Có bao nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lý người phổ biến

các phương pháp nghiên cứu là các công cụ để thu thập dữ liệu, xây dựng và trả lời các câu hỏi để đưa ra kết luận thông qua phân tích hệ thống và lý thuyết được áp dụng cho bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào.

Nghiên cứu bao gồm một số kỹ thuật rất hữu ích cho các nhà xã hội học, nhà tâm lý học, nhà sử học, nhà báo, học giả, nhà khoa học, nhà văn, trong số các nhà nghiên cứu khác.

Có bao nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lý người phổ biến

Truy cập thông tin đòi hỏi trong nhiều trường hợp tìm kiếm toàn diện, sử dụng nguồn tài liệu và nguồn nhân lực thông qua các phương pháp thu thập và thang đo thống kê khác nhau để đánh giá kết quả.

Các phương pháp nghiên cứu xác định vị trí và phân định một vấn đề, cho phép thu thập dữ liệu quan trọng để tạo ra các giả thuyết được kiểm tra hoặc hỗ trợ sau đó. Theo cách này, các quyết định có thể được đưa ra phù hợp hơn với trường hợp nghiên cứu.

Phương pháp được sử dụng có thể bao gồm trong nhiều trường hợp: phỏng vấn, khảo sát, phân tích nhân khẩu học, rủi ro hoặc đe dọa, dữ liệu lịch sử và đương đại, ấn phẩm, sách và các kênh nghiên cứu khác.

Sử dụng một loạt các thủ tục, nghiên cứu được kích thích để tìm ra sự thật chưa được khám phá cho đến nay hoặc đơn giản là chưa được xác định hoặc nghiên cứu kỹ lưỡng để có được kết luận đáng tin cậy..

Mặc dù mỗi nghiên cứu đã xác định mục đích, một loạt các mục tiêu có thể được bao gồm trong các tìm kiếm này: để đạt được kiến ​​thức mới, để biết các đặc điểm của tình huống, nhóm hoặc người, để xác định tần suất của một sự kiện hoặc kiểm tra giả thuyết theo nguyên nhân và các biến số, trong số các mục tiêu khác..

Các loại phương pháp nghiên cứu

Các yếu tố thúc đẩy của một cuộc điều tra là rất quan trọng để biết con đường sẽ dẫn đến cuộc họp của câu trả lời khi hiểu các giả thuyết được đưa ra bởi suy luận, quan sát hoặc thử nghiệm của vụ án.

Mỗi phương pháp nghiên cứu được sử dụng sẽ phụ thuộc vào đặc điểm của tình huống cần nghiên cứu và các yêu cầu của nó để có thể lựa chọn quy trình phù hợp nhất với các mục tiêu đề ra trong nghiên cứu..

Phương pháp định lượng

Mục đích của phương pháp này là phơi bày và tìm hiểu kiến ​​thức mở rộng về một trường hợp thông qua dữ liệu chi tiết và các nguyên tắc lý thuyết.

Nó đòi hỏi một sự hiểu biết về hành vi của con người và lý do cho nó. Trong phương pháp này, đối tượng nghiên cứu được coi là bên ngoài, tách biệt khỏi mọi suy nghĩ cá nhân để đảm bảo tính khách quan nhất có thể.

Nghiên cứu của ông là quy phạm, chỉ ra các luật chung liên quan đến nghiên cứu trường hợp.

Việc thu thập dữ liệu thường bao gồm các bài kiểm tra khách quan, dụng cụ đo lường, số liệu thống kê, bài kiểm tra, trong số những thứ khác. Nó được chia thành nghiên cứu có sự tham gia, hành động và dân tộc học.

Phương pháp định tính

Nó dựa trên nguyên tắc thực chứng và tân thực chứng và mục tiêu của nó là nghiên cứu các giá trị và hiện tượng định lượng để thiết lập và củng cố một lý thuyết đưa ra.

Tập trung vào chủ quan và cá nhân từ góc độ nhân văn, thông qua giải thích, quan sát, phỏng vấn và câu chuyện.

Trong phương pháp này, các mô hình toán học và lý thuyết liên quan đến các tình huống được sử dụng. Nó được sử dụng thường xuyên trong khoa học tự nhiên, sinh học, vật lý, trong số những người khác.

