Em danh giả như thế nào về cách sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Phân tích quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

  • Dàn ý quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
  • Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 1
  • Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 2
  • Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 3

Dàn ý quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

I. Mở bài

- Giới thuyết về quan niệm sống “nhàn” trong văn học trung đại: Nhàn là triết lí sống, là phạm trù tư tưởng khá phổ biến của con người trung đại, mỗi người lại có cách thể hiện riêng.

- Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và quan niệm sống Nhàn của ông: Sống thuận theo lẽ tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, cuộc sống bình dị, lánh đục về trong, xem nhẹ vinh hoa phú quý, sống trong sạch.

II. Thân bài

1. Nhan đề.

- “Nhàn” có nghĩa là nhàn hạ, rỗi rãi, thảnh thơi. Đây là trạng thái khi con người có ít hoặc không có việc gì phải làm, phải suy nghĩ.

- “Nhàn: được biểu hiện ở hai phương diện: Nhàn thân – sự rảnh rỗi chân tay, thể xác và nhàn tâm – sự thư thái, thảnh thơi trong tâm hồn.

→ Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn tâm, chứ không phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi [trong bài Cảnh ngày hè] nhàn thân chứ không nhàn tâm.

2. Nhàn là sự thảnh thơi, ung dung trong lòng với thú điền viên

- Những hình ảnh bình dị, thân thuộc: mai, quốc, cần câu: Chỉ nhữung công việc lao động cụ thể của người nông dân quê đào đất, vụ xới, câu cá

- Số từ “một” được lặp lại kết hợp với phép liệt kê: Thể hiện công việc lao động bận rộn, vất vả thường xuyên

→ Câu thơ đầu cho ta biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà với những công việc nặng nhọc, vất vả lấm láp

- “Thơ thẩn”: Dáng vẻ ung dung, tự tại

- Cụn từ “dầu ai vui thú nào”: Phủ nhận những thú vui đời thường mà người đời ganh nhau theo đuổi.

→ Tâm thế của tác giả: Vui vẻ, xem những công việc nặng nhọc ấy là thú vui điền viên.

⇒ Quan niệm sống nhàn: Dù thân bận rộn, cực nhọc nhưng tâm hồn luôn ung dung, tự tại, thư thái.

3. Nhàn là quan niệm sống

- Phép đối: Ta – người, dại – khôn, nơi vắng vẻ - chốn lao xao: Nhấn mạnh quan niệm và triết lí sống của tác giả.

- Phép ẩn dụ:

  • Nơi vắng vẻ: Chốn làng quê yên bình, tĩnh tại, chốn bình yên của tâm hồn
  • Chốn lao xao: Chốn quan trường bon chen, ngổn ngang tranh giành, đấu đá.

- Cách nói ngược: Ta dại – người khôn: Cái dại của một nhân cách thanh cao và cái khôn của những con người vụ lợi

→ Cách nói hóm hỉnh pha chút mỉa mai, vừa để răn mình vừa để dạy đời.

⇒ Quan niệm sống nhàn: Xa lánh chốn quan trường với những bon chen danh lợi, trở về với cuộc sống thôn dã giản dị, bình yên.

4. Nhàn là sống thuận theo lẽ tự nhiên

- Xuất hiện bức tranh 4 mùa: Xuân – hạ - thu – đông: Gợi về thiên nhiên làng quê Bắc bộ.

- Thức ăn: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá: Thức ăn đơn sơ, giản dị, có sẵn trong tự nhiên, mùa nào thức đấy

- Sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: Sinh hoạt theo sự thay đổi của thiên nhiên, sống hòa vào cùng thiên nhiên, thanh cao, giản dị.

- Cách ngắt nhịp 4/3 rất nhịp nhàng, cùng giọng điệu vui tươi thoải mái: Gợi nhịp sống thong dong, ung dung.

