Lợi ích cảm nhận là gì


7



Sheth, Newman & Gross [1991] đã mở rộng nghiên cứu và đã phát triển khái

niệm về giá trị cảm nhận rộng hơn, gồm 5 yếu tố cấu thành giá trị cảm nhận khách

hàng: giá trị chức năng, giá trị cảm xúc, giá trị xã hội, giá trị tri thức và giá trị điều

kiện.

Trong nghiên cứu về giá trị cảm nhận, theo Sanchez et al. đã đưa ra nhận

định Giá trị cảm nhận luôn thay đổi, nó khác nhau giữa các khách hàng, văn hóa và

thời gian [Sanchez et al., 2006:394].

Dựa vào nghiên cứu của Zeithaml [1998] và những nghiên cứu trước đó,

Petrick [2002] cho rằng Hầu hết các nhà nghiên cứu như: Bojanic [1996]; Monroe,

Sc. Krishnan [1998]; Jayanti & Grosh [1996]; Parasuraman & Grewa [2000];

Woodruff & Gardial [1996]; Zeithaml [1988], đều đồng ý rằng, giá trị cảm nhận là

một sự so sánh những gì người tiêu dùng nhận được so với những gì người tiêu

dùng phải bỏ ra để có được sản phẩm, dịch vụ. Áp dụng cho lĩnh vực dịch vụ,

liên quan đến những gì người tiêu dùng nhận được, bao gồm: phản ứng cảm xúc

với dịch vụ, chất lượng và danh tiếng của dịch vụ; liên quan đến bỏ ra là giá cả

mang tính tiền tệ và giá cả hành vi. Tổng kết các quan điểm, Petrick đã xây dựng

thang đo SERV-PERVAL để đo lường giá trị cảm nhận của khách hàng đối với sản

phẩm của ngành dịch vụ du lịch. Ông cho rằng, chất lượng, giá cả [tiền tệ và phi

tiền tệ], danh tiếng của sản phẩm, dịch vụ và phản ứng cảm xúc là những thành

phần có mối quan hệ với giá trị cảm nhận [Petrick, 2002].

Qua các nghiên cứu cho thấy, giá trị cảm nhận là một khái niệm đa thành

phần. Mặc dù chưa có sự đồng nhất về khái niệm giá trị cảm nhận của các nhà

nghiên cứu nhưng hầu hết đều thống nhất quan điểm giá trị cảm nhận là sự so sánh

giữa lợi ích mà khách hàng nhận được so với những gì họ đã bỏ ra. Các quan điểm

và mô hình nghiên cứu của các tác giả đã nêu trên đều đã áp dụng thành công trong

nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau. Vì thế mô hình các thành phần giá trị cảm

nhận của các tác giả nêu trên cũng được nhiều tác giả áp dụng trong những nghiên

cứu cùng hoặc tương đồng lĩnh vực ngành nghề, trong đó có nhiều nghiên cứu tại

Việt Nam.



8



2.1.2



Đo lường giá trị cảm nhận của khách hàng

Theo Zeithaml [1988], giá trị cảm nhận của khách hàng được đánh giá thông



qua sự so sánh những gì nhận được từ sản phẩm hay dịch vụ so với những gì khách

hàng phải bỏ ra. Điểm chung của những khái niệm tương tự chính là sự cân đối giữa

chất lượng và giá cả [Chain Store Age, 1985; Cravens, Hollands, Holland Lamb,

Crieff, 1988; Monroe, 1990]1. Qua đó Zeithaml [1988] cho rằng giá cả và chất

lượng là 2 yếu tố quan trọng để đo lường giá trị cảm nhận của khách hàng.

Một số tác giả khác cho rằng việc đo lường giá trị cảm nhận của khách hàng

chỉ dựa vào chất lượng và giá cả là quá đơn giản và không đầy đủ [Schechter, 1985;

Bolton & Drew, 1991]. Theo họ, những thước đo ngoài chất lượng và giá sẽ làm

tăng tính hữu ích trong đo lường giá trị cảm nhận của khách hàng.

