Đánh giá phong cách văn học là gì

1. Khái niệm phong cách sáng tác

Phong cách sáng tác [phong cách nghệ thuật] là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. [Trong nghĩa rộng: Phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm nhận được, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất]. [Từ điển thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên, NXB Giáo dục, 2004. Tr. 255, 256].

2. Đặc điểm của phong cách nghệ thuật

Đặc điểm 1: Phong cách chính là con người nhà văn.
Nhà văn Pháp Buy phông nói: “Phong cách ấy là con người”. Nó hình thành từ thế giới quan, nhân sinh quan, chiều sâu và sự phong phú của tâm hồn, của vốn sống, sở thích, cá tính cũng như biệt tài trong sử dụng cách hình thức, phương tiện nghệ thuật của nhà văn.

Ví dụ: Nguyễn Tuân là người nhìn đời bằng nhãn quan của cái tôi kiêu bạc, đầy tự hào, tự tin, tự trọng, cùng với lòng ngưỡng mộ cái Đẹp trong đời. Nguyễn Tuân là người từng trải, đi nhiều, biết rộng, sống phóng khoáng, thích tự do, thích thú với những cảm giác mãnh liệt trong cuộc sống… Những yếu tố ấy trong con người nhà văn bộc lộ ra thành một phong cách nghệ thuật: Độc đáo, tài hoa và uyên bác. Nét phong cách này khá nhất quán trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám.

Đặc điểm 2 :Phong cách nghệ thuật không đơn thuần chỉ là những nét lặp đi lặp lại thành quen thuộc của nhà văn. Đó phải là sự lặp lại một cách hệ thống, thống nhất cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy.

Cho nên, không phải bất kỳ nhà văn nào cũng có phong cách, tạo được phong cách. Phong cách thường được tạo nên bởi một cây bút sâu sắc trên nhiều phương diện: thế giới quan, nhân sinh quan, vốn sống, kinh nghiệm… tài năng về nghệ thuật và có bản lĩnh.

Cái nét riêng [ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận] ấy thể hiện nổi bật, có giá trị và khá nhất quán trong hầu hết các tác phẩm của họ, lặp đi lặp lại làm cho người đọc nhận ra sự khác biệt với tác phẩm của các nhà văn khác.

Chẳng hạn, giữa Nguyễn Công Hoan và Nam Cao, Xuân Diệu và Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân và Nguyễn Minh Châu…

Đặc điểm 3 :Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Phong cách là nét riêng không trùng lặp.

Sự thật có thể là một, nhưng cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn phải có màu sắc khác nhau và độc đáo. L. Tônxtôi nói: “Khi ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm văn học nghệ thuật của một tác giả mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: Nào, anh ta là con người thế nào đây nhỉ? Anh ta có gì khác với tất cả những người mà tôi đã biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc vần phải nhìn cuộc sống của chúng ta như thế nào?”
[L. Tônxtôi toàn tập].

Ví dụ:

Cùng thể hiện khả năng trào phúng, hai nhà văn cùng thời Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng vẫn tạo được những phong cách khác nhau:

+ Nguyễn Công Hoan cười nhẹ nhàng, thâm thúy bằng cách dựng lên những tình huống trớ trêu, nghịch lý [kiểu Kép Tư Bền, Người ngựa, ngựa người…];

+ Vũ Trọng Phụng cười chua chát, sâu cay, quyết liệt, như muốn ném thẳng lời nguyền rủa vào mặt người ta [kiểu Số Đỏ].

Đặc điểm 4 :Phong cách nghệ thuật là sự ổn định, nhất quán [đương nhiên không phải tuyệt đối].

Ví dụ: Nguyễn Tuân, trải qua hai thời kỳ sáng tác, có những chuyển biến về tư tưởng sáng tác khá rõ nét, nhưng vẫn giữ một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác. Có khác:

+ Trước cách mạng, ông ưa viết theo cách ngông, nổi loạn chống lại cái tầm thường, phàm tục ở đời. Cái Đẹp nhiều khi phóng túng.

