng từ 1,1 lên 1,4.

GDP đầu người theo sức mua tương đương - GDP [PPP] per capita - là một công cụ kinh tế dùng để so sánh năng suất kinh tế và mức sống của người dân ở một quốc gia. Trong đó sức mua tương đương [PPP] là một lý thuyết kinh tế so sánh tiền tệ của các nước thông qua cách cho họ cùng tiếp cận "1 rổ hàng hóa". Khi được áp dụng cho các phép đo GDP, PPP có thể giúp cung cấp một bức tranh đa chiều hơn về năng suất thực tế.

GDP theo sức mua [PPP] liên quan đến việc tính tỷ giá hối đoái giữa đơn vị tiền tệ của hai nước. Cùng một lượng hàng hóa của một loại hàng hoá, khi bán ở hai nước khác nhau bằng đơn vị tiền tệ của hai nước đó thì số tiền phải bỏ ra ra sao, rồi từ đó so sánh sức mua của hai đơn vị tiền tệ.

GDP PPP là rất quan trọng khi tính toán về tiêu chuẩn sống tại một quốc gia. Ví dụ, 1 USD ở Ấn Độ có thể mua được số hàng hóa tương đương 4 USD ở Nhật Bản. Hay cùng với thu nhập 1.000 USD/tháng, một người có thể sẽ không đủ chi tiêu khi sống ở các nước có mức giá hàng hóa cao như Nhật Bản, nhưng nếu ở Ấn Độ thì họ lại được coi là dư dả.

Chủ Đề