Để nhận thức về thế giới một cách đúng đắn trong quan niệm của mỗi người cần phải có

Nhận thức thế giới trong thời đại thông tin

01/06/2004

Nguyễn Trần Bạt

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Con người có thể nhận thức thế giới hay không là một câu hỏi hóc búa không chỉ với các nhà triết học mà còn cả nhân loại. Tuy nhiên, không chỉ giữa các nhà triết học duy tâm với các nhà triết học duy vật, mà ngay cả giữa những nhà triết học duy tâm với nhau hay giữa các nhà triết học duy vật với nhau cũng có những mâu thuẫn nhất định trong việc trả lời câu hỏi này. Vậy chân lý nằm ở đâu? Chúng tôi cho rằng quả thực rất khó để tìm ra câu trả lời đúng cho vấn đề này, nhất là trong bối cảnh thế giới ngày càng trở nên bão hoà về thông tin cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật. Mặc dù như vậy, thế giới vẫn luôn luôn là một đối tượng bí ẩn thu hút các nhà khoa học; vì vậy, câu hỏi con người có thể nhận thức được thế giới hay không vẫn còn nóng bỏng và thú vị như buổi ban đầu. Bài viết dưới đây sẽ trình bày cách tiếp cận của chúng tôi trước vấn đề này và hy vọng nó sẽ phần nào thức tỉnh con người về khả năng và giới hạn của mình trước vấn đề nhận thức thế giới trong mối tương quan với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là của ngành truyền thông. Lịch sử tư tưởng của con người đã tiếp nhận rất nhiều quan điểm về khả năng nhận thức thế giới của con người, từ “ bất khả tri ” của Berkeley đến “ vật tự nó ” của Kant, từ “ tinh thầntuyệt đối”của Hegel đến“cải tạothế giới”của Marx. Phải khẳng định rằng mỗi học thuyết đều có những điểm hợp lý của nó; chính bởi vậy, nó vẫn rất sống động và liên tục truyền cảm hứng cho con người trong việc lý giải câu hỏi này. Vấn đề chúng tôi đặt ra trong bài viết này chỉ là một khía cạnh liên quan đến khả năng nhận thức thế giới của con người, đó là ngày nay con người có nhận thức được thế giới không?
Khi mà càng ngày càng được tiếp xúc với nhiều tài nguyên thông tin hơn? Hay thế giới, trải qua vô số những cơn thăng trầm và biến chuyển vĩ đại, vẫn là chính nó, bí ẩn và huyễn hoặc như trong mắt Berkeley và Kant hay rõ ràng, cụ thể như trong nhận thức của Marx?
Chủ nghĩa khủng bố ư Khoảng đen mớitrong bức tranh thế giới hiện đại
Một số người cho rằng, những biến động gần đây của thế giới báo hiệu một triển vọng không mấy xán lạn mà quên mất rằng biến động là một thuộc tính căn bản của thế giới, hay nói cách khác, thế giới luôn luôn và không ngừng biến động. Từ trước đến nay, do những hạn chế về trình độ khoa học công nghệ, con người không theo kịp với những biến động của thế giới. Dường như, sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là của ngành truyền thông, làm con người ngày càng hoang mang trước những biến động của thế giới trong khi sự xuất hiện của những biến cố ấy, xét về mặt hiện tượng thuần tuý, không hẳn đã hoàn toàn mới. Các cuộc bầu cử vẫn được tiến hành ở khắp mọi nơi với chiến thắng hay thất bại của những phe phái khác nhau. Các cuộc đảo chính hay thậm chí, các cuộc chiến tranh cũng vậy. Trước đây, với sự hạn chế về khoa học công nghệ, thông tin, thì những thay đổi như vậy cũng như ảnh hưởng của chúng không đến với con người nhanh chóng như ngày nay. Gần đây, bức tranh thế giới hiện đại có một điểm nhấn ư đó là chủ nghĩa khủng bố ư cuộc chiến tranh giữa bóng tối và ánh sáng, hay theo cách nói của một số người, đó là cuộc chiến của thế hệ thứ tư với “ một kẻ thù vôhình và hữu hình, chẳng ở đâu và ở khắp mọinơi, không một trung tâm đầu não cụ thể vàphi lãnh thổ hoá”.Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng hình thức sơ khai của chủ nghĩa khủng bố là những phong trào đấu tranh, sau đó thoái hoá trở thành những tổ chức khủng bố, hay tổ chức phản động có tính chất phi chính phủ, lúc mới ra đời, chúng cũng có mục tiêu chính trị, tôn chỉ và giá trị xã hội nhất định. Hội Tam Hoàng ra đời trong hoàn cảnh nhà Thanh lật đổ nhà Minh ở Trung Quốc hay các tổ chức mafia ra đời ở Italia đều có lịch sử tương tự như vậy. Có thể nói, sự xuất hiện ngày càng nhiều các hoạt động khủng bố trong khoảng thời gian gần đây là một mặt của quá trình toàn cầu hoá nằm bên ngoài khả năng kiểm soát của các chính phủ, chống lại thế giới văn minh và thế giới hợp pháp. Một số người đổ lỗi cho Tổng thống Hoa Kỳ ư George Bush II ư trong việc “ chọc giận ” các tổ chức khủng bố. Tuy nhiên, Bush không phải là một vị tổng thống tồi mặc dù trong vô số những việc ông ta đã làm, hẳn có những việc không đúng. Phản ứng và chính sách quyết liệt của Bush trước những hành động của các tổ chức khủng bố sẽ là một liều thuốc đặc trị nếu ông ta chiếu cố đến sự không kiên quyết của các nhà chính trị khác. Sẽ tốt hơn nhiều nếu Bush thành công trong việc hợp tác với các nhà chính trị trên toàn thế giới trong việc thiết kế và áp dụng những chính sách chống khủng bố táo bạo và quyết liệt. Nói đúng hơn, chủ nghĩa khủng bố mặc dù đã hình thành từ lâu, nhưng có lẽ chưa bao giờ lại xuất hiện một cách có tổ chức và chủ động như gần đây. Điều đó đã làm dấy lên trong vô số người những lo ngại về một cuộc chiến tranh mới, sau những cuộc chiến lịch sử của Thành Cát Tư Hãn, Napoleon hay Fritz Erich von Manstein . 2