⇒ Quan niệm sống nhàn: Sống thuận theo tự nhiên, hưởng thụ những gì có sẵn trong thiên nhiên, không mưu cầu, bon chen.

5. Triết lí sống nhàn.

- Sử dụng điển tích điển cố Thuần Vu Phần: Nhận ra phú quý chỉ là giấc mộng chiêm bao không có thật.

- Động từ “nhìn xem”: Tâm thế ngẩng cao đầu, đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm

⇒ Quan niệm sống nhàn: Coi vinh hoa phú quý chỉ là giấc mộng phù du, cái tồn tại duy nhất nhân cách, tâm hồn của con người.

Đưa ra bài học cho con người: Đừng đua chen theo vòng danh lợi mà hãy tìm đến cuộc sống thành thơi, thanh thản.

III. Kết bài

- Khái quát triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Liên hệ, mở rộng: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết lí sống Nhàn còn thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,..

Nêu cảm nhận về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn, mẫu số 1:

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho uyên thâm nổi tiếng trong thời kì phân tranh Trịnh - Nguyễn. Sống trong thời loạn lạc, ông không ủng hộ thế lực phong kiến nào mà tìm đường lui về quê ẩn dật theo đúng lối sống của đạo Nho. Bài thơ Nhàn là một trong những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, rút trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập của ông. Bài thơ cho thấy một phần cuộc sống và quan niệm sống của tác giả trong xã hội loạn lạc hiện thời.Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên trong bài thơ là cuộc sống giản dị, đạm bạc [đơn giản] nhưng thanh cao, trong sạch. Mở đầu bài thơ là hai câu thơ:

"Một mai một quốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào"

Với cách sử dụng số đếm:" một" rất linh hoạt, nhịp thơ ngắt nhịp đều đặn 2/2/3 kết hợp với hình ảnh những dụng cụ lao động nơi làng quê: mai, cuộc, cần câu cho ta thấy những công cụ cần thiết của cuộc sống thôn quê . Chính những cái mộc mạc chân chất của những vật liệu lao động thô sơ ấy cho ta thấy được một cuộc sống giản dị không lo toan vướng bận của một danh sĩ ẩn cư nơi ruộng vườn, ngày ngày vui thú với cảnh nông thôn.Không những thế nhwungx câu thơ tiếp theo tiếp tục cho ta thấy được cái bình dị trong cuộc sống thôn quê qua những bữa ăn thường ngày của ông:

"Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao"

Món ăn của ông là những thức có sẵn ở ruộng vườn, mùa nào thức nấy: măng, trúc, giá,.... những món rất giản dị đời thường. Cuộc sống sinh hoạt của cụ giống như một người nông dân thực thụ, cũng tắm hồ, tắm ao. Hai câu thơ vẽ nên cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả, mùa nào cũng thong dong, thảnh thơi. Qua đó ta thấy được một cách sống thanh cao, nhẹ nhàng, tránh xa những lo toan đời thường.Ngoài thể hiện cuộc sống đời thường tác giả còn thể hiện triết lí sống, nhân cách của ông:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao "

Tìm nơi "vắng vẻ" không phải là xa lánh cuộc đời mà tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái, hoà nhập với thiên nhiên, lánh xa chốn quan trường, lợi lộc để tìm chốn thanh cao."Chốn lao xao" là chốn vụ lợi, chạy theo vinh hoa, lợi ích vật chất, giành giật hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm cho cách sống nhàn nhã là xa lánh không quan tâm tới danh lợi. Tác giả mượn lời nói của đòi thường để diễn đạt quan niệm sống của mình mặc người đời cho là khôn hay dại. Đó cũng chính là quan niệm của Nho sĩ thời loạn vẫn tìm về nơi yên tĩnh để ở ẩn.Nghệ thuật đối: "ta" đối với "người", "dại" đối với "khôn", "nơi vắng vẻ" đối với "chốn lao xao" tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả. Không những thế hình ảnh thơ cuối như lần nữa khẳng định triết lí sống của tác giả:

"Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao"

Trong hơi men nồng nàn cùng sự bình yên của làng quê nhà thơ nhận ra phú quý quả thật chỉ là một giấc chiêm bao. Nó cũng sẽ mau chóng tan thành mây khói.