Có thể bạn quan tâm đến nghiên cứu định tính và định lượng: Đặc điểm và sự khác biệt.

Phương pháp quy nạp

Thông qua phương pháp này, các tình huống cụ thể có thể được phân tích thông qua một nghiên cứu riêng lẻ về các sự kiện hình thành nên kết luận chung, giúp khám phá các chủ đề và lý thuyết tổng quát bắt đầu từ quan sát thực tế có hệ thống..

Đó là, nó đề cập đến việc xây dựng các giả thuyết dựa trên kinh nghiệm và quan sát các yếu tố nghiên cứu để xác định các định luật thuộc loại chung. Bao gồm việc thu thập dữ liệu được sắp xếp theo các biến để tìm kiếm sự đều đặn.

Phương pháp suy diễn

Nó đề cập đến một phương pháp bắt đầu từ cái chung để tập trung vào cái cụ thể thông qua lý luận và giả thuyết logic có thể hỗ trợ cho kết luận cuối cùng.

Quá trình này dựa trên các phân tích được trình bày ở trên, luật và nguyên tắc được xác thực và xác minh để áp dụng cho các trường hợp cụ thể.

Trong phương pháp này, tất cả các nỗ lực nghiên cứu dựa trên các lý thuyết thu thập được, không dựa trên quan sát hoặc kinh nghiệm; nó bắt đầu từ một tiền đề để phác thảo và kết luận tình hình nghiên cứu, trừ đi cách thực hiện để thực hiện các giải pháp.

Có thể bạn quan tâm đến Phương pháp quy nạp và suy diễn: Đặc điểm và sự khác biệt.

Phương pháp phân tích

Nó chịu trách nhiệm phá vỡ các phần tạo nên toàn bộ vụ việc cần nghiên cứu, thiết lập các mối quan hệ nguyên nhân, kết quả và tự nhiên.

Dựa trên các phân tích được thực hiện, các phép loại suy và các lý thuyết mới có thể được tạo ra để hiểu các hành vi.

Nó phát triển theo cách hiểu cụ thể đến trừu tượng, phân tách các yếu tố cấu thành lý thuyết chung để nghiên cứu sâu hơn từng yếu tố riêng biệt và theo cách này để biết bản chất của hiện tượng nghiên cứu để tiết lộ bản chất của nó.

Phương pháp tổng hợp

Tìm kiếm sự tái cấu trúc của các thành phần phân tán của một đối tượng hoặc sự kiện để nghiên cứu chúng sâu hơn và tạo ra một bản tóm tắt của từng chi tiết.

Quá trình của phương pháp này được phát triển từ trừu tượng đến cụ thể, để tập hợp từng phân khúc tạo nên một đơn vị và để hiểu nó..

Bằng phương pháp lý luận và tổng hợp, các yếu tố quan trọng nhất của phân tích được nghiên cứu một cách có phương pháp và ngắn gọn để đạt được sự hiểu biết thấu đáo về từng phần và tính đặc biệt của những gì đã được nghiên cứu..

Có thể bạn quan tâm Phương pháp tổng hợp phân tích là gì?

Phương pháp khoa học

Nó cung cấp một tập hợp các kỹ thuật và quy trình để có được kiến ​​thức lý thuyết có giá trị và xác minh khoa học thông qua việc sử dụng các công cụ đáng tin cậy không làm tăng tính chủ quan.

Thông qua một số thí nghiệm, khả năng tái tạo cùng một thực tế được thể hiện bằng cách sử dụng cùng một cơ chế trong các bối cảnh khác nhau được vận hành bởi các cá nhân khác nhau.

Phương pháp này có khả năng cung cấp câu trả lời hiệu quả và đã được chứng minh về một trường hợp nghiên cứu.

Nó được coi là một trong những thủ tục hữu ích nhất vì nó cho phép giải thích các hiện tượng một cách khách quan, cung cấp giải pháp cho các vấn đề nghiên cứu và khuyến khích việc tuyên bố luật pháp.

Sự phát triển của nó rất nghiêm ngặt và hoàn toàn hợp lý theo cách có trật tự với các nguyên tắc thuần túy và hoàn chỉnh đang tìm cách sửa chữa và cải tiến để chinh phục, sắp xếp và hiểu các kiến ​​thức thu thập được.