Nhưng liệu bức tranh thế giới có u ám đến như vậy, hay đó chính là hiệu ứng phụ của truyền thông?
Nguy cơ nhận thức bằng bóng ư Mầmmống của một thuyết bất khả tri mới
Không thể phủ nhận sự khủng khiếp của những gì mà các tổ chức khủng bố đã gây ra ở Madrid hay Baghdad. Tuy nhiên, chúng tôi muốn tiếp cận vấn đề theo một cách khác,liệu rằng chúng ta đã thành công trong việcxây dựng cho mình phương pháp luận nhậnthức đúng đắn [tức phương pháp xử lý thôngtin đúng đắn] hay chúng ta đang nhận thứcthế giới qua hiệu ứng của truyền thông?Sự ra đời của ngành truyền thông là một trong những thành tựu vĩ đại của nhân loại. Truyền thông đưa con người xích lại gần nhau hơn và giúp con người phân định thế giới một cách có ý thức thành những mảng màu khác nhau thông qua những thông tin cập nhật và rất có giá trị. Truyền thông cũng giúp cho con người tự làm mới nhận thức của mình và nếu thiếu vắng nó, chúng ta sẽ tự giam hãm mình trong những ốc đảo về nhận thức. Tóm lại, truyền thông đóng một vai trò thiết yếu trong việc xây dựng và xúc tiến nhận thức của con người về thế giới. Với khả năng to lớn của truyền thông, một số người đã lạc quan cho rằng thuyết bất khả tri đã chẳng còn lý do gì để tồn tại, quên mất rằng truyền thông là một công cụ cực kỳ sắc bén cho việc nhận thức thế giới và do đó, nó cũng có những “ tác dụng phụ ” nhất định. Tuy nhiên, một số người bàng quan hoặc kém tỉnh táo đã không nhận ra điều này. Thậm chí, thay vì sử dụng lượng thông tin, kiến thức mà truyền thông cung cấp như những nguyên liệu để nhận thức, một số người còn hoàn toàn phụ thuộc vào sự phản ánh chủ quan của nó. Hãy lấy chủ nghĩa khủng bố làm ví dụ. Mặc dù truyền thông đã cố gắng truyền tải những thông tin chân thực và khách quan nhưng nó vẫn tạo ra những ảo giác về sự nức nở của con người lớn hơn cả những thất thiệt mà họ phải gánh chịu. Sức mạnh của truyền thông là ở tính lan toả tức thì của nó; kết quả là, những ảo giác khủng khiếp cũng lan đi nhanh chóng không kém. Sự cộng hưởng ảo giác, đến lượt mình, tạo ra một nhận thức cực kỳ hoảng loạn và đen tối về thế giới trên phạm vi rộng lớn. Hãy tưởng tượng một thế giới không có sự lớn mạnh của ngành truyền thông. Rõ ràng, những sự kiện tưởng như rất đỗi lớn lao ấy sẽ chìm trong lãng quên một cách nhanh chóng và con người cũng sẽ không cảm thấy lo sợ trước nó. Tuy nhiên, giới truyền thông rất biết cách khai thác những biến động của thế giới. Điều này cũng chính là mục đích của truyền thông ư làm nên cái mà chúng ta thường gọi là Quyền lực của truyền thông. Đến lượt mình,nó sẽ tạo ra một nguy cơ mớiư nguy cơ nhận thức thế giới bằng bóng, tứcnhận thức thế giới qua thông tin và hình ảnh.Nếu chúng ta tiếp tục khai thác thông tin theo cách này thì truyền thông sẽ không làm con người mạnh hơn, toàn diện hơn về nhận thức, mà còn tạo ra sự đứt gãy và nhiễu loạn về nhận thức thế giới.
Có thể nói rằng, tại những nơi mà ngành công nghiệp truyền thông đặt chân tới, thế giới được nhận thức hoàn toàn khác với những miền mà nó bỏ sót. ở nơi này người ta lo sợ chủ nghĩa khủng bố trong khi ở nơi khác ư những miền đất thiếu thông tin về thế giới ư con người vẫn nhận thức thế giới một cách hoan hỉ và đơn giản. Phải chăng khi những bài ca về nỗi đau thương được cất lên trong những nhà hát lớn sẽ có sức lan toả và lay động gấp hàng nghìn lần khi nó được hát ở những nơi khác. Phải chăng, hiệu ứng phụ của truyền thông đang làm con người mơ hồ và nhiễu loạn trong việc nhận thức thế giới? Và phải chăng, với việc nhận thức thế giới bằng bóng, truyền thông đang cùng với con người xây dựng một thuyết bất khả tri mới?
Thế giới thực sự như thế nào?