Bài thơ thể hiện được quan niệm của nhà thơ về cuộc đời, đồng thời ta thấy được cuộc sống an nhàn của nhà thơ nơi thôn dã. Đó là một cuộc sống vô cùng giản dị và bình an, đạm bạc nhưng lại rất thanh cao. Nguyên Bỉnh Khiêm đẫ thể hiện lên một tâm hồn một nhân cách sống rất bình dị đời thường, một cốt cách cao đẹp.

Cảm nhận chung của anh[ chị] về cuộc sống nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ" Nhàn"

Qua chữ nhàn, bàn về quan niệm sống nhàn hiện nay

THPT Sóc Trăng Send an email

0 17 phút

Ta thường nghe nói sống nhàn qua thi từ thơ văn đặc biệt là chữ “nhàn” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói, nhưng liệu chữ “nhàn” đó có đúng trong cuộc sống hiện nay? Cùng THPT Sóc Trăng tham khảo một số bài văn hay của các bạn học sinh giỏi quốc gia dưới đây em nhé:

Nội dung

Bài viết gần đây

  • Thuyết minh về Nguyễn Trãi: Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi

  • Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng

  • Phân tích bài Bạch Đằng giang phú [Phú sông Bạch Đằng] – Trương Hán Siêu

  • Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du

  • 1 Bàn vềchữ nhàn của Nguyễn Bình Khiên về cuộc sống hiện nay
    • 1.1 Từ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm liên hệ cuộc sống hiện nay

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

THPT Sóc Trăng Send an email

0 32 phút

Để bài văn phân tích bài thơ Nhàn của bạn được trôi chảy, hấp dẫn và không bị thiếu ý, đừng do dự mà không xem ngay những gợi ý cách làm, dàn ý chi tiết phân tích nội dung bài thơ Nhàn do THPT Sóc Trăng tổng hợp và biên soạn dưới đây:

  • Hướng dẫn phân tích đề[phân tích yêu cầu đề, xác lập luận điểm]
  • Dàn ý phân tích bài Nhàn chi tiết
  • 4 bài văn phân tích Nhàn hay dùng đọc tham khảo

Cùng tham khảo ngay…

Bài viết gần đây

  • Thuyết minh về Nguyễn Trãi: Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi

  • Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng

  • Phân tích bài Bạch Đằng giang phú [Phú sông Bạch Đằng] – Trương Hán Siêu

  • Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ với những quan niệm sống, triết lý sống sâu sắc mới mẻ vượt tầm thời đại, mà có thể nói bài thơ Nhàn với quan niệm sống Nhàn là một trong những tuyệt cú thể hiện rất rõ tư tưởng lớn của nhà thơ. Qua từng câu khai, thừa, triển, hợp nhà thơ dần mở rộng và phát triển quan niệm sống nhàn độc đáo, mới mẻ, sâu sắc của mình. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn không chỉ là một quan niệm, triết lý sống mà dường như còn là kim chỉ nam để thi nhân hướng người đọc đến thế giới chân thiện mỹ.

“Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện trong câu thơ trên giống như một lão nông tri điền và một bậc tao nhân mặc khách, ông cáo quan về ở ẩn, tránh xa chốn quan trường bụi bặm về ẩn nơi thôn dã vui với thú điền viên, hòa mình với thiên nhiên cảnh vật. Từ “thơ thẩn” dã toát lên phần nào tư thế và tâm thế của nhân vật trữ tình, thoải mái, ung dung tự tại mà cũng đầy kiêu ngạo như một lời thách thức với đời rằng mặc ai vui thú nào, ta đây vẫn say sưa với thú điền viên, với thú an nhàn, qua đó phần nào giúp ta thấy được sự gắn bó của nhà thơ với nông thôn, với cuộc sống dân dã, bình dị đời thường. Khi ấy, có thể khái quát ngắn gọn “nhàn” ở trong hai câu thơ mở đầu này là ung dung trong phong thái, thảnh thơi trong tâm hồn, vui với thú điền viên.