Phương pháp so sánh

Đây là một quá trình tìm kiếm các điểm tương đồng và so sánh có hệ thống phục vụ cho việc xác minh các giả thuyết để tìm mối quan hệ và dựa trên tài liệu của nhiều trường hợp để thực hiện các phân tích so sánh..

Về cơ bản bao gồm việc đặt hai hoặc nhiều yếu tố cạnh nhau để tìm sự khác biệt và mối quan hệ và do đó để xác định một trường hợp hoặc vấn đề và hành động trong tương lai.

Sử dụng so sánh rất hữu ích trong việc hiểu một chủ đề vì nó có thể dẫn đến các giả thuyết hoặc lý thuyết mới về tăng trưởng và cải tiến.

Nó có một số giai đoạn trong đó việc quan sát, mô tả, phân loại, so sánh và kết luận của nó nổi bật.

 Tài liệu tham khảo

  1. Bisquerra, R. Phân loại phương pháp nghiên cứu. (1989). Lấy từ: dip.una.edu.ve.
  2. Derek Garrison. Phương pháp điều tra. Nguồn: nersp.nerdc.ufl.edu.
  3. C.R Kothari. Phương pháp nghiên cứu. (2004). Đã phục hồi từ: modares.ac.ir.
  4. Phương pháp điều tra. Nguồn: learn-ict.com.
  5. Martyn Shuttleworth. Phương pháp điều tra khác nhau. Nguồn: explitable.com.
  6. Francisco bijarro Hernández. Phát triển chiến lược cho nghiên cứu khoa học. Lấy từ: eumed.net.

1. Khái niệm về phương pháp quan sát

Một trong những phương pháp tốt nhất và thường được sử dụng trong nghiên cứu tâm lý người là phương pháp quan sát. Phương pháp quan sát khoa học là phương pháp nghiên cứu có mục đích dựa trên việc tri giác các hành vi, cử chỉ, lời nói của con người trong các điều kiện tự nhiên.

Quan sát khoa học khác quan sát đời thường ở chỗ:

- Tuân theo mục đích nghiên cứu.

- Tuân theo cách thức nhất định.

- Được ghi chép theo cách thức nhất định.

- Mang tính hệ thống.

- Thông tin thu được phải được kiểm tra tính ổn định và tính hiệu lực.

Phương pháp quan sát một cách khoa học được xác định bởi các đặc điểm chủ yếu sau:

Phương pháp quan sát hướng vào quá trình, ý nghĩa của các hành động riêng lẻ và mối liên hệ của các hành động.

Quan sát biểu hiện bên ngoài, thông qua đó để đoán biết những đặc điểm tâm lý bên trong. Có thể quan sát nét mặt, cử động tay, chân, di chuyển cơ bản, tốc độ, phương hướng, chuyển động, sự va chạm của cá nhân với các vật thể và người khác, nội dung của lời nói, thể hiện ở nguôn từ, ngữ điệu, âm điệu, cường độ của lời nói, sử dụng định hướng, tần số của cử chỉ... kết hợp lại để xác định hành vi chung của con người.

Quan sát trong tâm lý học cũng tuân thủ những nguyên tắc chung cho bất kỳ quan sát khoa học nào. Đó là, phù hợp với mục đích nghiên cứu, kế hoạch hóa và tiến hành quan sát tương tác giữa các cá nhân theo một sơ đồ nhất định, diễn tả các hiện tượng và sự kiện mà chúng ta tri giác được bằng ngôn ngữ thích hợp sao cho người quan sát khác hiểu được, lựa chọn các phương pháp quan sát và ghi lại tùy theo tính chất hoạt động của con người và khả năng quan sát, kiểm tra tính khách quan và độ tin cậy của việc quan sát bằng những nhà nghiên cứu khác và những cách nghiên cứu khác, cần phân biệt được ý nghĩa chủ quan của người quan sát và ý nghĩa chủ quan của hành động được quan sát.

E.C. Kuzơmin chỉ ra 3 yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sử dụng thành công của phương pháp quan sát là:

- Xác định rõ ràng mục đích

- Xây dựng sơ đồ quan sát phù hợp: thiết kế bối cảnh sao cho nhận diện dễ dàng các phần tử được quan sát (mẫu, thời gian, không gian quan sát).