Quan điểm của Sheth, Newman & Gross [1991]

Sheth, Newman & Gross [1991] đã phát triển lý thuyết giá trị cảm nhận của

khách hàng bao gồm năm yếu tố:

+ Giá trị chức năng: quan sát về lợi ích kinh tế từ các thuộc tính của sản

phẩm và dịch vụ.

+ Giá trị tri thức: quan sát đến lợi ích thu được thông qua cung cấp khả năng

khơi dậy sự tò mò, tính mới hay tính đáp ứng mong muốn về kiến thức.

+ Giá trị xã hội: là mức độ sự chấp nhận hay tiện ích các mối quan hệ của cá

nhân với môi trường xã hội.

+ Giá trị cảm xúc: quan tâm đến những giá trị liên quan đến cảm xúc hay

trạng thái tình cảm được tạo ra bởi sản phẩm và dịch vụ.

+ Giá trị có điều kiện: được nảy sinh từ việc hiện diện của các tiền đề vật lý,

kinh tế, xã hội và đề cập đến một loạt các nhân tố gián tiếp hoặc tình huống xã hội

cụ thể.



1



Jillian C. Sweeney, Geoffrey N. Soutar [2001], Consumer Paceied value: The development of a multiple

item scale, Journal of Retailing, 77 [2], 203 - 220



9



Sự lựa chọn của khách hàng phụ thuộc vào các yếu tố trên. Mỗi yếu tố là một

biến độc lập, vì vậy sự quyết định lựa chọn của khách hàng có thể bị ảnh hưởng bởi

một hay nhiều biến khác nhau ở trên2.

Quan điểm của Sweeney và Soutar [2001]

Phát triển từ thang đo của Sheth, Newman & Gross [1991], Sweeney và

Soutar [2001] đã đưa ra thang đo PERVAL để đo giá trị cảm nhận của khách hàng

gồm bốn yếu tố: Giá trị cảm xúc, Giá trị xã hội, Giá trị chất lượng, Giá trị tính theo

giá cả.

Trong một số mô hình nghiên cứu khác đã đưa ra kết quả chất lượng và giá

cả tác động riêng biệt lên giá trị cảm nhận của khách hàng: chất lượng tác động

cùng chiều và giá cả tác động ngược chiều [Dodds, Monroe & Grewal, 1991]. Kết

quả nghiên cứu còn cho thấy chất lượng cùng giá cả trùng với yếu tố giá trị chức

năng [trong mô hình đo lường giá trị cảm nhận của của Sheth, Newman & Gross,

1991] và chúng ảnh hưởng riêng biệt lên giá trị cảm nhận của khách hàng, vì vậy

chúng cần được đo lường riêng biệt.

Sweeney và Soutar [2001] còn cho rằng, trong mô hình đo lường giá trị cảm

nhận của của Sheth, Newman & Gross [1991], yếu tố giá trị điều kiện tác động lên

kết quả nhận thức của giá trị chức năng, xã hội và giá trị cảm xúc; còn yếu tố tri

thức sẽ nghiên cứu trong trường hợp cá biệt đối với một sản phẩm mà tính mới lạ,

tạo sự ngạc nhiên là quan trọng. Vì vậy hai yếu tố giá trị điều kiện và giá trị tri thức

không được đưa vào thang đo PERVAL của Sweeney và Soutar [2001].

Quan điểm của Sanchez et al. [2006]

Dựa vào nghiên cứu Sheth, Newman & Gross [1991] và nghiên cứu của

Sweeney và Soutar [2001], Sanchez et al. [2006] đã phát triển và đưa ra mô hình

GLOVAL trên cơ sở mở rộng phạm vi thang đo PERVAL. Mô hình GLOVAL bao

gồm bốn yếu tố cấu thành giá trị cảm nhận của mô hình PERVAL và bổ sung thêm

hai yếu tố là giá trị lắp đặt của nhà cung cấp và giá trị nhân sự. Mô hình GLOVAL

2



Jillian C. Sweeney, Geoffrey N. Soutar [2001], tài liệu đã dẫn.



