Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thời nào
Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Trung Quốc đương thời. Không giống với Đỗ Phủ, hồn thơ Lý Bạch thích phóng túng, viễn vông, không muốn động chạm đến thế thái nhân tình mà thường mang tính hoài cổ. Show
Kho thơ văn đồ sộ với hơn 20.000 bài là tài sản quý giá mà ông để lại cho đời. Chùm thơ hay nhất của Lý Bạch mà THECOTH sưu tầm dưới đây hy vọng bạn sẽ yêu thích. 1. Đôi dòng tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý BạchTiểu sử nhà thơ Lý BạchNhà thơ Lý Bạch sinh ngày 19-5-701 sau Công nguyên tại Thành phố Tây Vực, nước Trung Quốc, mất ngày 30 tháng 11, 762 sau Công nguyên. Phác họa chân dung nhà thơ Lý Bạch Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Trường Giang, nước Trung Quốc. Ông sinh thuộc cung Song Ngư, cầm tinh con (giáp) trâu (Tân Sửu 701). Lý Bạch xếp hạng nổi tiếng thứ 31130 trên thế giới và thứ 84 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng. Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời đường tại Trung Hoa. Ông được hậu thế gọi là "Thi tiên" (tức là thơ tiên), là một Thi tiên vĩ đại của đất nước Trung Quốc. Ông còn có bút hiệu khác là Thái Bạch, Tràng Canh,Thanh Liên cư sĩ. Ông còn được gọi là Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên. Năm 15 tuổi, nhà thơ Lý Bạch viết bài phú ngạo khá nổi tiếng, có tên "Tư Mã Tương Như" để gửi cho Hàn Kinh Châu. Năm 16 tuổi, cái tên Lý Bạch đã nổi tiếng khắp vùng Tứ Xuyên. Nhưng vì chán trần gian nên nhà thơ Lý Bạch đã bỏ lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý BạchTrong sự nghiệp văn chương, nhà thơ Lý Bạch đã sáng tác hơn 20.000 bài thơ, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sự nghiệp nhà thơ Lý Bạch Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan... Trong thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ. Đề tài trong thơ ông cũng khá đa dạng: tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp, cảm thông cho người chinh phụ, viết về tình bạn hữu, tình trai gái, quê hương. Và nhiều nhất vẫn là về rượu. Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được yêu thích, ngoài ra còn có thơ tứ cú, bát cú. Những bài thơ tiêu biểu như:
2. Tập thơ Lý Bạch hay nhất - những kiệt tác đi cùng năm thángSau đây, Thecoth xin giới thiệu cùng quý bạn đọc tập thơ Lý Bạch hay nhất. Đây đều là những kiệt tác để đời, được nhiều độc giả yêu thích. Bài 1: Thơ Lý Bạch về quê hương - Tĩnh dạ tưTĩnh dạ tư Ngắm trăng nhớ cố hương Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương. Dịch nghĩa: Đầu giường ánh trăng chiếu rọi Ngỡ là sương trên mặt đất Ngẩng đầu ngắm trăng sáng Cúi đầu nhớ quê cũ. Dịch thơ Ánh trăng chiếu sáng đầu giường Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương Bài thơ ngắn chỉ gói gọn trong 20 chữ với nguồn cảm hứng chủ đạo là nỗi buồn, nỗi nhớ da diết của Lý Bạch. Trong cái không gian tĩnh lặng ấy, bốn bề vắng lặng, không một tiếng côn trùng kêu, không có một tiếng gió thổi, không một tiếng chuông chùa ngân, nhà thơ bất chợt thấy ánh trăng rọi đầu giường. Cái không gian trăng ấy cùng với nỗi nhớ cố hương hòa quyện với nhau tạo thành một sự liên tưởng cảm động, chấp cánh cho hồn thơ bay bổng. Nhà thơ đã rất tinh tế khi lấy hình ảnh ánh trăng để thể hiện tâm trạng nhớ quê nhà của mình. Bài 2: Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông ChiPhiêu phiêu giang phong khởi Tiêu táp hải thụ thu Đăng lô mỹ thanh dạ Quải tịch di khinh chu Nguyệt tùy bích sơn chuyển Thủy hợp thanh thiên lưu Diểu như tinh hà thượng Đán giác vân lâm u Quy lộ phương hạo hạo Tồ xuyên khứ du du Đồ bi huệ thảo yết Phúc thính lăng ca sầu Ngạn khúc mê hậu phố Sa minh hám tiền châu Hoài quân bất khả kiến Lưu viễn tăng ly ưu. Bài 3: Thơ Lý Bạch về rượu - Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Uống rượu một mình Hoa gian nhất hồ tửu, Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân. Nguyệt ký bất giải ẩm, Ảnh đồ tùy ngã thân. Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Hành lạc tu cập xuân. Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn. Tỉnh thì đồng giao hoan, Tuý hậu các phân tán. Vĩnh kết vô tình du, Tương kỳ mạc Vân Hán. Dịch nghĩa Trong đám hoa với một bình rượu Uống một mình không có ai làm bạn Nâng ly mời với trăng sáng Cùng với bóng nữa là thành ba người Trăng đã không biết uống rượu Bóng chỉ biết đi theo mình Tạm làm bạn với trăng và bóng Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại. Bài 4: Thơ Lý Bạch về thiên nhiên - Bạch đầu ngâmCẩm thuỷ đông bắc lưu, Ba đãng song uyên ương. Hùng sào Hán cung thụ, Thư lộng Tần thảo phương. Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực, Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương. Thử thì A Kiều chính kiều đố, Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ. Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm, Khởi tích hoàng kim mãi từ phú. Tương Như tác phú đắc hoàng kim, Trượng phu hiếu tân đa dị tâm. Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ, Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”. Đông lưu bất tác tây quy thuỷ, Lạc hoa từ điều tu cố lâm. Thố ty cố vô tình, Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo. Thuỳ sử nữ la chi, Nhi lai cưỡng oanh bão. Lưỡng thảo do nhất tâm, Nhân tâm bất như thảo. Mạc quyển long tu tịch, Tòng tha sinh võng ty. Thả lưu hổ phách chẩm, Hoặc hữu mộng lai thì. Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi, Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi. Cổ lai đắc ý bất tương phụ, Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài. Dịch nghĩa Dòng nước như gấm trôi về đông bắc Trên sóng chấp chới đôi uyên ương Con trống đậu trên cây ở Hán cung Con mái đùa trong cỏ thơm đất Tần Thà cùng nhau chết vạn lần, nát lông cánh Chứ không chịu chia lìa nhau trong mây Khi A Kiều trong cơn ghen thủa ấy Ngồi một mình buồn ngày tàn ở Trường Môn Chỉ mong ơn vua thương tới nàng hơn Há tiếc hoàng kim mua từ phú Tương Như làm phú được hoàng kim Trượng phu ưa mới sinh lòng khác Một sớm muốn cưới cô gái Mậu Lăng Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm” Nước đã về đông chẳng quay lại hướng tây Hoa lìa cành thẹn với rừng cũ Cỏ thố ty vốn vô tình Theo gió mà ngả nghiêng Ai xui khiến dây cỏ nữ la Tìm tới quấn quýt không rời Hai loài cỏ, chung một tấm lòng Lòng người sao chẳng như cỏ ấy Đừng cuốn chiếc chiếu long tu (râu rồng) Mặc cho tơ nhện chăng đầy Hãy để lại chiếc gối hổ phách Biết đâu sẽ có lúc về trong giấc mơ Nước đổ đi rồi, há thu lại đầy chén sao Chàng khinh bạc bỏ thiếp đi, khó mà quay lại Xưa nay khi đắc ý, không ruồng rẫy nhau Giờ chỉ còn thấy đài Thanh Lăng mà thôi Trăng và rượu là hai hình ảnh xuất hiện nhiều trong thơ Lý Bạch. Bộ 3: trăng, thơ, rượu luôn được xem là người bạn tri kỷ của nhà thơ này. Bài thơ thể hiện rất rõ mối tình thân thiết ấy, là chủ đề giúp hồn thơ Lý Bạch cất cánh phiêu du. Thơ-trăng-rượu là những người bạn tri kỉ của nhà thơ Bài 5: Thơ Lý Bạch về rượu - Tương Tiến TửuQuân bất kiến:Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!Hựu bất kiến:Cao đường minh kính bi bạch phát,Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,Thiên kim tán tận hoàn phục lai.Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.Sầm phu tử,Đan Khâu sinh.Thương tiến tửu,Bôi mạc đình!Dữ quân ca nhất khúc,Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:“Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.Trần vương tích thời yến Bình Lạc,Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước”.Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,Kính tu cô thủ đối quân chước.Ngũ hoa mã,Thiên kim cừu,Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu, Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu. Dịch thơ ( Ngô Tất Tố) Con sông Hoàng lưng trời tuôn nước,Xuống biển rồi, có ngược lên đâu!Nhà cao, gương xót mái đầu,Sớm còn tơ biếc, tối hầu tuyết pha.Vui cho đẫy, khi ta đắc ýDưới vầng trăng, đừng để chén không.Sinh ra, trời có chỗ dùng,Nghìn vàng tiêu hết, lại trông thấy về.Chén đi đã, trâu dê cứ giết,Ba trăm ly, phải hết một lần.Khâu, Sầm hai bác bạn thân,Rượu kèo xin chớ ngại ngùng ngừng thôi!Ta vì bác, hát chơi một khúc!Bác vì ta, hãy chúc bên tai:“Ngọc, tiền, chuông, trống mặc ai,Tỉnh chi? Chỉ muốn cho dài cuộc say.Bao hiền thánh đến nay đã rõ?Phường rượu ta tên họ rành rành:Trần Vương bữa tiệc quán Bình,Mười nghìn đấu rượu thỏa tình đùa vui”.Chủ nhân chớ ngậm ngùi tiền ít,Mua rượu ta chén tít cùng nhau.Áo cừu, ngựa gấm, để đâu?Gọi con đem đổi vài bầu rượu ngon. Uống cho muôn thuở tan buồn! Bài 6: Thơ Lý Bạch về rượu - Bả tửu vấn nguyệt
Rượu và trăng Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì, Ngã kim đình bôi nhất vấn chi! Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc, Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ. Kiểu như phi kính lâm đan khuyết, Lục yên diệt tận thanh huy phát Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai, Ninh tri hiểu hướng vân gian một. Bạch thố đảo dược thu phục xuân, Thường nga cô thê dữ thuỳ lân. Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân. Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ, Cộng khan minh nguyệt giai như thử. Duy nguyện đương ca đối tửu thì, Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý. Dịch nghĩa Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi? Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây! Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng, Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người. Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son, Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra. Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới, Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây. Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân, Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn? Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa. Trăng nay thì đã từng soi người xưa. Người xưa nay tựa như giòng nước chảy, Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó. Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu, Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng. Bài 7: Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn ChíXử thế nhược đại mộngHồ vi lao kỳ sinh?Sở dĩ chung nhật túyĐồi nhiên ngọa tiền doanhGiác lai miện đình tiềnNhất điểu hoa gian minhTá vấn thử hà nhật?Xuân phong ngữ lưu oanhCảm chi dục thán tứcĐối chi hoàn tự khuynhHạo ca đãi minh nguyệt Khúc tận dĩ vong tình. Tạm dịch (Ngô Tất Tố dịch) Ở đời như giấc chiêm baoLàm chi mà phải lao đao cho đời?Vậy nên say suốt hôm maiBên cây cột trước, nằm dài khểnh chânTỉnh rồi, chợt ngó trước sânTiếng chim đâu đã nghe gần trong hoaNgày chi? Thử hỏi cho raGió xuân đang giục oanh già véo vonCảm thương, lòng những bồn chồnĐoái trông cảnh vật dốc luôn chén quỳnhHát ngao chờ bóng trăng thanh Lời ca vừa hết, mối tình đã quên. Bài 8: Thơ Lý Bạch về mỹ nhân - Thanh bình điệu kỳ 1
Dương Quý Phi trong thơ Lý Bạch Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung, Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng. Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến, Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng. Dịch nghĩa Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan, Gió xuân thổi nhẹ qua hiên, sương hoa nồng nàn. Nếu không phải người ở mé núi Quần Ngọc, Thì cũng là thấy ở dưới trăng chốn Dao Đài. Đây là bài thơ hay viết về Dương Quý Phi, người phụ nữ đẹp sắc nước hương trời được sự sủng ái của Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ. Vẻ đẹp của người đàn bà này đã trở thành đề tài trong thơ văn Lý Bạch Bài 9: Bắc phong hànhChúc long thê hàn môn, Quang diệu do đán khai. Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử, Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.