Chúng tôi cho rằng, một phần nào đó của thế giới, hay thậm chí cả thế giới, dưới hiệu ứng phụ của truyền thông, đang bị mô tả và cường điệu tới mức làm méo mó cấu trúc đời sống tâm lý của con người. Thực ra, thế giới, về bản chất đang bị chèn ép và chèn ép lẫn nhau chứ không được lãnh đạo. Giai đoạn thế giới được lãnh đạo một cách có tổ chức nhất là giai đoạn Chiến tranh lạnh. Thế giới, về cơ bản, là đơn cực – và ngày nay cần được hiểu là đơn cực động chứ không phải là đơn cực tĩnh như trước. Do vậy, trong thời đại bùng nổ truyên thông thật khó để hình dung hay trả lời câu hỏi thế giới mà chúng ta nhận thức được là cái gì, là kết quả của nhận thức của con người, kết quả của truyền thông, kết quả của tiếng vọng hay tiếng ồn. Chúng ta nghĩ rằng sẽ hướng cộng đồng trong một nhận thức thống nhất để giải thích thế giới, nhưng thực ra, thế giới được giải thích hoàn toàn không nhất quán. Do đó, vấn đề cần nhận thức đúng về thế giới trong thời đại thông tin hiện nay. Chừng nào không trả lời được câu hỏi ấy, chúng ta sẽ tiếp tục sống và nhận thức bằng bóng, tức bằng những gì mà giới truyền thông truyền tải tới con người thông qua các phương tiện hiện đại của nó. Sức mạnh của truyền thông khiến con người tưởng mình chứng minh được sự sai lầm của thuyết bất khả tri nhưng dường như nó đang làm điều ngược lại. Có vẻ như con người đang bị khủng hoảng thông tin và càng ở những vùng lạc hậu về nhận thức, sự khủng hoảng thông tin ấy càng rõ rệt. Có lẽ đây sẽ là một cuộc khủng hoảng mới của nhân loại. Khủng hoảng thông tin hay nói đúng hơn là khủng hoảng nhận thức chỉ có thể xảy ra ở những vùng đất lạc hậu về nhận thức dẫn đến tư duy đơn giản, phiến diện và thụ động. Trong khi đó, khối lượng thông tin đồ sộ hàng ngày được phản ánh vào trong tiềm thức con người một cách hết sức phức tạp, khiến cho một số học giả phải đánh động nhân loại về nền kinh tế Internet, hay nền kinh tế thông tin, cho rằng nếu biến thông tin trở thành nền kinh tế, chúng ta sẽ tự mình tạo ra sự sụp đổ. Vấn đề không dừng lại ở đó, mà quan trọng hơn, chúng ta cần phải cảnh báo nhân loại về nguy cơ thông tin, hay nói cách khác là nguy cơ về nhận thức bóng qua các hình ảnh truyền thông. Để trả lời câu hỏi con người có thể nhận thức thế giới hay không, chúng tôi cho rằng, con người không chỉ có thể mà buộc phải nhận thức được thế giới và chỉ khi nào nhận thức được thế giới, chúng ta mới có thể tồn tại và phát triển. Nói như vậy không có nghĩa là con người có thể nhận thức được thế giới một cách trọn vẹn và chính xác. Với sự chênh lệch về trình độ nhận thức, thế giới được phản ánh và mang màu sắc rất khác nhau trong nhận thức của những người khác nhau. Trình độ và bản lĩnh nhận thức của con người sẽ quyết định việc con người sẽ đi tới đâu trong chặng đường nhận thức thế giới. Về mặt lý thuyết, để có thể nhận thức thế giới sát với bản chất của nó, chúng ta cần phải tạo cho mình bản lĩnh thoát khỏi vùng ảnh hưởng của thông tin, nghĩa là phải có sự quan sát và phân tích độc lập. Hãy coi thông tin như những nguyên liệu thô và hãy lọc ra trong đó những sự kiện bản chất trước khi chúng bị phóng đại. Do đó, hãy hình dung và nhận thức thế giới như chính nó chứ không phải thông qua những tiếng vọng của truyền thông. Đừng để truyền thông can thiệp sâu vào tư duy và nhận thức của chúng ta về thế giới và tạo ra những sự đứt gãy đột ngột. Đó cũng chính là nhiệm vụ của khoa học và quả thực là một nhiệm vụ khó khăn bởi trên mạng hàng ngày có hàng trăm, hàng nghìn bài viết về các sự kiện của thế giới. Nhiệm vụ của khoa học là chia thế giới thành đúng những mảng màu và những dữ liệu có màu sắc khác nhau. Quay trở lại với thực tiễn Việt Nam, chúng tôi cho rằng sự khủng hoảng thừa thông tin khiến chúng ta tưởng tượng ra một thế giới phức tạp với vô số hiểm hoạ và chính nỗi lo sợ ấy khiến chúng ta hoặc bàng quan hoặc không dám thực hiện những cuộc cải cách triệt để. Trong khi đó, Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều chương trình cải cách lớn và khuấy động cả thế giới bằng sự thành công của những cuộc cải cách đó. So với Việt Nam, Trung Quốc là một đất nước rộng lớn và phức tạp hơn nhiều. Do đó, số lượng rủi ro và các vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt khi tiến hành cải cách chắc chắn ít hơn Trung Quốc cả về số lượng và nhỏ hơn về quy mô. Bên cạnh đó còn có một yếu tố thuận lợi khác nữa là con người Việt Nam tiềm ẩn đầy đủ phẩm chất để thực hiện những cuộc cải cách bước ngoặt. Vậy, tại sao các cuộc cải cách vẫn chưa được tiến hành xuôn sẻ? Phải chăng, chúng ta đang nhận thức thế giới nói chung và về sự thay đổi của Trung Quốc một cách bàng quan, quên mất rằng những sự thay đổi ấy có tác động trực tiếp tới tương lai của Việt Nam? Thiết nghĩ đó là một câu hỏi lớn.
Kết luận
Đã đến lúc phải đi tìm chân lý một cách tương đối trong một sự chuyển động tương đối, nghĩa là phải nhận thức thế giới nói chung và sự vật, hiện tượng trong sự xê dịch tương đối của đời sống và xê dịch tương đối của ý nghĩ. Nói cách khác, không được xem sự vật là những vật thể để bám vào nó mà phân tích, cần phải xem các sự kiện chỉ là ảnh của một trạng thái của các loại hình phổ biến của nhân loại, và vì vậy, chúng ta phải tư duy trong thể động và tính động tương đối. Hoặc làm như thế, hoặc chúng ta đang tự mình xâydựng một thuyết “bất khả tri” mớicho những vấn đề có thể nhận thức được!./.