+ Còn sau cách mạng: ông ưa viết theo cách tự tin, tự hào, tự trọng về tài năng và bản lĩnh của mình. Cái Đẹp vẫn được đặt trong tư thế thử thách gai góc nhưng bình dị, chân thực hơn.

Đặc điểm 5 :Phong cách nghệ thuật biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Điều này tùy thuộc vào tài năng, sở trường của mỗi nhà văn.

– Có thể biểu hiện ở việc chọn đề tài
[có nhà văn chỉ thích đề tài nông thôn, có người lại ưa và chỉ chọn đề tài thành thị, có người thích những hiện thực mang tính chất nhẹ nhàng, giản dị, thâm trầm, cũng có người lại thích khai thác những chuyện dữ dội, đau đớn, ám ảnh mãnh liệt đối với con người…].

– Có thể biểu hiện ở việc chọn thể loại
[mỗi nhà văn chỉ viết thành công nhất ở một thể loại, thể loại ấy chính là phong cách của họ].

– Có thể biểu hiện ở sự vận dụng ngôn ngữ[có nhà văn ưa dùng thứ văn nhẹ nhàng, êm đềm, sâu lắng, nhưng có người lại luôn tỉnh táo, sắc lạnh đến tàn nhẫn; có người ưa lối nói dí dỏm mà thâm thúy, người lại thích lối nói sắc sảo, dữ dội, sâu cay…].

– Có thể biểu hiện ở giọng điệu[Có nhà văn thường tạo nên một giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, ân nghĩa; trong khi người khác lại thành công với giọng điệu thấm đẫm chất triết luận…].

– Có thể biểu hiện ở cách xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm[kiểu nhân vật chân dung – Nguyễn Tuân; kiểu nhân vật tâm lý – Nam Cao; kiểu nhân vật cảm giác – Thạch Lam, kiểu nhân vật đấu tranh – Nguyễn Minh Châu [trong sáng tác sau năm 1975], kiểu nhân vật CON – NGƯỜI – Nguyễn Huy Thiệp…].

Đặc điểm 6 : Phong cách nghệ thuật là nét riêng, đậm tính cá thể, nhưng phải có liên hệ mật thiết với hệ thống chung các phong cách của một thời đại văn học.

Ví dụ: Phong cách của các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… trước cách mạng tháng Tám đều nằm trong phong cách lãng mạn của trào lưu Thơ mới lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945.

Đồng thời, phong cách nghệ thuật chỉ có giá trị khi nó thực sự cống hiến cho sự tồn tại và phát triển phong phú, đa dạng của văn học dân tộc nói chung.

Đặc điểm 7 : Phong cách sáng tác chịu ảnh hưởng của những phương diện tinh thần khác nhau như tâm lý, khí chất, cá tính của người sáng tác. Đồng thời, nó cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại.

Mỗi một thời đại lịch sử và thời đại văn học tương ứng có thể tạo ra những phong cách sáng tác mang đặc trưng riêng:

+ Chẳng hạn phong cách Hồ Xuân Hương trong thời Trung đại còn nặng nề ý thức hệ phong kiến, văn học chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan điểm phi ngã;

+ Phong cách Nguyễn Tuân trong thời Pháp thuộc, phát triển một khuynh hướng văn học – văn học lãng mạn, bộc lộ đầy đủ, sâu sắc cái tôi nghệ sĩ tài hoa, phóng khoáng.

Nội dung do Lý Trần Quốc Việt sưu tầm.

