Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Kim Lân

Mời các em cùng xem thêm video bài giảng hướng dẫn tìm hiểu hình tượng nhân vật Người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân của cô Phan Thị Mỹ Huệ. Bài giảng nhằm củng cố lại cơ sở lý luận, giúp các em có thêm nền tảng để viết bài văn nghị luận văn học nêu cảm nhận về nhân vật được chính xác và hấp dẫn hơn. HOC247 hy vọng các em sẽ có thêm nhiều tiết học thật hấp dẫn và  hiệu quả hơn nữa cùng cô Huệ. Chúc các em học tốt!

Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Kim Lân

B. Dàn ý chi tiết

a. Mở bài

  • Giới thiệu: truyện ngắn Vợ Nhặt và tác giả Kim Lân
  • Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích: nhân vật Người vợ nhặt

b. Thân bài

  • Khái quát chung
    • Xuất xứ: “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, viết năm 1955 được in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” (1962). Truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư“, tác phẩm viết sau CMT8 nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954) tác giả dựa vào cốt truyện cũ đặt tên là Vợ nhặt.
    • Tóm tắt: Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, kể về nhân vật chính có tên là Tràng, một chàng trai xấu xí nghèo khổ, làm nghề đẩy xe thóc thuê. Giữa lúc nạn đói tràn đến xóm ngụ cư của hắn, Tràng đưa vợ về nhà, người vợ hắn “nhặt” được sau vài ba bận nói đùa và bốn bát bánh đúc. Bà cụ Tứ , người mẹ giàu tình thương người, xót cho cảnh ngộ người đàn bà, vừa mừng vừa tủi, bà chấp nhận nàng dâu mới. Cái liều lĩnh của Tràng đã biến thành hạnh phúc, những con người nghèo khổ ấy cùng nương tựa vào nhau và cùng hi vọng vào tương lai. Tác phẩm kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ, niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
  • Cảm nhận
    • Ngoại hình: gầy ốm, xơ xác, tiều tụy.
    • Thân phận: cô gái lang thang, nhặt thóc vãi, không tên tuổi, không gia đình, không quê quán.
    • Ấn tượng ban đầu về thị: chao chát, chỏng lỏn, không biết xấu hổ là gì. Chỉ với vài lần gặp, một bữa bánh đúc, vài câu nói bông mà đã theo không người ta về làm vợ -> cái đói đã làm cho thị trở nên trơ trẽn.
    • Hành động: chịu lấy Tràng -> ý thức bám lấy sự sống.
    • Diễn biến tâm lí, hành động khi về nhà Tràng
      • Trên đường về nhà cùng Tràng: ngượng ngùng, lo âu, hồi hộp.
      • Khi gặp mẹ Tràng: khép nép, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường” và tâm trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp.
      • Buổi sáng hôm sau: dậy sớm, quét dọn -> người vợ hiền dâu thảo.
      • Trong bữa cơm ngày đói: tạo niềm tin cho cả nhà khi kể câu chuyện người ta phá thóc kho Nhật cứu đói.

=> Niềm khao khát hạnh phúc gia đình

  • Nhận xét:
    • Người phụ nữ không tên tuổi,  không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Đây là một thành công lớn của nhà văn.
    • Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy, cũng không hề hào nhoáng nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng nhân vật thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho  cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….

c. Kết bài

  • Nêu cảm nhận, đánh giá, nhìn nhận chung về nhân vật
  • Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân

Bài văn mẫu

​Đề bài :Cảm nhận về nhân vật Người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân

Gợi ý làm bài​

Bài văn mẫu 1

Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945 , tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác phẩm làm toát lên tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật “người vợ nhặt”

Trong cảnh đói nghèo người chết như ngả rạ, người ta chỉ nghĩ tới cái sống của bản thân mình còn lo lắng chứ chưa nói tới lo cho những người xing quanh. Trong tác phẩm,Tràng xấu, xấu là xấu trai, nhưng được cái tốt bụng và dễ gần. Xóm làng nghĩ Tràng không thể có vợ, vì với cái thời đói đến ăn cám hay ánh sáng vào đêm là thứ xa xỉ vậy người vừa nghèo vừa xấu thì ai dám gởi thân?

—Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến—

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Thị thay đổi hẳn từ vẻ ngoài cho đến cách cư xử, ăn nói, hành động: “Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.

Qua đây, nhà văn muốn khẳng định con người thay đổi do hoàn cảnh, hoàn cảnh làm thay đổi tính cách con người như lời nhà văn Nam Cao đã từng nói trong truyện ngắn :”Sao lại thế này “. Giữa một người đàn bà tốt và một người đàn bà xấu khoảng cách chỉ bằng sợi tóc. Ở đây Thị vì đói, vì khao khát được sống  mà trở nên đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn, khi có điểm tựa, có mái ấm gia đình , Thị trở về đúng  với bản chất tốt đẹp vốn có của Thị. Sự thay đổi ở Thị, đồng thời thể hiện tấm lòng cảm thông của nhà văn đối với nhân vật. Đây là tư tưởng nhân đạo cao cả.