10



của Sanchez et al. [2006] đo lường giá trị cảm nhận khách hàng được đề xuất gồm 6

yếu tố sau:

+ Giá trị lắp đặt của nhà cung cấp: đề cập đến lợi ích kinh tế thông qua việc

bố trí, lắp đặt tại các cửa hàng như: địa điểm, trang thiết bị, cách sắp xếp, trang trí,

tổ chức phục vụ,

+ Giá trị nhân sự: thể hiện ở trình độ, kỹ năng chuyên môn, tinh thần trách

nhiệm, tính phục vụ của nhân viên bán hàng và nhân viên của công ty đối với khách

hàng.

+ Giá trị chất lượng: quan tâm đến lợi ích kinh tế của sản phẩm và dịch vụ

hay các lợi ích gắn liền với sở hữu sản phẩm, dịch vụ.

+ Giá trị tính theo giá cả: cảm nhận của khách hàng khi so sánh lợi ích nhận

được từ sản phẩm hay dịch vụ so với số tiền bỏ ra thông qua kinh nghiệm tiêu dùng.

+ Giá trị cảm xúc: biểu hiện cảm xúc, tình cảm của khách hàng khi sử dụng

sản phẩm hay dịch vụ.

+ Giá trị xã hội: là sự cảm nhận thể hiện cá tính, địa vị và hình ảnh cá nhân

trong một bối cảnh cộng đồng cụ thể khi sử dụng sản phẩm hay dịch vụ.

Quan điểm của Petrick [2002]

Những nghiên cứu trên đều đưa ra thang đo phù hợp để đo lường giá trị cảm

nhận của khách hàng đối với sản phẩm hữu hình. Việc phát triển thang đo đo lường

giá trị cảm nhận khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ là vô cùng cần thiết. Dựa trên

mô hình lý thuyết của Zeithaml [1998], những mô hình lý thuyết nghiên cứu trước

đó và các đặc tính của sản phẩm dịch vụ, Petrick [2002] đã xây dựng thang đo

SERV-PERVAL để đo lường giá trị cảm nhận của khách hàng đối với sản phẩm

dịch vụ du lịch.

Nhiều khách hàng quan tâm đến những chi phí không mang tính tiền tệ như:

thời gian, chi phí tìm kiếm, hình ảnh thương hiệu, sự thuận tiện. Do đó, chi phí tiền

tệ và phi tiền tệ đều là sự hi sinh của khách hàng và nó ảnh hưởng đến nhận thức về



11



giá trị dịch vụ. Theo những nghiên cứu trước, Giá trị cảm xúc [Grewal et al., 1998;

Parasuraman & Grewal, 2000; Sweeney et al., 1998; Zeithaml, 1988] và chất lượng

[Dodds, Monroe & Grewal, 1991; Swait & Sweeney, 2000] là thước đo giá trị cảm

nhận của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ. Bên cạnh đó, Dodds et al. [1991] và

Zeithaml [1988]3 cho rằng, danh tiếng của dịch vụ cũng ảnh hưởng đến giá trị cảm

nhận của khách hàng về dịch vụ.

Mô hình SERV-PERVAL của Petrick [2002] đo lường giá trị cảm nhận

khách hàng cho sản phẩm dịch vụ du lịch bao gồm năm thành phần sau:

+ Chất lượng cảm nhận: đánh giá của người tiêu dùng về sự nổi trội hay ưu

thế tổng quát về chất lượng của một sản phẩm hay dịch vụ [Zeithaml, 1998].

+ Phản ứng cảm xúc: mô tả niềm vui thích mà dịch vụ mang lại cho khách

hàng [Sweeney et al., 1998]

+ Danh tiếng: là sự uy tín hay vị trí của một sản phẩm, dịch vụ được cảm

nhận bởi người mua, dựa vào hình ảnh của nhà cung cấp sản phẩm hay dịch vụ đó

[Dodds et al., 1991].