Xem thêm:

Tham khảo các tài liệu về Lí luận văn học tại chuyên mục: //thichvanhoc.com.vn/tai-lieu/ly-luan-van-hoc/

Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB Thích Văn Học

Phong cách văn họcNghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, sáng tạo. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cho riêngmình một phong cách nghệ thuật nổi bật, khiến người thưởng thức cảm nhận được những nétriêng biệ, rất mới lạ, đầy bất ngờ,...khơi gợi sự thú vị, lòng hăng say...trong những món ăn tinhthần được sáng tạo dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đó. Không nằm ngoài lĩnh vực nghệthuật nên văn học luôn đòi hỏi người sáng tác phải có một phong cách riêng độc đáo. Nói nhưNam Cao, thì “ văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểumẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nhữngnguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có [Đời thừa]”.Lao động của nhà văn là lao động sáng tạo, nên dù muốn hay không, mỗi nhà văn phải tạo chomình một nét riêng, một phong cách nghệ thuật không trộn lẫn. Do đó, có thể coi phong cách làdấu ấn riêng của người nghệ sĩ in đậm trong các sáng tác nghệ thuật của họ.Phong cách văn học là một phạm trù thẩm mĩ thể hiện sự tương đối ổn định của hệ thốnghình tượng, các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo, sáng tạo trong quátrình sáng tác của nhà văn giữa trào lưu văn học - văn hóa dân tộc hayxuyeen suốt dòng chảythơ văn của cả một thời đại. Phong cách văn học đem đến cái nhìn mới mẻ, khác lạ của nhà văntrong việc cảm nhận và phản ánh cuộc sống. Buy-phông đã từng nói: “phong cách chính làngười”. Nó là điều còn lại, là hạt nhân cốt lõi sau khi từ nhà văn, chúng ta bóc đi những cáikhông phải là của bản thân anh ta với tất cả những thứ anh ta giống với người khác.Phong cách nghệ thuật dánh dấu sự trưởng thành và bản lĩnh cá nhân của nhà văn trong sángtác. Song không phải nhà văn nào cũng có thể tạo cho mình một dấu ấn cá nhân; không phảiphong cách nào cũng độc đáo và có giá trị. Bởi mỗi tác giả có một cách nhận thức và phản ánhnhận thức của mình, tuy nhiên chỉ riêng sự khác biệt chưa thể làm nên phong cách. Chỉ nhữngnhà văn có bản lĩnh và tài năng mới đủ sức tạo ra những nét riêng độc đáo, lặp đi lặp lawij mangtính thống nhất trong cả nội dung hoặc hình thức tác phẩm, như một loài hoa mang màu sắc vàhương thơm riêng. Hay nói cách khác, nhà văn phải có gia tài văn học vừa đa dạng, phong phútừ thể loại đến số lượng..., vừa có giá trị mà các tác phẩm của họ hợp thành một thể thốngnhất, độc đáo. Đó là những dấu ấn quen thuộc giúp độc giả nhận ra gương mặt của nhà văn, làcái đích mà mỗi nhà văn chân chính đặt ra trong quá trình sáng tạo.Phong cách văn học có những biểu hiện đa dạng, phong phú:1. Thứ nhất là qua cách nhìn, cách cảm mang tính khám phá. Mỗi nhà văn luôn muốn tạocho mình một hướng quan sát và khám phá riêng về hiện thực cuộc sống. Hay nói nhưMacxen Pruxt: “Đối với nhà văn cũng như người [nghệ sĩ] họa sĩ, phong cách không phảilà vấn đề kĩ thuật mà là vấn đề cái nhìn.”Trong những tác phẩm văn xuôi thời kì 1930 – 1945, Ngô Tất Tố quan tâm tới số phậncơ cực của những người người nông dân trong cảnh bần cùng hóa [Tắt đèn]; Nam CaoĐặc biệt quan tâm tới sự tha hóa của con người trước những tác động nghiệt ngã củahoàn cảnh sống [Đời thừa, Chí Phèo]; Thạch Lam lại lo âu trước tình trạng sống nhàmchán, vô nghĩa, buồn tẻ của những số phận trong xã hội [Hai đứa trẻ]...Cách nhìn con người cũng làm nên phong cách riêng của mỗi