THE COTH - Top sản phẩm bán chạy
-31% Kích thướt: S M L XL 2XL
-31% Kích thướt: S M L XL 2XL
-31% Kích thướt: S M L XL 2XL
-31% Kích thướt: S M L XL 2XL
-31% Kích thướt: S M L XL 2XL
-31% Kích thướt: S M L XL 2XL Yên sơn tuyết hoa đại như tịch, Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài. U Châu tư phụ thập nhị nguyệt, Đình ca bãi tiếu song nga tồi. Ỷ môn vọng hành nhân, Niệm quân Trường Thành khổ hàn lương khả ai. Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ, Di thử hổ văn kim bính cách xoa. Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn, Tri thù kết võng sinh trần ai. Tiễn không tại, Nhân kim chiến tử bất phục hồi. Bất nhẫn kiến thử vật, Phần chi dĩ thành khôi. Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tái, Bắc phong vũ tuyết hận nan tài. Dịch nghĩa Đuốc rồng mà đến nhà nghèo Ánh nắng buổi mai cũng chiếu sáng Trời trăng soi rọi sao đến chốn này được Chỉ có gió bấc từ trời cao giận dữ gầm thét Núi Yên Chi hoa tuyết lớn như những chiếc chiếu (cuốn hết mọi thứ) Từng mãng từng mãng thổi sập đài Hiên Viên Tháng 12 người thiếu phụ đất U Châu tư lự Không còn ca hát cười đùa, đôi mày ngài tiều tuỵ Tựa cửa trông người đi Nhớ chàng ở Trường Thành khổ lạnh thật đáng thương Hồi đó chia tay chàng mang gươm đi cứu nguy biên ải Để lại túi đựng tên (chĩa ba) vằn da hổ Trong đó thường có một cặp tên đuôi buộc lông chim trắng Bây giờ nhện giăng đầy bụi bặm Cặp tên không còn nữa Và chinh phu đã chết vì chiến đấu, không trở về Nàng không cam lòng nhìn những vật ấy Nên muốn đốt cháy thành tro Sông Hoàng Hà đất đào đem đi chỗ khác có thể lấp được Còn gió bấc tuyết mưa đầy hờn oán kia làm sao dập đứt nổi. Lý Bạch làm thơ tặng vua Bài 10: Quân hànhLưu mã tân khoa bạch ngọc an, Chiến bãi sa trường nguyệt sắc hàn. Thành đầu thiết cổ thanh do chấn, Hạp lý kim đao huyết vị can. Dịch nghĩa Ngựa hoa lưu mới cưỡi, yên cẩn ngọc trắng, Sa trường sau cuộc chiến mặt trăng sắc lạnh lẽo. Ở đầu thành tiếng trống sắt như còn vang động, Đao mạ vàng trong bao còn chưa khô máu quân thù. Bài 11: Thục đạo nanY hu hy Nguy hồ cao tai Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên Tàm Tùng cập Ngư Phù Khai quốc hà mang nhiên Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế Bất dữ Tần tái thông nhân yên Tây đương Thái Bạch hữu điểu đạo Khả dĩ hoành tuyệt Nga My điên Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá Viên nhứu dục độ sầu phan viên Thanh Nê hà bàn bàn Bách bộ cửu chiết oanh nham loan Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức Dĩ thủ phủ ưng toạ trường thán Vấn quân tây du hà thời hoàn Uý đồ sàm nham bất khả phan Đãn kiến bi điểu hào cổ mộc Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian Hữu văn tử quy đề dạ nguyệt, sầu không san. Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên Sử nhân thính thử điêu chu nhan Liên phong khứ thiên bất doanh xích Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi Kỳ hiểm dã nhược thử Ta nhĩ viễn đạo chi nhân Hồ vi hồ lai tai Kiếm Các tranh vanh nhi thôi ngôi Nhất phu đang quan Vạn phu mạc khai Sở thủ hoặc phi thân Hoá vi lang dữ sài Triều tị mãnh hổ Tịch tị trường xà Ma nha doãn huyết Sát nhân như ma Cẩm thành tuy vân lạc Bất như tảo hoàn gia Thục đạo chi nan nan ư hướng thanh thiên Trắc thân tây vọng trường tư ta. Bài thơ Thục đạo nam Dịch nghĩa Ôi, Nguy hiểm thay, cao thay! Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh. Các vua Tàm Tùng và Ngư Phù Ở chốn xa xôi biết bao! Từ đó đến nay, đã bốn vạn tám nghìn năm, Mới thông suốt với chỗ có khói người ở ải Tần. Phía tây là núi Thái Bạch có đường chim bay, Có thể vắt ngang đến tận đỉnh núi Nga Mi. Đất lở, núi sập, tráng sĩ chết, Rồi mới có thang trời, đường đá móc nối liền nhau. Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời. Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược. Hạc vàng còn không bay qua được; Vượn khỉ muốn vượt qua, cũng buồn khi vin tới, leo trèo. Rặng núi Thanh Nê khuất khúc biết bao! Cứ trăm bước lại có chín khúc quặt vòng quanh núi non hiểm trở. Đứng trên cao, tưởng chứng như mó được sao Sâm, lướt qua sao Tỉnh ngẩng trông nín thở, Đưa tay vỗ bụng, ngồi than thở hoài. Hỏi bạn đi chơi phía Tây, bao giờ trở lại? Đường đi cheo leo, nguy hiểm, không với tới được. Chỉ nghe thấy tiếng chim kêu đau thương trong hàng cây cổ thụ, Con trống bay theo con mái, lượn quanh trong rừng. Lại nghe thấy tiếng chim tứ quí kêu dưới bóng trăng đêm, buồn trong núi vắng. Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh. Khiến người ta nghe nói đến cảnh đó, phải héo hắt vẻ mặt trẻ trung. Các ngọn núi liền nhau, cách trời không đầy một thước. Cây thông khô vắt vẻo tựa vào vách đá cao ngất. Nước bay, thác chảy đua tiếng ào ào. Đập vào sườn núi, rung động đá, muôn khe suối vang ầm như sấm. Đường Thục hiểm trở là như thế! Thương thay cho các bạn, những người đi đường xa, Tại sao đến nơi đây? Miền Kiếm Các cheo leo, chót vót! Chỉ một người canh giữ ải, Đến muôn người cũng không mở nổi. Những kẻ giữ ải có thể không phải là người thân, Lại biến đổi thành ra loài sài lang. Còn những người đi đường thì ban sáng phải lánh cọp dữ, Buổi tối phải tránh rắn dài; Bọn chúng mài nanh, hút máu, Giết hại người nhiều như cây gai. Thành Cẩm Quan tuy rằng có vui, Nhưng sao bằng sớm trở về nhà. Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh. Nghiêng mình trông sang phía tây, than thở hoài. Bài 12: Thơ của Lý Bạch về tình yêu - Cổ ý