Mục lục

Các giai đoạn của nhận thứcSửa đổi

Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong, như sau:

  1. Nhận thức cảm tính [hay còn gọi là trực quan sinh động] là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy[2]. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
    • Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan". Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn"[2].
    • Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn[2].
    • Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật[2].
    Giai đoạn này có các đặc điểm:
    • Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức[1].
    • Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật[1].
    • Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
  2. Nhận thức lý tính [hay còn gọi là tư duy trừu tượng] là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.
    • Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học[2].
    • Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán vì có sự liên kết khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất [ví dụ: đồng dẫn điện], phán đoán đặc thù [ví dụ: đồng là kim loại] và phán đoán phổ biến [ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện]. Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng[2].
      Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận[2].
    • Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch[2].
      Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn[2].
    Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
    • Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng[2].
    • Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng[2].
    Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật[1].
  3. Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được[2]. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức[1]. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới[1]. Do đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử

08/03/2021

VănDũng1

Tómtắt:Tư tưởng con người trong triết học của Khổng Tử được hình thành và phát triển trong một giai đoạn lịch sử Trung Quốc thời cổ đại mang tính bước ngoặt. Sự chuyển đổi toàn diện của đất nước Trung Quốc lúc bấy giờ đã làm cho xã hội loạn lạc. Trước thực trạng đó các nhà tư tưởng đua nhau tìm kiếm phương pháp để ổn định xã hội. Tuy đứng trên lập trường giai cấp khác nhau, nhưng các nhà tư tưởng đều có điểm chung là họ đều bắt đầu từ việc giải thích bản tính của con người. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định bởi sự chi phối của lịch sử, những quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu xã hội lúc bấy giờ và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Từkhóa:Con người, Khổng Tử, tư tưởng.

Phân loại ngành:Triết học

Abstract:The thought on humans in the philosophy of Confucius was formed and developed during a period which is a turning point in ancient Chinese history. The comprehensive transformation of the country of China at that time caused chaos in the society. Facing such a situation, thinkers were vying with one another to find ways to stabilise the society. Despite their different class positions, the thinkers shared one thing in common, which was that they all began with explaining the nature of human. Though still including certain limitations caused by the impacts of the contemporary historical context, the views on humans in Confucius' philosophy basically met the social needs at that time and still bear values which remain intact today.

Keywords:Humans, Confucius, thought.

Subject classification:Philosophy

1.Dẫnnhập

Có thể nói rằng, vấn đề con người luôn được các nhà triết học quan tâm và đề cập đến trong các tác phẩm của mình. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn lịch sử thì việc phát hiện và nghiên cứu về con người là không giống nhau bởi sự chi phối về điều kiện văn hóa và chính trị khác nhau. Ngay thời kỳ cổ đại Khổng Tử trình bày quan điểm khá toàn vẹn về con người, vị trí, vai trò của con người trong xã hội. Vai trò của con người bước đầu đã được Khổng Tử trình bày khá toàn diện trong hệ thống tư tưởng của mình. Khổng Tử đã xem con người là đối tượng trung tâm của mọi vấn đề từ triết học đến chính trị và giáo dục. Là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên của nhân loại nghiên cứu về vấn đề con người thì việc tồn tại những hạn chế là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử là tiền đề quan trọng cho các nhà khoa học sau này nghiên cứu về con người. Bài viết này giới thiệu nội dung và giá trị quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử.