nhà văn. Nhân vật củaNguyễn Tuân luôn là những biểu tượng của cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Nhân vật củaNam Cao trong những sáng tác trước 1945 như những mảnh vỡ của bi kịch khi mọi ướcmơ, khát vọng cao đẹp lần lượt bị hủy hoại trước thực tế. Với Nguyễn Công Hoan,những con người xuất hiện trong sáng tác của ông thường ngô nghê, khờ khạo trướcnhững cạm bẫy cuộc đời. Rất nhiều đứa con tinh thần của Vũ Trọng Phụng xuất hiện nhưnhững nhân cách méo mó trong một thế giới “vô nghĩa lí”.2. Phong cách còn là giọng điệu riêng của mỗi tác giả. Trong “Một thời đại trong thi ca”.Hoài Thanh và Hoài Chân đã giúp ta nhận mặt thi nhân Việt: “một hồn thơ rộng mở nhưThế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như NguyễnNhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên...và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Đó chính là những nét khắc họa tinh tếcủa Hoài Thanh và Hoài Chân về phong cách của mỗi nhà thơ trong phong trào thơ mới1932 – 19453. Phong cách còn thể hiện qua quan niệm của nhà văn về cuộc sống con người thông quaviệc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lí giải vấn đề về cuộc sống con người, cáchchọn nhân vật. [ví dụ: giống mục 1].4. Phong cách cũng được tạo bởi những yếu tố hình thức như tư duy nghệ thuật, ngônngữ, kết cấu tác phẩm, thể loại,...M.Gorki đã từng nhận xét: “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủquan của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và làm cho những ấn tượngấy có được hình thức riêng”.Thơ Nguyễn Đình Thi đậm chất tạo hình: Ôi những cánh đồng quê chảy máuDây thép gai đâm nát trời chiềuThơ Tố Hữu lại nghiêng về biểu cảm, thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng, triết lí mangvẻ đẹp trí tuệ sâu sắc,... Ngôn ngữ văn Kim Lân dung dị đời thường,... Truyện không cócốt truyện, mỗi truyện ngắn tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, đó là phong cáchđộc đáo của văn Thạch Lam. Những thiên tùy bút tài hoa phóng túng mang đậm dấu ấncủa cái “tôi” cá nhân được coi là thể loại đắc địa cho nhà văn Nguyễn Tuân. Thể thơ lụcbát quê kiểng, ngọt ngào như dành riêng để Nguyễn Bính gửi gắm những tâm tình mộcmạc chân quê trong tác phẩm của mình.Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá một nghệ sĩ là ở chỗ anh ta có đem lại một cái gì mớimẻ riêng biệt hay nói chính xác là một phong cách độc đáo cho nền văn học dân tộc haykhông. Không phải ngẫu nhiên, Tagore lại nói: “Có thể vượt qua thế giới lớn lao của loàingười không phải bằng cách tự xóa mình đi mà bằng cách mở rộng bản sắc của chínhmình”. Hiểu nôm na ra, nghệ thuật phải thống nhất trong bản chất cốt lõi nhưng cáchtriển khai lại đa dạng, đổi mới. Phong cách nghệ thuật không phải là sự bất biến cố định,mà khi triển khai phải phong phú, đa dạng và đổi mới.Phong cách là thước đo của nghệ thuật. Phong cách độc đáo được biểu hiện ở tính thẩmmĩ cao, đem đến cho người đọc sự hưởng thụ dồi dào qua những tác phẩm giàu tínhnghệ thuật sinh động và hấp dẫn.Mỗi công dân có một dạng vân tayMỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ không trộn lẫn.Vậy phong cách bắt nguồn từ đâu?1. Phong cách văn học nảy sinh do chính nhu cầu của cuộc sống, xã hội: luôn đòi hỏi sựxuất hiện của nhân tố mới chưa lặp lại bao giờ.