- Xây dựng phương pháp ghi lại thích hợp.

Việc xây dựng sơ đồ quan sát được tiến hành theo nguyên tắc sau:

- Trước hết, người ta quan sát bối cảnh ghi lại tất cả những điều xảy ra và sắp xếp theo các phạm trù nhánh.

- Dựa vào các giả thuyết hoặc từ một lý thuyết xác định các khía cạnh quan sát quan trọng và để xây dựng sơ đồ quan sát.

2. Phân loại phương pháp quan sát

Dựa vào cách thức tổ chức quan sát người ta chia phương pháp quan sát thành một số loại như sau:

2.1. Quan sát không can thiệp

Quan sát hành vi trong bối cảnh không có tác động của người quan sát thường được gọi là quan sát kín. Trong trường hợp này, người quan sát ghi chép một cách thụ động những gì xảy ra. Các sự kiện diễn ra một cách tự nhiên và không bị thay đổi hay bị điều khiển bởi người quan sát. Trong bối cảnh tự nhiên, hành vi thường xảy ra không có sự sắp xếp đặc biệt nào cho mục đích ghi chép. Lý do quan trọng để tạo ra bối cảnh tự nhiên là chứng minh những mối quan hệ khác nhau đã được phát hiện trong phòng thí nghiệm. Quan sát không can thiệp được sử dụng khi xác định giá trị thực của các kết quả nghiên cứu. Mục đích chính của phương pháp này là miêu tả hành vi như nó thường xảy ra và điều tra mối quan hệ giữa các thông số, biến số khác nhau thường diễn ra.

Một nghiên cứu của các nhà tâm lý học quan tâm đến việc vui chơi của trẻ em co thể quay băng một đưa trẻ đang chơi một cách tự nhiên trong ba hay bốn môi trường khác nhau như ở trường, ở công viên, ở nhà và chơi với các bạn. Các nhà nghiên cứu có thể xem lại các cuốn băng, mỗi quấn băng phản ánh các khía cạnh khác nhau của hoạt động vui chơi của trẻ. Các băng video con có thể được chiếu chậm để xem lại từng khung cảnh, giúp cho việc phân tích các hành động vui chơi một cách chi tiết. Các biểu biện trên nét mặt cũng được nghiên cứu nhờ sử dụng phương pháp này.

2.2. Quan sát có can thiệp

Đặc trưng của phương pháp này là nhà nghiên cứu muốn can thiệp vào tự nhiên nhằm làm sáng tỏ một điểm nào đó của trắc nghiệm hoặc một lý thuyết.

Phương pháp này được sử dụng nhiều hơn phương pháp quan sát không can thiệp trong nghiên cứu tâm lý. Có nhiều lý do dẫn tới việc sử dụng quan sát có can thiệp:

- Để xúc tiến hoặc tạo ra một sự kiện thường ít xảy ra trong tự nhiên hoặc xảy ra bình thường nhưng trong điều kiện khó quan sát.

- Để điều tra những giới hạn trong sự đáp ứng của con người bằng cách thay đổi có hệ thống những thuộc tính của hiện tượng được quan sát.

- Để thâm nhập vào một tình huống thường khó quan sát về mặt khoa học.

- Để tạo ra điều kiện khiến cho những hiện tượng quan trọng được kiểm soát và những hành vi có thể quan sát được một cách thuận lợi.

- Để thiết lập sự so sánh bằng cách tác động lên một hoặc nhiều thông số độc lập để xác định hiệu quả của chúng đối với hành vi.

Quan sát có can thiệp có 3 dạng cơ bản sau: Quan sát có tham gia, quan sát có cấu trúc và quan sát thực nghiệm.

2.2.1. Quan sát có tham gia

Quan sát có tham gia là người quan sát hành vi giữ vai trò tích cực và có ý nghĩa trong tình huống mà hành vi đó được ghi lại. Trong quan sát có tham gia không cần phải ngụy trang, những cá nhân được quan sát biết người quan sát có mặt, nhằm mục đích thu thập thông tin về hành vi của họ. Khi người quan sát không được các thành viên biết thì đó là sự quan sát có tham gia nhưng ngụy trang. Phương pháp này được sử dụng nhiều trong tâm lý học khi nghiên cứu hành vi của một nhóm người.

