Nghĩa vụ dân quân tự vệ là gì

[Bqp.vn] - Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là một thành phần của Lực lượng Vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý điều hành của Chính phủ và của uỷ ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương, có trách nhiệm bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước ở cấp xã, cơ quan, tổ chức.


Đội Du kích Bắc Sơn [Lạng Sơn] - một trong những đơn vị tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940.

Trong thời bình, dân quân tự vệ là lực lượng nòng cốt có nhiệm vụ vừa lao động sản xuất, vừa đóng vai trò xung kích trong bảo vệ sản xuất, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và các sự cố nghiêm trọng khác, đồng thời phối hợp với lực lượng an ninh cơ sở giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở; tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện góp phần xây dựng khu vực phòng thủ địa phương ngày càng vững chắc. Ở biên giới, biển, đảo, dân quân tự vệ phối hợp với Bộ đội Biên phòng giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh biên giới của Tổ quốc.

Trong thời chiến, dân quân tự vệ là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, phối hợp với các lực lượng khác bảo vệ địa phương, đơn vị theo kế hoạch tác chiến của khu vực phòng thủ. Dân quân tự vệ có trách nhiệm thực hiện phòng thủ dân sự trong thời bình và thời chiến theo qui định của pháp luật.

Ngày thành lập Dân quân tự vệ Việt Nam

Ngày 28 tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất ra “Nghị quyết về đội tự vệ” được coi là ngày thành lập Dân quân tự vệ Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của dân quân tự vệ đã gắn liền với sự nghiệp giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ năm 1935 đến năm 1945, các đội tự vệ ở cả nông thôn và thành thị ra đời, làm nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh du kích, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa. Tháng 8 năm 1945, lực lượng dân quân tự vệ đã cùng toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa giành độc lập. Sau ngày 02 tháng 9 năm 1945, dân quân tự vệ trở thành lực lượng vũ trang của Nhà nước Việt Nam độc lập, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân, được tổ chức rộng khắp ở các làng xã, đường phố trong cả nước, thực sự là công cụ bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng. Ngày nay, lực lượng dân quân tự vệ được phát triển cả về chất lượng, số lượng, biên chế trang bị. Tổ chức, biên chế tinh gọn hơn nhưng chất lượng tổng hợp của dân quân tự vệ được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ mới.

Phần thưởng cao quý

Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ đã hết lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, chiến đấu kiên cường, mưu trí, dũng cảm; lao động, học tập, công tác hiệu quả, sáng tạo và đã lập nhiều chiến công to lớn; có 366 tập thể và 275 cá nhân thuộc lực lượng dân quân tự vệ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Dân quân tự vệ Việt Nam xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ địch hung bạo thế nào hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”.

Trả lời: Vấn đề bạn hỏi, Báo Quân đội nhân dân Điện tửtrả lời như sau: Điều 5 Luật Dân quân tự vệ [sửa đổi] năm 2019 quy định nhiệm vụ của Dân quân tự vệ, như sau:

1. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ sở, cơ quan, tổ chức.

2. Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng khác trên địa bàn bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, hải đảo, vùng biển, vùng trời Việt Nam; tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật.

Nâng cao chất lượng huấn luyện của lực lượng dân quân xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ảnh: Huy Cường.

3. Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật, hội thi, hội thao, diễn tập.

4. Tham gia thực hiện các biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng theo quy định của pháp luật, quyết định của cấp có thẩm quyền.

5. Phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác theo quy định của pháp luật.

6. Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham gia xây dựng địa phương, cơ sở vững mạnh toàn diện, thực hiện chính sách xã hội.

7. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

BÁO QĐND ĐIỆN TỬ

Trả lời: Vấn đề bạn hỏi, Báo Quân đội nhân dân Điện tửtrả lời như sau:

Điều 8, Luật Dân quân tự vệ[sửa đổi] năm 2019 quy định về độ tuổi, thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ trong thời bình, như sau:

1. Công dân nam từ đủ 18 tuổi đến hết 45 tuổi, công dân nữ từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi có nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ; nếu tình nguyện tham gia Dân quân tự vệ thì có thể kéo dài đến hết 50 tuổi đối với nam, đến hết 45 tuổi đối với nữ.

Đại đội Tự vệ Pháo phòng không, Công ty cổ phần Dệt may Nha Trang huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Ảnh Thế Anh

2. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ tại chỗ, Dân quân tự vệ cơ động, Dân quân tự vệ biển, Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế là 4 năm; dân quân thường trực là 2 năm. Căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự của địa phương, cơ quan, tổ chức, thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ được kéo dài nhưng không quá 2 năm; đối với dân quân biển, tự vệ và chỉ huy đơn vị Dân quân tự vệ được kéo dài hơn nhưng không quá độ tuổi quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định kéo dài độ tuổi, thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ theo quy định tại Điều này.

BÁO QĐND ĐIỆN TỬ

Xem thêm thông tin: Dân quân

Đối với các định nghĩa khác, xem Dân quân [định hướng].

Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng [tức dân quân] không thoát ly sản xuất, công tác, là một bộ phận cấu thành của lực lượng vũ trang tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, sự quản lý điều hành của Chính phủ và của Ủy ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương có trách nhiệm bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước ở cấp xã, cơ quan, tổ chức.

Dân quân tự vệThành lậpQuốc giaPhục vụPhân loạiBộphậncủaLễ kỷ niệmTham chiếnTrậnchiến

Huy hiệu của DQTV Việt Nam

28tháng 3 năm 1935; 86 năm trước[1935-03-28]
Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam
Dân quân tự vệ [Việt Nam]
Quân đội Nhân dân Việt Nam
28 tháng 3 năm 1935
  • Chiến tranh Đông Dương
  • Chiến tranh Việt Nam
  • Chiến tranh biên giới Tây Nam
  • Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
  • Xung đột Việt–Trung 1979–1991
  • Trận Lạng Sơn [1979]
  • Trận Đồng Đăng [1979]
  • Trận Lào Cai [1979]
  • Trận Cao Bằng [1979]
  • Trận Vị Xuyên

Huy hiệu của Dân quân tự vệ Việt Nam [đôi khi còn gọi là "sao vuông"]

Theo Luật Dân quân tự vệ số 43/2009/QH12 ngày 23 tháng 11 năm 2009 của Quốc hội Việt Nam khóa XII, dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác. Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân; được tổ chức ở cơ quan, tổ chức gọi là tự vệ.

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Nghĩa vụ
  • 3 Nhiệm vụ
  • 4 Tổ chức
  • 5 Lãnh đạo
  • 6 Xem thêm
  • 7 Tham khảo

Lịch sửSửa đổi

Trong thời kỳ chuẩn bị lực lượng tiến tới Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành lập những đội “Tự vệ đỏ” trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh [1930 - 1931]. Sau đó đến Đội du kích Bắc Sơn, Cứu quốc quân, Du kích Ba Tơ, Quân du kích Nam Kỳ, các Đội du kích hoạt động trong các chiến khu trên khắp cả nước… Đây là lực lượng xung kích trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trong kháng chiến chống Pháp, lực lượng Dân quân tự vệ, du kích đã phát triển từ khoảng chục vạn người vào tháng 8/1945 tăng lên khoảng 1 triệu người đầu năm 1946, có quy mô rộng khắp cả nước[1] Đầu năm 1947, Dân quân tự vệ đã phát triển lên gần 3 triệu người, riêng Thủ đô Hà Nội có 6.000 đội viên. Ở chiến trường Nam Bộ, dân quân du kích phát triển trên 270.000 [nữ có 57.000]; trong đó, du kích chiến đấu là 14.000. Ở chiến trường Trung Bộ, đến cuối năm 1949 có 285.000 dân quân du kích, 22.000 bạch đầu quân. Ở Bắc Bộ, dân quân du kích phát triển lên hơn 279.000 người. Trong kháng chiến chống Pháp, dân quân tự vệ và bộ đội địa phương đã tiêu diệt 23,1 vạn/tổng số 50 vạn quân địch [chiếm tỉ lệ 46,4%], làm tan rã trên 20 vạn địch [chiếm tỷ lệ 35%] và kiềm chế, phân tán trên 90% tổng số lực lượng địch trên toàn chiến trường[2]

Trong kháng chiến chống Mỹ, Dân quân tự vệ ở miền Bắc phát triển nhanh chóng [chiếm 12% dân số miền Bắc trong giai đoạn 1965-1973][3] Dân quân tự vệ ở miền Bắc đã bắn rơi 424 trong tổng số 4.181 máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc [chiếm 10%], bắt sống nhiều phi công Mỹ, tiêu diệt hàng chục toán biệt kích, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch. Có 183 triệu lượt người được huy động tham gia phục vụ chiến đấu, phòng tránh sơ tán, khắc phục hậu quả bắn phá, chi viện cho chiến trường miền Nam.

Còn ở miền Nam, đến năm 1960, dân quân du kích miền Nam có khoảng 10.000 người. Đến năm 1966, Dân quân du kích trên toàn miền Nam là 301.354 người, trong đó có 152.037 người trực tiếp chiến đấu; năm 1967 đã tăng lên 302.638 người, có 154.159 người trực tiếp chiến đấu. Đến đầu năm 1975, Dân quân du kích tại miền Nam đạt tới 296.984 người, trong đó có 83.953 người trực tiếp tham gia chiến đấu[4] [số lượng giảm bớt so với năm 1967 do nhiều chiến sĩ chuyển biên chế sang các đơn vị bộ đội chủ lực để chuẩn bị cho các chiến dịch lớn]

Nghĩa vụSửa đổi

Công dân Việt Nam, nam từ đủ 18 tuổi đến hết 45 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi, chỉ trừ một số trường hợp đặc biệt, đều có nghĩa vụ tham gia huấn luyện dân quân tự vệ. Thời gian thực hiện nghĩa vụ dân quân tự vệ nói chung là 4 năm. Có thể xin thêm thời gian thực hiện nghĩa vụ, nam không quá 50 tuổi, nữ không quá 45 tuổi.