2.Nộidungquanđiểmvềconngườitrongtriết học của Khổng Tử

Sự xuất hiện một quan điểm luôn gắn liền với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. C.Mác từng viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [3, tr.156]. Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử ra đời trong giai đoạn lịch sử Trung Quốc thời cổ đại chuyển đổi toàn diện mang tính bước ngoặt. Sự chuyển đổi đó đã dẫn đến sự biến đổi căn bản cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đã làm cho xã hội loạn lạc, luân lý đạo đức suy đồi, chính trị rối ren. Thực trạng đó đã đặt ra cho các nhà tư tưởng các câu hỏi lớn như: làm thế nào để cho xã hội ổn định? Nguyên nhân của sự chuyển đổi mang tính bước ngoặt của lịch sử Trung Quốc giai đoạn này là gì? Hệ tư tưởng nào sẽ phù hợp cho giai đoạn mới của xã hội Trung Quốc? v.v.. Để trả lời cho những câu hỏi đó các nhà tư tưởng đều bắt đầu từ việc tìm hiểu về con người, chính vì thế mà vấn đề con người trở thành trung tâm của triết học thời kỳ này.

Khổng Tử [551 - 479 TCN] tên thật là Khâu, tự là Trọng Ni. Ông sinh ra trong điều kiện xã hội Trung Quốc rơi vào loạn lạc triền miên, giai cấp thống trị cũ đã đánh mất vai trò của mình đối với lịch sử. Các thế lực mới không ngừng nổi lên để tranh giành quyền cai trị, sự tranh giành đó đã đẩy xã hội Trung Quốc thời kỳ này bước sang một một ngã rẽ mới. Đó là sự cáo chung của thời kỳ phong kiến phân quyền để nhường chỗ cho thời kỳ phong kiến trung ương tập quyền. Thực trạng đó đã làm xuất hiện các xu thế như: [1] Các nhà tư tưởng chủ trương pháp trị ra sức ủng hộ các thế lực địa chủ mới lên; [2] Các nhà tư tưởng chủ trương đức trị thì muốn níu giữ chế độ lễ trị của nhà Chu; [3] Các nhà tư tưởng chủ trương vô vi vì bất mãn với thực tại nên họ quay lưng với thế sự. Khổng Tử được sinh ra trong cảnh cơ hàn nhưng thuộc dòng dõi quyền quý ở nước Lỗ, một đất nước nhỏ bé nhưng có bề dày văn hóa dưới thời nhà Chu. Như vậy ông là người đại diện tiêu biểu cho xu hướng thứ hai và ông đã đưa ra quan điểm về con người dựa trên cơ sở bản tính con người vốn thiện để lý giải về xã hội.

Để có quan điểm về con người một cách đúng đắn Khổng Tử đã bắt đầu lý giải về nguồn gốc, vai trò, vị trí và bản tính của con người. Quá trình nhận thức về nguồn gốc con người là một vấn đề khó khăn đòi hỏi phải trải qua một quá trình phát triển của nhân loại thì mới có thể lý giải một cách đúng đắn. Tuy nhiên, Khổng Tử đã có cái nhìn về con người một cách khá toàn vẹn khi bắt đầu lý giải con người sinh ra từ đâu. Trên quan điểm con người là một bộ phận không thể tách rời với tự nhiên, Khổng Tử cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên đều vận hành theo quy luật âm dương. Con người tồn tại cũng không nằm ngoài quy luật ấy, cho nên lấy cơ thể mà nói, thì con người phải nhất luật tuân theo những nguyên lý âm dương biến hóa của đạo trời và cương nhu tương thôi, của đạo đất. Việc dùng nguyên lý âm dương để lý giải cho nguồn gốc ra đời của con người của Khổng Tử đã thể hiện quan điểm duy vật chất phác góp phần vào việc chống lại quan điểm duy tâm thần bí. Khổng Tử đã xem giới tự nhiên là một phần không thể thiếu trong quá trình xuất hiện của loài người là một quan điểm hết sức tiến bộ lúc bấy giờ.