Việc quan sát có tham gia cho phép người quan sát tham gia vào những tình huống thường khó quan sát về mặt khoa học. Ngoài ra người quan sát thường ở vào vị trí để có những hành động, suy nghĩ như người bị quan sát. Nó tạo điều kiện để hiểu được cá nhân hoặc nhóm.

Sự hiện diện của người quan sát có thể làm nảy sinh một số vấn đề sau:

- Có thể người quan sát làm mất tính khách quan mà việc quan sát đòi hỏi. Bản thân người quan sát có thể thay đổi trong quá trình quan sát mà trước đó không dự đoán được.

- Tác động của người quan sát đối với hành vi của người bị quan sát. Điều này dễ xảy ra khi người quan sát giữ vai trò nhóm trưởng hoặc có quan hệ với những người ra quyết định... Như vậy rất khó khái quát kết luận này cho những tình huống khác nhau nếu sự can thiệp tạo nên hành vi mà nó đặc thù cho những điều kiện và hiện tượng mà người quan sát tạo nên.

Ảnh hưởng của người quan sát đến hành vi đang quan sát phụ thuộc vào sự quan sát được ngụy trang hay không được ngụy trang, vào quy mô nhóm, vai trò của người quan sát trong nhóm. Khi nhóm được quan sát là nhỏ hoặc những hành động của nó là rõ ràng thì ảnh hưởng của người quan sát đến hành vi của đối tượng là đáng kể.

2.2.2. Quan sát cấu trúc

Đó là quá trình quan sát có sự kiểm soát của nhà nghiên cứu nhưng mức độ kiểm soát ít hơn trong thực nghiệm.

Quan sát can thiệp vào nhằm làm cho một hiện tượng hay tình huống xảy ra, hoặc dựng lên một tình huống để dễ dàng ghi lại những hành vi khó quan sát. Trong một số trường hợp, người quan sát có thể tạo nên những quy trình để quan sát một hành vi riêng lẻ một cách đầy đủ hơn.

Quan sát cấu trúc có thể tiến hành trong tự nhiên hoặc thực nghiệm.

2.2.3. Quan sát trong thực nghiệm

Thực nghiệm là qui trình được tiến hành khi người quan sát điều khiển một hoặc nhiều thông số tự do trong môi trường tự nhiên nhằm xác định hiệu quả của chúng đối với hành vi. Khi tiến hành thực nghiệm trên hiện trường, người quan sát kiểm soát được diễn biến của hiện tượng nhằm mục đích đo lường một cách hệ thống hiệu quả của một thông số nào đó lên hành vi. Người ta sử dụng việc kiểm soát và so sánh các nhóm. Trong quan sát này, người quan sát đưa ra nhiệm vụ cho các đối tượng. Trong tâm lý học, phương pháp quan sát này được dùng nhiều nhất. Trong nhiều trường hợp, đối tượng không biết rằng họ đang tham gia vào một cuộc thực nghiệm. Trong thực nghiệm ở hiện trường, nhà nghiên cứu sử dụng người cùng tham gia. Đó là người mà nhà nghiên cứu đã hướng dẫn để tạo nên tình huống cần nghiên cứu. Thực nghiệm trên hiện trường đòi hỏi phải có kiến thức thực hành đầy đủ.

Một nghiên cứu về sự ảnh hưởng cảm xúc của người lớn tới cảm xúc của trẻ 2 tuổi được tiến hành như sau: từng cặp trẻ em được mang tới phòng chơi thí nghiệm cùng với mẹ của chúng. Trong khi trẻ chơi, hai người lớn vào phòng và đầu tiên tiếp xúc với trẻ một cách thân thiện, vui vẻ, tiếp theo là tỏ vẻ giận giữ và cuối cùng lại là phong cách thân thiện. Các phản ứng về cảm xúc của trẻ 2 tuổi (đặc biệt là các biểu hiện trên cơ thể và nét mặt về sự lo lắng và các âm thanh như khóc) trong các giai thực nghiệm khác nhau được các quan sát viên ghi lại. Bên cạnh đó, một nhóm trẻ nhất định chứng kiến người lớn tham gia vào ba cuộc giao tiếp bình thường. Kết quả cho thấy sự thay đổi thành giận giữ của người lớn tạo ra những lo lắng đáng kể hơn đối với trẻ 2 tuổi so với phản ứng của chúng với sự thay đổi thành thân thiện.