Ở mỗi thời đại nhất định, do sự chi phối của những điều kiện văn hóa lịch sử, xã hội cụthể, các sáng tác văn học có thể có những nét chung về tư duy nghệ thuật và kĩ thuậtbiểu hiện. Thời cổ đại, con người bị chi phối nghiệt ngã bởi điều kiện khách quan củahoạt động sinh tồn, hoàn toàn phụ thuộc vào cộng đồng, trở thành một bộ phận khôngthể tách rời của cộng đồng, các nhân vật văn học không được khắc họa cá tính riêng m,àđược xây dựng như những đại diện ưu tú cho sức mạnh, vẻ đẹp và phẩm chất của cộngđồng – đó là trường hợp của Đăm Săn trong trường ca Đăm Săn. Chế độ phong kiến vớinhững ràng buộc nghiêm ngặt của tam cương, ngũ thường cũng là nguyên nhân tạo nêntính quy phạm của văn học Trung đại. Cụ thể, đó là quan điểm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩngôn chí”, là sự tư duy nghệ thuật theo những khôn mẫu ở một số thể loại văn học vớinhững quy định chặt chẽ về kết cấu, niêm luật, hệ thống điển tích, điển cố và những thiliệu văn học quen thuộc... Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dàisuốt 30 Năm đòi hỏi sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, Bác Hồ...đó là hoàn cảnh đặc biệt của xã hội Việt Nam từ thời kì 1945 – 1975 chi phối tính chấtchung của một nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Côngcuộc đổi mới đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI [1986] đã đem đến cho đời sốngvăn học một luồng gió mới, văn học dần vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tínhnhân bản, nhân văn sâu sắc. Đề tài được mở rộng từ hiện thực đời sống chính trị - xã hộiđén những mảng hiện thực bề bộn, phức tạp của cuộc sống. Sự vận đọng xuôi chiều lạcquan, tươi sáng trong những mô típ chủ đề hữu hạn và đơn nhất trước 1975 đã được bổsung và đi sâu vào diễn biến đầy bất ngờ, bí ẩn trong tính đa nghĩa của các tầng bậc chủđề. Từ thuần túy là những nhân vật loại hình với chức năng cơ bản của cộng đồng, biểudương chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam, nhân vật vănhọc sau năm 1975 luôn được khám phá và thể hiện ở chiều sâu cảm thức, giúp nhà vănphản ánh những hiện thực phong phú, phức tạp của cuộc sống đời thường...Mỗi đất nước, mỗi dân tộc với đặc điểm riêng về văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán,...sáng tác văn học cũng sẽ mang những đặc điểm phong cách đặc thù. Tinh thần thiềntông và đặc điểm văn hóa phương Đông là nét riêng độc đáo trong những bài thơ Hai-cưtinh tế, hàm súc của các nhà thơ Nhật Bản. Quan niệm “quý hồ tinh bất quý hồ đa” cũnglà một trong những nhân tố tạo nên nét đặc sắc của những bài thơ tứ tuyệt Việt Namthời Trung đại.2. Phong cách văn học còn bắt nguồn do nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, nhu cầu khẳng địnhbản lĩnh, tìm tòi cái mới của nhà văn để tạo nên tính hấp dẫn, sức sống cho tác phẩmcủa mình.M.Gorki nhận xét: “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật” cũng là vì lẽ đó.Ý nghĩa của phong cách văn họcPhong cách văn học chính là dấu ấn thẩm mĩ, là gương mặt riêng độc đáo trong thế giới nghệthuật của mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học, giai đoạn văn học hoặc một nền văn học. Qua đó,nó giúp nghệ sĩ khẳng định cái tôi cá nhân tài hoa độc đáo, vừa tài năng, bản lĩnh khác ngườ,thậm chí là hơn ngườ của nhà văn; giúp tác phẩm hấp dẫn người đọc, tạo nên sức mạnh củatrường phái hoặc trào lưu văn học; đánh dấu bước phát triển của quá trình văn học và lịch sử.Tiếp nhận văn học từ góc độ phong cách văn học không chỉ đem đến cho người đọc nhữngcảm xúc thẩm mĩ dồi dào, mà còn giúp nhận thức sâu sắc hơn những yếu tố quan trọng trongquá trình văn học như: quan niệm nghệ thuật về con người, giá trị văn học, quy luật phát triểncủa văn học...Hoa Huyền Hương – Sưu tầm và chỉnh sửa

Chủ Đề