Trong quan điểm của mình Khổng Tử đề cao vai trò và vị trí của con người trong xã hội. Ông xem con người là vấn đề quan trọng nhất dẫn đến sự thịnh, suy của một triều đại. Tuy nhiên, Khổng Tử cho rằng mỗi con người trong xã hội đều có một vai trò nhất định. Vai trò đó của mỗi con người là không giống nhau nên con người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Ông chia xã hội thành hai loại người, đó là người quân tử và kẻ tiểu nhân, người quân tử có vai trò dẫn dắt, còn kẻ tiểu nhân có vai trò tuân theo. Nếu đặt con người trong mối quan hệ với tự nhiên thì con người lại có vai trò phụ thuộc vì Khổng Tử xem trời là đấng tối cao vô thượng nên con người phải luôn phục tùng mệnh lệnh và ý chí của trời. Từ sinh tử, thọ yểu, may rủi, họa phúc, quý tiện của sinh mệnh và số phận con người đến sự còn mất, hưng vong của các triều đại đều do trời chi phối. Khổng Tử đề cao Thiên mệnh và ông cho rằng con người phụ thuộc vào Thiên mệnh “đạo ta nếu được lưu hành, ấy cũng do mạng trời. Đạo ta nếu phải vong phế, ấy cũng do nơi mạng trời” [5, tr.233]. Do tin vào Thiên mệnh nên Khổng Tử coi sự hiểu biết và hành động của con người theo mệnh trời là điều kiện tất yếu để trở thành người hoàn thiện. Bởi “chẳng hiểu mạng trời, chẳng đáng gọi là quân tử” [5, tr.315]. Do tin vào mệnh trời nên Khổng Tử đánh giá vị trí của con người trong thế giới là hoàn toàn phụ thuộc “người quân tử có ba điều kính: kính sợ mạng trời, kính sợ bậc đại nhân, tức là người chức phận lớn, đức hạnh cao; kính sợ lời dạy của thánh nhân” [5, tr.263]. Tuy nhiên, theo Khổng Tử thì trời - người - quỷ thần có mối quan hệ với nhau. Trong đó quan hệ giữa trời và người là một trong những giá đỡ hữu hiệu để các thế lực trong xã hội thần thánh hóa vai trò của người đứng đầu. Trên giá đỡ đó, các nhà tư tưởng đã cố gắng biện hộ cho quyền lực và sức mạnh của thế lực cầm quyền trên mặt đất. Và nhà vua có vai trò là cầu nối quan trọng giữa các thế lực siêu nhiên với dân chúng. Mặt khác Khổng Tử cũng thấy được vai trò của con người trong việc cải tạo thế giới chính vì thế, ông cố ý tránh né nói đến cái chết, khuyên con người hãy quay trở về sống thực, sống cho đúng đạo làm người. Từ đó ông đề cao trí tuệ của cá nhân để giúp con người trong xã hội hiện thực.

Khổng Tử cho rằng xã hội Trung Quốc rơi vào cảnh loạn lạc là do con người vô đạo, không chính danh định phận. Để có thể khắc phục được thực trạng đó thì cần phải đề cao giáo dục sự thiện tính trong mỗi con người. Khổng Tử cho rằng bản tính con người khi sinh ra gần như nhau nhưng do điều kiện sống mà có sự khác biệt. Tính “là cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người; là tính chất, bản chất của người hay của vật” [1, tr.738]. Với quan điểm đó thì tính là cái trời phú cho con người khi mới sinh ra. TrongLuận ngữ,Khổng Tử viết: “Con người ta sinh ra, cái bẩm tánh vốn ngay thật. Nếu họ tà khúc mà sống được, đó là họ may mắn khỏi chết đói thôi” [5, tr.93]. “Theo quan niệm đó, Khổng Tử nhận định, về cơ bản thì bản tính con người giống nhau, ai cũng có tính lành. Tính lành làm cho mọi người gần nhau và tránh xa điều ác” [2,tr.60]. Như vậy, theo Khổng Tử, bản tính con người là ngay thẳng, là hài hòa, hết lòng thành thực với mình và đem lòng thành thực của mình để đối đãi với người. Khổng Tử luôn đề cao bản tính, phẩm chất tốt đẹp, ngay thẳng của con người, với hệ thống các phạm trù đạo đức như: nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, trung hiếu, kính đễ... Từ đó ông cố gắng xây dựng một mẫu người lý tưởng cho xã hội gọi là người quân tử.

Xuất phát từ quan niệm về nguồn gốc, bản tính và vai trò, vị trí con người Khổng Tử đã đưa ra quan điểm về giáo dục con người trong tư tưởng triết học của ông. Mục đích của giáo dục là làm cho con người sống đúng với chính danh định phận, đưa con người vô đạo trở về có đạo. Ông đã khái quát và phân chia các mối quan hệ xã hội ra thành những mối quan hệ như: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Giữa các mối quan hệ đó, đều được quy định bởi những chuẩn mực, giá trị đạo đức nhất định, để đảm bảo cho người nào cũng có trách nhiệm, bổn phận chính đáng của người ấy. Trong đó, vua phải huệ, tôi phải trung, cha phải từ, con phải hiếu, chồng tình nghĩa, vợ phải tòng, anh lương, em kính đễ, bạn bè phải tín nghĩa. Để xã hội ổn định theo Khổng Tử, ai mang danh nào thì phải sống và làm việc với đúng với cái danh đó. Phương pháp hiệu quả nhất để ổn định trật tự xã hội là phải thực hiện giáo hóa đạo đức bằng lễ nghĩa cho mọi người chứ không phải bằng hình pháp. Vì: “Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân chúng; chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm phép đó thôi, chớ họ chẳng biết hổ ngươi. Vậy muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh; muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết” [5, tr.15]. Theo Khổng Tử, con người nếu không được giáo dục, thì dù tâm có tốt đẹp, ngay thẳng như thế nào đi nữa thì cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, phản loạn che lấp. Trong lúc xã hội loạn lạc không ra làm quan giúp dân cứu đời không phải là người trí, không phải là người nhân. Như vậy giáo dục được xem như phương tiện quan trọng để khẳng định vai trò và vị trí của con người trong thế giới.