Sang đến hai câu thơ thực, có thể quan niệm ấy được vận động mới mẻ hơn:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao”

Nơi vắng vẻ là nơi ít người, là chốn quê dân dã bình yên, cuộc sống thanh nhàn vô âu, vô lo, nơi tâm hồn con người được hòa nhập với thiên nhiên, thư thái không vướng bận vào vòng danh lợi. Ngược lại, chốn lao xao là chốn quan trường với những ganh đua, ganh ghét, là cửa ải danh lợi ồn ào, phiền não. Như vậy, có thể thấy ở đây nhà thơ sử dụng lối nói ngược mang hàm nghĩa mỉa mai: Người khôn vậy mà cứ đến chốn lao xao sống, như con thiêu thân lao đầu vào ngọn đèn. Họ có biết đâu ở đấy đầy rẫy những ganh đua, đố kị, mưu sâu kế hiểm thâm độc, sống ở đó con người luôn luôn phải mệt mỏi, phải suy nghĩ đắn đo, vạch mưu tính kế, liệu có vui sướng được chăng? Hóa ra, cái dại của nhà thơ lại là cái dại khôn. Cái khôn của người hóa ra là cái khôn của dại. Cái dại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là “Đại trí như ngu”- cái dại của kẻ hiểu được quy luật vần xoay của thế sự nhân sinh:

“Dưới công danh đeo khổ nhục

Trong dại dột có phong lưu”

Như vậy, triết lí nhàn ở trong hai câu thơ thực lại là nhàn gắn với sự thanh cao, không bị vướng vào vòng danh lợi, đấu đá luẩn quẩn.

Tiếp đến hai câu luận, triết lí “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại mang những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ hơn:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

Hai câu thơ trên ta đều thấy sự xuất hiện của những hình ảnh dân dã quen thuộc, bình dị của chốn thôn quê. Trở về với thiên nhiên, với xóm làng, tác giả thật sự hòa mình với cuộc sống thôn quê, cuộc sống của người nông dân chất phác đôn hậu, cuộc sống thanh đạm an nhàn. Mùa nào thức nấy, chẳng cần phải lo lắng, bon chen. Thử hỏi đời người, mấy ai được hưởng thú này! Như vậy, nhàn trong hai câu luận là sống thuận theo tự nhiên.

Đến câu kết, dường như toàn bộ tâm tư phía trên của nhà văn mới được bộc lộ trọn vẹn:

“Rượu, đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Trong câu thơ trên, có sử dụng điển tích chỉ phú quý công danh chỉ là ảo mộng, chỉ là áng phù vân trôi nổi, có rồi lại mất như một giấc mộng mà thôi. ở đây từ đó ta có thể thấy thái độ coi thường phú quý, vinh hoa, xem chúng chỉ là những điều phù phiếm thoáng hiện rồi lại vụt bay. Đó quả thực là một thái độ sống rất đáng trân trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bởi ông sống trong chế độ phong kiến khủng hoảng, nền tảng đạo đức bắt đầu rạn nứt, thời đại con người lấy tiền ra để đo mọi thứ. Trong lúc xã hội chạy theo lợi ích phù phiếm của vinh hoa phú quý, ông tỏ thái độ xem thường tất cả. Khi ấy, nhàn là coi thường vinh hoa phú quý.