+ Giá cả mang tính tiền tệ: giá cả của dịch vụ được khách hàng ghi nhớ

[Jacoby & Olson, 1977]. Giá cả mang tính tiền tệ thể hiện sự hi sinh của khách hàng

để được sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, trong thang đo của Petrick [2002], yếu tố giá

cả mang tính tiền tệ được đo theo hướng giá cả đó có tương xứng với với dịch vụ

khách hàng nhận được hay không.

+ Giá cả hành vi [giá cả phi tiền tệ]: là giá cả không mang tính tiền tệ, là

những gì khách hàng phải bỏ ra để có được dịch vụ, bao gồm thời gian, nỗ lực để

tìm kiếm dịch vụ đó [Zeithaml, 1998].

2.2 Ý ĐỊNH MUA LẠI CỦA KHÁCH HÀNG

Ý định mua lại được xem như là việc tái sử dụng một dịch vụ của nhà cung

cấp trong tương lai [Fornell, 1992]. Jackson [1985] định nghĩa ý định mua lại là

3



Petrick, James F. [2002], Development of a multi dimensional scale for measuring the perceived value of

a service, Journal of Leisure Research, 34 [2], 119 - 134



12



hành vi tiêu dùng đo lường mức độ sẵn sàng tiếp tục, gia tăng hoặc giảm nhu cầu về

sản phẩm/dịch vụ của một nhà cung cấp hiện tại. Trong báo cáo ở Pura [2007] chỉ ra

rằng ý định mua lại liên quan đến việc sử dụng lại cùng một sản phẩm, dịch vụ hoặc

mua lại sản phẩm, dịch vụ của cùng một nhà cung cấp.

Theo nhiều nghiên cứu, ý định mua lại được biểu thị bằng hành vi mua lại

[Duman & Matila, 2005; Gremler & Gwinner, 2000; Mathwic, 2001; Sweeney,

1999]. Và quan trọng là khi người sử dụng có ý định mua lại thì sẽ mua lại sản

phẩm hay dịch vụ đó khi có nhu cầu. Việc đo lường khả năng mua lại của người

tiêu dùng thường được thu thập từ việc khảo sát người tiêu dùng hiện tại về xu

hướng mua cùng loại nhãn hàng, cùng loại sản phẩm của cùng một nhà cung cấp.

Jones và Sasser [1995] đã cho rằng, việc tiếp tục sử dụng của người tiêu

dùng là mục tiêu quan trọng nhất tạo nên thành công của một công ty và là nội

dung quan trọng nhất của marketing. Theo Rosenberg và Czepiel [1984], chi phí

cho việc tìm được một khách hàng mới nhiều gấp 6 lần chi phí giữ chân một

khách hàng hiện tại. Do đó, các công ty tái tập trung mọi nỗ lực vào việc giữ

khách hàng hiện tại hơn là có thêm các khách hàng mới [DeSouza, 1992].

Như vậy, ý định mua lại của khách hàng thể hiện khả năng sẽ mua lại, sử

dụng lại đối với cùng một sản phẩm/dịch vụ hoặc mua lại, sử dụng lại sản phẩm,

dịch vụ của cùng một nhà cung cấp mà khách hàng đã sử dụng. Việc giữ chân khách

hàng sử dụng lại sản phẩm/dịch vụ của công ty giúp công ty giảm chi phí đáng kể.

Để xác định mức độ khả năng mua lại của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ du

lịch chúng ta dùng phương pháp khảo sát đối với khách hàng hiện tại về ý định mua

lại của khách hàng đối với sản phẩm tour du lịch của công ty mà họ đã sử dụng dịch

vụ tour du lịch trước đó.

Tóm lại, từ các nghiên cứu nêu trên, ý định mua lại của khách hàng trong đề

tài này được hiểu rằng đó chính là ý định mua lại tour du lịch của cùng một công ty

mà họ đã sử dụng trước đó.



Video liên quan

Chủ Đề