3.Giátrịquanđiểmvềconngườitrongtriết học của Khổng Tử

Từ việc nghiên cứu nội dung quan điểm về con người trong tư tưởng triết học của Khổng Tử chúng tôi nhận thấy vấn đề con người đã được ông nghiên cứu khá sâu sắc, toàn diện về nguồn gốc, bản chất, vai trò, vị trí của con người để từ đó cho rằng cần phải giáo dục con người để phát huy vai trò nhận thức thế giới và ổn định xã hội. Thông qua việc nghiên cứu đó, chúng tôi rút ra một số giá trị sau:thứ nhất,tư tưởng con người trong triết học của Khổng Tử mang tính nhân văn, bởi lẽ Khổng Tử đã luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, luôn đề cao con người và quan tâm giáo dục con người. Trong tư tưởng triết học Khổng Tử mặc dù đứng trên lập trường, địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, nhưng là xuất phát từ con người, luôn lấy con người làm trung tâm. Trên quan điểm đó chúng ta thấy con người trong triết học Khổng Tử có mục đích vươn tới làm chủ chính mình. Khổng Tử cho rằng, nhà cầm quyền muốn phát triển đất nước thì cần phải phát huy nhân tố con người. Một đất nước sẽ không thể phát triển nếu như nhà cầm quyền không đề cao và phát huy đúng đắn vai trò, vị trí của con người trong sự phát triển xã hội. Để phát huy nhân tố con người thì cần phải đề cao vai trò của giáo dục. Mục đích của việc giáo dục là để phát huy thiện tính trong mỗi con người. Như vậy, tính nhân văn trong tư tưởng về con người của Khổng Tử không chỉ dừng lại ở việc mang lại cho con người có cuộc sống tốt đẹp, xây dựng xã hội thịnh trị mà còn hoàn thiện hệ giá trị của con người. Khổng Tử đề cao những chuẩn mực tri thức, đạo đức con người trong triết học để khẳng định đề cao vai trò, vị trí của nhân dân đã thể hiện được tầm vóc nhất định của ông;thứ hai,tư tưởng con người trong triết học của Khổng Tử mang tính đa dạng. Ông đã cố gắng nghiên cứu con người trên nhiều phương diện, cả về nguồn gốc, bản tính và vai trò, vị trí của con người trong thế giới nói chung và trong xã hội nói riêng, cũng như trong việc cố gắng đưa ra các phương pháp, cách thức khác nhau để giáo hóa con người. Trên quan điểm con người vốn thiện, Khổng Tử đã chủ trương nhân trị và đức trị để cải biến xã hội đáp ứng nhu cầu lịch sử xã hội thời Xuân Thu - Chiến quốc đặt ra. Khổng Tử nghiên cứu về con người với mục đích “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Vì vậy mà ông luôn đề cao vai trò của con người trong tự nhiên và xã hội. Đó là quan điểm tiến bộ, cố gắng thoát khỏi sự chi phối của thế giới quan thần quyền phổ biến ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Khổng Tử đã quan tâm đến con người, đi tìm các giá trị, chuẩn mực về tri thức, đạo đức và cả giá trị về mặt xã hội của con người, giáo dục, cải hóa con người theo các chuẩn mực giá trị đó để hoàn thiện con người thành mẫu người lý tưởng có đầy đủ yếu tố “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “trí”, “tín”, hiểu biết đạo lý, thực hiện đạo lý, góp phần xây dựng một xã hội lý tưởng, có trật tự, cương thường, thái bình, thịnh trị;thứ ba,tư tưởng con người trong triết học của Khổng Tử mang tính hiện thực. Khổng Tử luôn coi sinh mệnh, sự sống con người là đáng quý, đáng trân trọng nhất do vậy ông chủ trương dùng giáo hóa con người thay cho luật pháp. Ông cho rằng, nhà cầm quyền muốn xã hội ổn định thì phải đem cái đức ra để mà cai trị thì dân sẽ trở nên lương thiện. Khổng Tử nhấn mạnh việc dùng người hiền tài để cai trị đất nước vì theo ông những người hiền tài có khả năng cảm hóa những kẻ tàn bạo trong xã hội trở nên hiền lương. Khổng Tử cũng cho rằng, mỗi con người phải biết quý sinh mạng của mình, và khi biết quý sinh mạng của bản thân thì mới có thể quan tâm, giữ gìn, bảo vệ sinh mạng và mưu sự giúp người khác. Còn những người sống không biết trân quý sinh mạng của bản thân thì không thể là người hiện thực và không thể cai trị được đất nước.

Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử bước đầu đã trở thành một hệ thống lý luận chặt chẽ. Trong đó ông đã nêu ra quan niệm toàn diện về con người, Ông nhấn mạnh yếu tố bên trong hơn bề ngoài của con người. Quan niệm về con người, bản tính của con người, nhìn nhận con người không chỉ thuần tuý dựa vào lời nói mà kết hợp giữa động cơ và hiệu quả, giữa lí trí và tình cảm. Về nội dung giáo dục, Khổng Tử đã đưa ra những nội dung đạo đức hết sức sâu sắc như nhân, lễ, nghĩa, chính danh v.v.. Để truyền dạy một cách có hiệu quả Khổng Tử đã đề xuất một hệ thống phương pháp giáo dục khá chặt chẽ với những kiến giải sinh động và sâu sắc.

Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị mà chúng tôi đã đề cập ở trên thì vấn đề con người trong triết học Khổng Tử vẫn còn một số hạn chế nhất định như: [1] Tư tưởng con người trong triết học của Khổng Tử mang tính chất duy tâm. Khổng Tử cho rằng mọi sự biến hóa của vạn vật trong tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội kể cả con người đều do thiên mệnh và ý chí của quỷ thần chi phối. Chỉ có vua là người thừa lệnh trời, thay trời cai trị trên mặt đất do vậy con người tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh ý chí của nhà vua. Nếu người dân vì bất cứ lý do gì mà không tuân mệnh thì trời và quỷ thần sẻ trừng phạt nghiêm khắc, gieo xuống đầu nhân dân những tai họa nặng nề; [2] Tư tưởng con người trong triết học của Khổng Tử mang tính đẳng cấp. Khổng Tử rất coi trọng việc giáo dục đạo đức cho con người, nhưng ông mới chỉ dừng lại ở việc giáo dục cho giai cấp thống trị mà chưa thấy được vai trò của giáo dục đối với người dân. Ông cho rằng chỉ có người quân tử [tức giai cấp thống trị] mới có thể trở thành con người hoàn thiện còn kẻ tiểu nhân [tức nhân dân lao động] không thể trở thành con người hoàn thiện được. Tính đẳng cấp trong quan niệm về con người của Khổng Tử đã bộc lộ hạn chế khi chỉ công nhận giai cấp thống trị là “con người nguyên nghĩa” còn giai cấp bị trị vô tình trở thành “con người khiếm khuyết”. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về tư tưởng cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể để đánh giá đúng giá trị của nó.

4.Kếtluận

Tư tưởng về con người của triết học Khổng Tử là sản phẩm được hình thành và phát triển trên cơ sở đặc điểm và yêu cầu tất yếu của lịch sử xã hội Trung Quốc thời cổ đại. Đây là thời kỳ mang tính bước ngoặt lịch sử và đòi hỏi tư tưởng phải thích nghi. Chính trong thời đại lịch sử biến đổi lớn lao đó đã kích thích tài trí của các nhà tư tưởng phát triển. Khổng Tử đã tập trung làm rõ những nội dung lớn và rất cơ bản về con người, như nguồn gốc, vai trò, vị trí và bản tính con người trong thế giới nói chung và trong xã hội nói riêng. Thông qua việc lý giải về bản tính của con người là thiện tính, Khổng Tử đã đề ra quan điểm về giáo dục với hy vọng có thể cải biến xã hội. Tư tưởng về con người của triết học Khổng Tử mặc dù còn nhiều hạn chế do thế giới quan và sự quy định của lịch sử nhưng nó đã góp phần chống lại quan điểm duy tâm về con người. Bên cạnh đó tư tưởng về con người của triết học Khổng Tử là một trong những tư tưởng đặt nền móng cho việc nghiên cứu con người về sau.

_________________

Ghi chú

1 Trường Đại học Khánh Hòa.

Tàiliệuthamkhảo

[1] Doãn Chính [2009],TừđiểntriếthọcTrung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Võ Văn Dũng [2019],Tưtưởngchínhtrịthời TiênTầnvàgiátrịcủanó,Nxb Lý luận Chính Trị, Hà Nội.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen [2002],Toàntập,t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Khổng Tử [2004],Kinh thư,Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

[5] Khổng Tử [2006],Tứ thư,Nxb Thuận hóa, Huế.

Nguồn:Tạp chíKhoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2020

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Tìm hiểu luận điểm của C.Mác về bản chất con người và ý nghĩa trong phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay

Triết học mác - xit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt động thực tiễn để xem xét bản chất con người.

Các Mác [1818-1883]

Trong quan niệm của triết học mác - xít, con người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc [1845]: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" [1].

Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người.

Ở đây, cá nhân được hiểu với tư cách là những cá nhân sống, là người sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế, mỗi cá nhân là sự tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà còn là lịch sử của các quan hệ đó.

Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết học mác - xit.

Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý đến con người. Theo Người "chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" [2].

Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội, con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con người hoạt động và sinh sống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: Quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời.

Con người trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần...

Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, nhân tố quyết định thành công của cách mạng.

Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử.

Việc đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển là tư tưởng nhất quán của Đảng ta, trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội mới để phát triển cá nhân.

Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, dẫn đến phân hóa giàu nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do đó, chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải quyết tốt mối quan hệ cá nhân - xã hội: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.

Đặc biệt, quán triệt sâu sắc tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm [2021-2030] bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn lực con người: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân”[3].

Có thể khẳng định, Luận điểm của C.Mác về bản chất con người đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, đó là những bài học hết sức quý báu trong việc phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, góp phần sớm hiện thực hóa mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [4].

ThS. Nguyễn Thị Duyên [Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa]

*Ghi chú:

[1]. C.Mác - Ph. Ăngghen [1995], Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2]. Hồ Chí Minh [1995], Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3], [4]. Hội đồng Lý luận Trung ương, “Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, Nxb Lý luận chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 2021, tr 83, 84; 27.

Video liên quan

Chủ Đề