Nhiệm vụSửa đổi

Dân quân tự vệ có 7 nhiệm vụ:[5]

  • Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ sở; phối hợp với các đơn vị bộ đôi biên phòng, hải quân, cảnh sát biển và lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam.
  • Phối hợp với các đơn vị quân đội nhân dân, công an nhân dân và lực lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của nhà nước.
  • Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật, hội thi, hội thao, diễn tập.
  • Tham gia thực hiện các biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng theo quy định của pháp luật, quyết định của cấp có thẩm quyền.
  • Phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác theo quy định của pháp luật.
  • Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham gia xây dựng địa phương, cơ sở vững mạnh toàn diện, thực hiện chính sách xã hội.
  • Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Tổ chứcSửa đổi

  • Phân theo mức độ sử dụng, dân quân tự vệ chia làm:
    • Dân quân tự vệ nòng cốt: Dân quân tự vệ nòng cốt gồm những người đang thực hiện nghĩa vụ dân quân tự vệ.
    • Dân quân tự vệ rộng rãi: Dân quân tự vệ rộng rãi gồm những thành viên dân quân tự vệ nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ dân quân tự vệ và công dân trong độ tuổi quy định.
  • Phân theo mức độ cơ động, dân quân tự vệ nòng cốt chia làm ba loại:
    • Dân quân cơ động: Là lực lượng thuộc dân quân tự vệ nòng cốt được tổ chức thành các đơn vị sẵn sàng cơ động làm nhiệm vụ trên các địa bàn khi có lệnh của cấp có thẩm quyền.
    • Dân quân tại chỗ: Ở địa phương gọi là dân quân, ở cơ quan gọi là tự vệ
    • Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, thông tin, phòng hóa, y tế.
  • Phân theo biên chế, dân quân tự vệ nòng cốt chia làm hai loại:
    • Dân quân tự vệ bộ binh
    • Dân quân tự vệ binh chủng
  • Phân theo trọng điểm có:
    • Dân quân thường trực: là lực lượng dân quân tự vệ nòng cốt làm nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu tại các địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh.
    • Dân quân tự vệ biển: Là lực lượng thuộc dân quân tự vệ nòng cốt được tổ chức ở cấp xã ven biển, xã đảo và cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển để làm nhiệm vụ trên các vùng biển Việt Nam.

Dân quân tự vệ được biên chế thành đơn vị gồm:

  • Tổ
  • Tiểu đội, khẩu đội [đối với pháo binh]
  • Trung đội
  • Đại đội, hải đội [đối với dân quân tự vệ biển]
  • Tiểu đoàn, hải đoàn [đối với dân quân tự vệ biển]

Tổ chức chỉ huy quân sự cơ sở gồm:

  • Thôn đội: tổ chức tổ, tiểu đội, trung đội dân quân tại chỗ;
  • Xã đội [Ban chỉ huy quân sự cấp xã]: Tổ chức trung đội dân quân cơ động
  • Ban chỉ huy quân sự ở đơn vị cơ sở: tổ chức tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn tự vệ. Cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển tổ chức tiểu đội, trung đội, hải đội, hải đoàn tự vệ biển;
  • Ban chỉ huy quân sự ở các cơ quan Trung ương

Lãnh đạoSửa đổi

Dân quân tự vệ chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý, điều hành của Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp; sự chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương. Bí thư đảng ủy ban chỉ huy quân sự hoặc chính trị viên của lực lượng tự vệ là bí thư đảng bộ hoặc phó bí thư thường trực của các cấp chính quyền, đơn vị.

Dân quân Tự vệ chịu sự chỉ huy trực tiếp của Cục Dân quân Tự vệ, thuộc Bộ Tổng Tham mưu của Bộ Quốc phòng.

Xem thêmSửa đổi

  • Dân quân

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Cục Dân quân tự vệ, Lịch sử 65 năm ngành Dân quân tự vệ Việt Nam [1947-2012], Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2012, tr. 19.
  2. ^ Lịch sử truyền thống Dân quân tự vệ Việt Nam [28/3/1935 - 28/3/2021]
  3. ^ Bộ Tổng Tham mưu, Dân quân tự vệ Việt Nam - 70 năm một chặng đường [Kỷ yếu Hội thảo khoa học], Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 12
  4. ^ Bộ Tổng tham mưu, “Thống kê số liệu chiến tranh trong kháng chiến chống Mỹ [1954 - 1975]”. Phần thứ nhất: Lực lượng vũ trang ta trong kháng chiến chống Mỹ, số 7436/KTCM. Tài liệu Trung tâm lưu trữ BQP [K4], tr. 8
  5. ^ “7 Nhiệm vụ của Dân quân trong Luật Dân quân tự vệ 2020”. Truy cập 6 tháng 11 năm 2020.

Video liên quan

Chủ Đề