Bằng những vần thơ giản dị, cùng những điển tích thấm đẫm sự uyên bác, sâu sắc của hồn thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gửi gắm vào bài thơ Nhàn quan niệm sâu sắc về triết lý sống Nhàn. Nhàn đấy là sống giản dị, thanh cao lánh xa chốn lao xao, vòng danh lợi; nhàn ấy là về với thiên nhiên, với thú điền viên để thanh lọc tâm hồn, gột rửa bụi trần. Qua từng dòng thơ, quan niệm sống nhàn lại được thể hiện đầy mới mẻ, độc đáo. Từ đó khiến cho cách tiếp cận của người đọc không bị thu hẹp trong một chiều, mà người đọc được dịp cảm nhận và chiêm nghiệm ở nhiều góc độ khác nhau, tạo nên sự sâu sắc trong cách cảm cách nghĩ.

Soạn bài Nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm

1. Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng tác giả như thế nào?

2.Anh [chị] hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại”, “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?

3.Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho tháy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? [Quê mùa, khổ cực? Đảm hạc mà thanh cao? Hòa hợp với tự nhiên?]
Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu thơ này.

4.Đọc chú thích 4 để hiểu điển tích được vận dụng trong hai câu thơ cuối. Anh [chị] cảm nhận như thế nào về nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm?

5.Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?
– Không vất vả, cực nhọc
– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân.
– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.
– Hòa hợp với thiên nhiên
Quan niệm sống đó là tích cực hay tiêu cực? Vì sao?

Lời giải:

I. Bố cục:

– Hai câu thơ 1, 2: Thú vui tao nhã của thi nhân khi ở ẩn.

– Hai câu thơ 3, 4: Quan điểm của nhà thơ về “dại”, “khôn” ở đời.

– Hai câu thơ 5, 6: Cuộc sống an nhàn, bình dị của thi nhân.

– Hai câu thơ cuối: Triết lý sống nhàn của thi nhân.

II. Câu hỏi
Câu 1 trang 129 - SGK Ngữ văn 10 tập 1:

Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng tác giả như thế nào?

Trả lời:

Âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung. Nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm [một…, một…, một…] trước các danh từ mai, cuốc, cần câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của cụ Trạng đối với cuộc sống điền dã, và còn như là chút ngông ngạo trước thói đời.

Câu 2 trang 129 - SGK Ngữ văn 10 tập 1:

Anh [chị] hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại”, “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?

Trả lời:

Cách nói hóm hỉnh song qua đó toát lên quan niệm nhân sinh của tác giả. Cụ Trạng tự nhận mình là “dại”, chấp nhận tiếng dại của “miệng thế” chê bai để “tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Câu thơ sử dụng cách nói ngược nghĩa. Tuyết Giang Phu Tử với sự thâm trầm, trải đời đã tận hiểu sự đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”. Nghệ thuật đối: “ta” đối với “người”, “dại” đối với “khôn”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ tức tìm đến sự tĩnh lặng của tự nhiên, tìm đến sự yên tĩnh trong tâm hồn, không bon chen, không cầu canh; còn người tìm đến chốn lao xao là tìm đến chốn quan trường, tuy sang trọng, quyền quý, song phải bon chen, đối chọi, cảnh giác… Nghệ thuật đối tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả.

Câu 3 trang 129 - SGK Ngữ văn 10 tập 1:

Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho tháy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? [Quê mùa, khổ cực? Đảm hạc mà thanh cao? Hòa hợp với tự nhiên?]
Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu thơ này.

Trả lời:

Ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện “ăn” và “tắm” một cách đầy thích thú. Theo vòng quay bốn mùa quanh năm, việc “ăn”, “tắm” của “ta” thuận theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên ; đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản.

Món ăn của ông là những thức có sẵn ở ruộng vườn, mùa nào thức nấy. Cuộc sống sinh hoạt của cụ giống như một người nông dân thực thụ, cũng tắm hồ, tắm ao. Hai câu thơ vẽ nên cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả, mùa bào cũng thong dong, thảnh thơi. Cách sống thanh cao, nhẹ nhàng, bình yên vô cùng.