Học 247 hi vọng, tài liệu trên đã giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Chúc các em có thêm tài liệu hay và thú vị.

–MOD Ngữ văn HOC247 (tổng hợp và biên soạn)

Dưới đây là tài liệu mẫu phân tích nhân vật người vợ nhặt trong chương trình Ngữ văn 12. Các bạn có thể tham khảo để vận dụng vào bài làm văn của mình một cách sáng tạo và khoa học. Để có thể đạt điểm cao và ấn tượng nhất nhé!

Mở bài

Trước khi phân tích nhân vật người vợ nhặt, chúng ta cùng giới thiệu khái quát qua về nhà văn Kim Lân. Tác giả sinh năm 1920 và mất năm 2007. Ông tên thật là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ra Phù Lưu, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Thủa thiếu thời, gia đình ông rất khó khăn nên ông chỉ được đi học hết Tiểu học rồi đi làm mưu sinh.

Từ năm 1941, nhà văn Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn. Những tác phẩm đầu tiên được đăng trên các báo như Trung Bắc Chủ nhật và Tiểu Thuyết thứ Bảy. Trước Cách mạng tháng 8, những sáng tác của ông xoay quanh cuộc sống ở miền nông thôn Việt Nam, cùng cuộc sống lam lũ của họ thời kỳ đó. Đặc biệt, những tác phẩm gắn bó với tên tuổi của ông như “Làng”, “Vợ nhặt”.

Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn Kim Lân tiếp tục viết văn và làm báo. Lúc này, ông vẫn viết về truyện ngắn về chủ đề làng quê Việt Nam, một thế mạnh của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn được biết đến lúc này như “Nên vợ nên chồng” (1955) hay tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” (1962).

Đặc biệt, ngoài sáng tác truyện ngắn, tác giả Kim Lân còn tham gia đóng kịch và đóng phim. Khán giả nhớ đến ông qua một số vai diễn ấn tượng như lão Hạc trong phim “Làng Vũ Đại ngày ấy”, cụ lang Tâm trong phim “Hà Nội 12 ngày đêm”, Lý Cựu trong phim “Chị Dậu”…

Tác phẩm Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn thể hiện phong cách sáng tác độc đáo của tác giả Kim Lân. Nội dung câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt. Trong đó, hình tượng người vợ nhặt chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng lại đóng vai trò khá quan trọng để làm nên thành công của tác phẩm này.

Phần chi tiết thân bài

Luận điểm 1: Lai lịch của người vợ nhặt

Qua giới thiệu của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy người vợ nhặt xuất hiện trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là vào nạn đói năm 1945. Lịch sử ghi lại thì đây là nạn đói lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, khiến hơn 2 triệu người dân bị chế. Bởi thế, lai lịch người vợ nhặt không rõ ràng. Không có gia đình, cũng chẳng có quê hương. Tình cảnh của người phụ nữ này cũng giống như những người dân khác thời đó, phải đi tha phương cầu thực. Người ta chỉ biết “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Không ai biết thị ta từ đâu tới, và đến tận cả tên cũng không có nốt. Người ta chỉ tạm gọi cho người phụ nữ đấy là “vợ nhặt”. Qua cách gọi này có thể thấy, số phận bèo bọt, rẻ rúng của con người trong cảnh nghèo đói. Thường muốn có vợ, chàng trải phải thông qua rất nhiều thủ tục cưới xin, phải mất rất nhiều tiền của. Thế nhưng đây chỉ, nhân vật Tràng chỉ cần ra đường “nhặt” về là đã có ngay một người vợ bằng xương bằng thịt.

Luận điểm 2: Phân tích chân dung người vợ nhặt

Phân tích nhân vật người vợ nhặt, độc giả có thể thấy tác giả Kim Lân miêu tả ngoại hình của người vợ thật rách rưới và nghèo khổ đến cùng cực, đến không thể nghèo được hơn nữa: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.

Hình ảnh người vợ nhặt hiện ra thật hồn nhiên trong lần thứ nhất khi nghe câu hò vui của Tràng. Lúc đó, thị chẳng nghĩ ngợi gì liền lon ton, vui vẻ chạy ra giúp Tràng đẩy xe bò, rồi lại liếc mắt, cười tít với Tràng. Đó chính là sự vô tư, hồn nhiên vốn có của những người lao động nghèo.

Đến lần thứ hai, thị hiện ra với những nét vẽ rõ rệt hơn. Đó là khi được Tràng mời ăn trâu để trả ơn, thị liền sưng sỉa, thẳng thừng mắng Tràng. Thị muốn có được thứ giá trị hơn. Thế nên khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị không ngần ngại mà ngay lập tực mắt sáng lên, ngồi sà xuống “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Thông thường, người phụ nữ sẽ nhã nhặn, từ tốn trong ăn uống. Nhưng dường như lúc này cái đói đã che mờ mắt của thị, khiến thị chẳng thiết tha gì việc giữ gìn ý tứ. Thị cứ ăn thỏa mãn cái dạ dày của mình cái đã.