2.3. Tự quan sát

Tự quan sát cũng được nhà tâm lý học sử dụng, đó là các hình thức tự viết tiểu sử, thư, nhật ký, tự phân tích các câu hỏi. Việc tự quan sát có hệ thống thường được tiến hành dưới dạng những câu trả lời cho các phiếu điều tra do người nghiên cứu đề ra.

3. Quy trình quan sát

Theo các nhà tâm lý học, quan sát thường có những quá trình cơ bản sau:

- Xác định mục đích, nhiệm vụ quan sát (quan sát để làm gì, nhằm mục đích gì).

- Lựa chọn khách thể, đối tượng, tình huống quan sát (quan sát cái gì).

- Lựa chọn phương pháp quan sát ảnh hưởng nhất đến đối tượng được nghiên cứu và bảo đảm thu nhập được những thông tin cần thiết (quan sát như thế nào).

- Lựa chọn các phương pháp ghi chép những điều đã quan sát (ghi chép như thế nào).

- Xử lý và phán đoán thông tin đã thu được (kết quả như thế nào).

Nhiệm vụ quan sát là định hướng ban đầu về khách thể, đề xuất giả thuyết, kiểm tra giả thuyết, chính xác hóa những kết quả thu được nhờ những phương pháp khác. Khách thể quan sát có thể là những con người cụ thể trong các tình huống giao tiếp khác nhau trong nhóm lớn, nhóm nhỏ, trong cộng đồng. Những tình huống quan sát có thể là tình huống tự nhiên hoặc thực nghiệm do người quan sát điều khiển hay không điều khiển, bất chợt hoặc có tổ chức, theo chuẩn hay không theo chuẩn, bình thường hay cực đoan, khác nhau về dạng hoạt động, về sự tiếp xúc, và mối quan hệ qua lại giữa con người, về tình huống giao tiếp...

Đối tượng của quan sát trong tâm lý học là những hành động, ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của hành vi con người đang xảy ra trong một nhóm hay vài nhóm, trong môi trường và tình huống nhất định. Có thể quan sát những loại hành động sau:

- Những hành động nói, nội dung của chúng, tính kế tiếp, tính định hướng, tần số, tính liên tục, cường độ, tính diễn cảm, đặc điểm của ngôn từ, ngữ pháp, phát âm của các hành động này.

- Những cử chỉ diễn cảm biểu hiện qua nét mặt, thái độ hành động.

- Cử chỉ, di chuyển, trạng thái đứng im của con người, khoảng cách giữa người này với người kia, tốc độ và phương hướng chuyển động, sự va chạm.

- Tác động: va chạm, ủng hộ, cùng cố gắng chuyền cho nhau, giữ lại.

- Sự kết hợp giữa dấu hiệu kể trên.

Vào năm 1940, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa các cá nhân, E.Tripơn đề nghị đo lường số lượng thời gian, nhịp độ, tính tích cực, tính hòa hợp, sáng kiến, sự chiếm ưu thế và những tiêu chí khác của những người tham gia. Theo I.P.Vôđônốp, những dấu hiệu của các mối quan hệ giữa các cá nhân được ghi chép phải là tình huống, tính kế tiếp, tính định hướng của quan hệ.

Phương pháp quan sát được quy định bởi nhiệm vụ, đối tượng, tình huống, tính chất tương tác giữa người quan sát và người được quan sát. Người ta phân biệt kiểu quan sát có tham gia khi người quan sát là một thành viên của nhóm được nghiên cứu và quan sát không tham gia; công khai và quan sát kín; quan sát tự nhiên và thực nghiệm. Nếu xét về tính tổ chức của quan sát có thể phân biệt quan sát ngẫu nhiên và có hệ thống, quan sát chung và có lựa chọn. Theo tính chất việc ghi lại có thể phân biệt quan sát đơn thuần và quan sát có đánh giá hoặc hỗn hợp.