Cổ ý - một trong những bài thơ nổi tiếng của Lý Bạch Quân vi nữ la thảo, Thiếp tác thố ti hoa. Khinh điều bất tự hành, Vị trục xuân phong tà. Bách trượng thác viễn tùng, Triền miên thành nhất gia. Thuỳ ngôn hội diện dị, Các tại thanh sơn nha (nhai). Nữ la phát hinh hương, Thố ty đoạn nhân trường. Chi chi tương củ kết, Diệp diệp cánh phiêu dương. Sinh tử bất tri căn, Nhân thuỳ cộng phân phương. Trung sào song phỉ thuý, Thượng túc tử uyên ương. Nhược thức nhị thảo tâm, Hải triều diệc khả lường. Dịch nghĩa Chàng là loài cỏ nữ la Thiếp là loài hoa thố ti Cành nhỏ nhắn không thể tự đi Nghiêng ngả theo gió xuân Gởi thân nơi cây tùng trăm trượng xa xôi Lâu ngày thành chung một nhà Ai bảo gặp nhau đã dễ Mỗi bên ở một bên sườn núi xanh Cỏ nữ la toả mùi thơm ngát Hoa thố ti làm người ta đứt ruột Cành cành kết lại với nhau chằng chịt Lá lá phất phơ theo gió Sinh con chẳng biết đến rễ Nhờ ai mà cùng thơm Bên trong là tổ phỉ thuý Bên trên đôi uyên ương đậu Ví như biết được tấm lòng của hai loài cỏ ấy Thì có thể đo được nước triều ở biển. Bài 13: Thơ Lý Bạch về trăng - Độ Kinh Môn tống biệtĐộ viễn kinh môn ngoạiLai tòng Sở quốc duSơn tuỳ bình dã tậnGiang nhập đại hoang lưuNguyệt hạ phi thiên kínhVân sinh kết hải lâuNhưng liên cố hương thuỷ Vạn lý tống hành chu. Thơ Lý Bạch về trăng Dịch thơ: Đi thuyền qua Kinh Môn tiễn biệt Kinh Môn vượt núi ra ngoàiĐến miền nước Sở đường dài biết baoĐồng bằng chấm dứt núi caoDòng sông thăm thẳm chảy vào xa khơiTrăng tà bay tấm gương trờiBiển xanh mây dựng lâu đài xa xaThương thay dòng nước quê nhà Tiễn đưa muôn dặm thuyền ra xứ người. Bài 14: Nga My sơn nguyệtNga My sơn nguyệt bán luân thu,Ảnh nhập Bình Khương giang thuỷ lưu.Dạ phát Thanh Khê hướng Tam Giáp, Tư quân bất kiến há Du Châu. Dịch nghĩa Nhớ anh, không thấy xuống Du Châu. Bài 15: Thơ Lý Bạch về tình bạn - Xa ngắm thác núi LưNgắm thác núi Lư Phiên âm: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.Phi lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên. Dịch nghĩa: Mặt trời chiếu xuống núi Hương Lô, sinh làn khói tía,Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước.Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước, Ngỡ là sông Ngân Hà rơi tự chín tầng mây. Một số bản dịch thơ: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,Xa trông dòng thác nước sông này.Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây. (Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987) Hương Lô nắng dọi khói hồng xâyXa trước dòng sông thác Bộc đầyBay thẳng xuống ba nghìn thước thẳm Ngỡ sông Ngân tuột chín tầng mây. Thơ Lý Bạch thường làm theo lối cổ phong nên được nhiều người yêu thích. Sự nghiệp thơ văn của ông mãi được người đời ca tụng và gìn giữ. Nếu bạn yêu thích hồn thơ của nhà thơ này, đừng quên thưởng thức những bài thơ hay mà THECOTH gửi tặng.
|