Nhất là khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, thì người vợ nhặt đã vội vàng theo về thật mà không ngần ngại. Điều này càng nhấn mạnh đến cái đói cái khổ đến cùng cực của người dân lúc bấy giờ. Vì hoàn cảnh không thể làm khác được nên thị đành theo Tràng về như một cơ hội để bám víu lấy sự sống dù mong manh. Quả thực, qua lai lịch, qua chân dung của người vợ nhặt, độc giả thấy rõ hơn cái đói nghèo khổ cực không chỉ làm biến dạng về ngoại hình của con người, mà còn cả nhân cách. Mặc dù thấy chua xót với cách hành xử hơi thô tục, hơi mất giá của người vợ nhặt nhưng đọc giả vẫn rất cảm thông sâu sắc với thị bởi hoàn cảnh đã cùng quẫn đã xô đẩy. “Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.

Luận điểm 3: Phẩm chất của người vợ nhặt

Phân tích nhân vật người vợ nhặt, độc giả thấy thị là một phụ nữ có khát vọng sống mãnh liệt. Qua việc quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết Tràng là ai, hoàn cảnh ra sao. Thị chấp nhận làm vợ mà không cần phải có lễ vật, hay một cuộc đưa rước. Bởi thị hy vọng rằng, việc được làm vợ ai đó lúc này có nghĩa là thị không bị đói, không phải sống cảnh lang thang nay đây mai đó, đầu đường xó chợ. Khi về tớ nhà Tràng, thấy được hoàn cảnh nghèo khổ của Tràng, mặc dù thị phải “nén tiếng thở dài”, dấu sự thất vọng nhưng thị vẫn cố gắng chịu đựng để có cơ hội sống sót.

Qua miêu tả của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy thị dù là một người phụ nữ thô vụng, rách rưới nhưng lại hết sức nết na và ý tứ. Trên đường về nhà Tràng, thị cũng e thẹn, rón rén, che nón, đầu hơi cúi xuống đi theo sau Tràng. Lúc này, thị cũng cảm thấy ngại ngùng, tủi hổ cho thân phận vợ nhặt của mình. “Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.

Lúc vừa về đến nhà, mặc dù Tràng đon đả mời thị ngồi nhưng người vợ nhặt giữ phép tắc, ý tứ, chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Thị không suồng sã, vồ vập như lúc ở chợ, mà hai tay ôm khư khư cái thúng, bộc lộ hiểu biết rằng mình vẫn chưa được chính thức là gì trong cái gia đình ấy. Rồi khi gặp mẹ chồng, là mẹ Tràng thì thị không chỉ lí nhí cúi đầu chào hỏi mà còn thể hiện sự ngượng ngịu, lúng túng. “ Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. “Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. “ Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì”.

Đặc biệt, vẻ đẹp trong nhân phẩm của người vợ nhặt được khắc họa rõ nét vào sáng hôm sau. Khi thị dậy sớm, dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Thị không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà thực sự đã trở thành một người vợ đảm đang, hiền hậu, đúng mực, biết sống có trước có sau, sống có trách nhiệm với gia đình. “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch…. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”.

Không những thế, lúc ăn cháo cám, mới nhìn vào bát cháo lỏng bỏng nước, “mắt Thị tối lại”. Nhưng rồi thị điềm nhiên, không ngần ngại cho vào miệng. Điều này cho thấy, thị rất biết điều. Thị hiểu nếu mình bộc lộ sự khó chịu, mẹ chồng sẽ buồn. Vì thế, rất đắng và chát trong miệng nhưng thị vẫn ăn một cách ngon lành, để làm cho không khí gia đình vui vẻ, không khó chịu, buồn khổ.

Không những thế, thị còn là một con người có khát vọng sống và có niềm tin vào tương lai. Thị hồ hởi kể chuyện Việt Minh đi phá kho thóc trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang để giúp người dân. Điều này dường như đã thắp lên ngọn lửa hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

Qua đây, tác giả Kim Lân dường như muốn gửi gắm thông điệp rằng, cái đói, cái nghèo có thể lấy đi phẩm giá của con người trong một phút giây nào đó nhưng mãi mãi không thể cướp đi tâm hồn tử tế của con người.

Phần kết bài 

Ở phần kết bài phân tích nhân vật người vợ nhặt, chúng ta lần nữa khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật. Có thể thấy, thông qua nhân vật người vợ nhặt, tác giả đã gửi gắm những thông điệp về giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Người đọc không chỉ cảm thông cho số phận thương tâm, rẻ mạt của người lao động trong nạn đói, thấy được khát vọng sống của họ mà còn lên án và tố cáo sự tàn bạo khốc liệt của chế độ phát xít, thực dân. Với tình huống truyện độc đáo cùng cách xây dựng hình tượng nhân vật ấn tượng, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sự thanh công vang dội của tác phẩm một cách tự nhiên và giản dị.