Câu 4 trang 130 - SGK Ngữ văn 10 tập 1:

Đọc chú thích 4 để hiểu điển tích được vận dụng trong hai câu thơ cuối. Anh [chị] cảm nhận như thế nào về nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm?

Trả lời:

Hai câu cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả uyên thâm, cũng đã từng vào ra chốn quan trường, đã tận hiểu quy luật biến dịch của cuộc đời, cũng hiểu danh lợi chỉ là phù du, do đó đã phủi tay với vòng danh lợi, tìm sự tĩnh lặng cho tâm hồn, hòa nhập cùng thiên nhiên:

“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Tác giả bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao, không có thực, qua đó khẳng định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của riêng mình.

Câu 5 trang 130 - SGK Ngữ văn 10 tập 1:

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?

– Không vất vả, cực nhọc

– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân.

– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.

– Hòa hợp với thiên nhiên

Quan niệm sống đó là tích cực hay tiêu cực? Vì sao?

Trả lời:

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh sự vất vả để tận hưởng sự nhàn rỗi, cũng không phải là thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói là thái độ không đua chen trong vòng danh lợi để giữ cốt cách thanh cao, nhàn là về với ruộng vườn để hòa hợp với thiên nhiên, vui thú cùng cây cỏ. Nhàn là làm một lão nông “Một mai, một cuốc, một cần câu” và “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”, nuôi dưỡng tinh thần trong sự khoáng đạt của tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Nên hiểu, dẫu ẩn cư ở ruộng vườn nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn canh cánh trong lòng nỗi lo cho dân, cho nước. Một người bộc trực, thẳng tính, vì lo lắng cho xã tắc đã từng dâng sớ xin vua chém mười tám lộng thần không thể nào trở thành một người vô ưu trước những tình cảnh của dân của nước được. Đặt trong hoàn cảnh chế độ phong kiến đang trên đà khủng hoảng, những giá trị đạo đức đang có biểu hiện suy vi, người hiền không có đất dụng thi quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một quan niệm sống tích cực.

III. Luyện tập
Câu 1 – Luyện tập trang 130 - SGK Ngữ văn 10 tập 1:

Nêu cảm nhận chung của anh [chị] về cuộc sống, nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bải thơ Nhàn.

Trả lời:

“Nhàn” là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của nhà thơ là sống thuận lợi theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài thơ này là lời tâm sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng đồng thời thể hiện một quan niệm nhân sinh độc đáo của nhà thơ.

Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đ­ưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “n­ước giếng đào, cơm cày ruộng”. Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo tr­ước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp câu thơ nghe nh­ư nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bư­ớc: một… một… một…

Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để ng­ười đọc cảm nhận thực sự đ­ược cái vui của “cuộc sống nhàn”:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thư­ờng, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm “sang trọng” biết bao. Nó chăng những không gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi đư­ợc hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.

Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và thú vị vô cùng.

Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế như­ng trở về với hai câu thực, chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm “lánh đời” của nhà thơ:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Ng­ười khôn, người đến chốn lao xao.

Vậy ra, Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu như­ơng đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng nói ngư­ợc. Vì thế nó tạo cho ng­ười đọc một liên t­ưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là trí tuệ sắc sảo của một bậc đại quan – trí tuệ để nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở đời.

Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

R­ượu đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh. Ở đó nhân vật trữ tình cũng không biết đang tình hay mơ. Tất cả cứ hòa cùng làm một d­ưới cái nhãn quan tỏ tư­ờng và thông tuệ của nhà thơ.

Giải các bài tập Tuần 14 SGK Ngữ văn 10 Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt [tiếp theo] Nhàn [ Nguyễn Bỉnh Khiêm] Đọc Tiểu Thanh kí [Độc Tiểu Thanh kí]

Bài trước Bài sau

Video liên quan

Chủ Đề