Phương pháp quan sát ghi lại các quá trình, các hiện tượng được quan sát khác nhau về độ chính xác về tính toàn diện, về độ tin cậy, về tính có căn cứ của thông tin, về khả năng kỹ thuật và tâm lý, về hình thức và ngôn ngữ ghi chép, về hướng của quá trình ghi chép, mã hóa và giải mã, phân tích về việc sử dụng các thang bậc khác nhau.

4. Ghi chép trong quan sát

Hai đặc trưng quan trọng của phương pháp quan sát: Đặc trưng thứ nhất là mức độ can thiệp của người quan sát. Đặc trưng thứ hai là phương pháp ghi chép hành vi. Các phương pháp quan sát cũng khác nhau ở cách ghi lại hành vi, nhất là ở mức độ mà hành vi đó được khái quát hóa, trừu tượng tình huống được quan sát.

Phương pháp ghi chép hành vi được phân loại theo kiểu mô tả lại một cách đầy đủ hành vi và tình huống xảy ra hành vi theo cách tập trung hay một vài loại hành vi nhất định. Ghi chép tất cả hành vi đang diễn ra. Cách ghi chép phụ thuộc vào việc nhà nghiên cứu tiến hành nghiên cứu định tính hay định lượng.

4.1. Ghi chép mô tả

Việc ghi chép mô tả nhằm tái hiện lại hành vi như nó đã xảy ra một cách trung thành ở mức độ nhất định nhiều hay ít. Loại hình chủ yếu của ghi chép mô tả là việc người quan sát thuật lại hành vi.

Khi thu được những bản ghi chép mô tả, người quan sát có thể phân loại, sắp xếp lại những điều đã ghi. Khi xem xét số liệu có thể thử nghiệm những giả thuyết riêng lẻ... Điều này nói lên sự khác nhau quan trọng giữa việc ghi chép mô tả và các hình thức khác của việc đo lường hành vi. Như vậy ghi chép mô tả ghi được thông tin đặc biệt cần thiết để đánh giá mục đích hay giả thuyết của việc nghiên cứu.Việc ghi chép trong khi quan sát có thể bao gồm và thực hiện việc ghi chép trong suốt quá trình quan sát, biểu đồ (để minh hoạ vị trí tương ứng của người tương tác cùng chẳng hạn), bức ảnh, đoạn phim quay lại, vvv. Neuman (1991) đã liệt kê những hình thức ghi chép trong khi quan sát được sử dụng phổ biến nhất. Đầu tiên, có kiểu sổ tay bỏ túi, nó được dùng trong lúc quan sát trên thực địa. Kiểu ghi chép này nhìn chung rất là ngắn gọn, thông thường là một số từ được ghi lại nhằm hỗ trợ trí nhớ về sau nó sẽ sao chép lại với sự mở rộng hơn sau mỗi buổi quan sát. Đôi khi đòi hỏi các nhà quan sát trong đo lường có thể tính toán chính xác những hoạt động và đề xuất nội dung quan sát. Ghi chép trong khi quan sát không chỉ bao gồm những từ mà còn có thể lựa chọn biểu đồ nhằm mục đích giới thiệu một số thông tin theo cách phù hợp nhất. Những biểu đồ cho phép nhà nghiên cứu tổ chức một số sự kiện trong một số hoàn cảnh quan sát. Những cuốn băng video được quay có thể là một công cụ rất có ý nghĩa nhằm thể hiện những buổi quan sát.

Chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng việc ghi chép trong tiến trình quan sát phải được thực hiện ngay khi có thể, sau những buổi quan sát. Nhìn chung nên ghi chép một cách chính xác về thời gian, địa điểm những sự kiện liên quan cũng như ghi lại thời gian kéo dài một cách chính xác. Những phần này tách rời nhau được sử dụng để ghi lại những ghi chép trong quan sát một cách trực tiếp, những ghi chép cá nhân cũng như những phần diễn giải.

4.2. Thu thập những số đo định lượng trong quan sát

Các diễn biến hành động cần được quan sát sẽ chỉ xảy ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, người nghiên cứu cần xác định các hành vi trước khi quan sát. Người nghiên cứu còn có thể đo được số lần xuất hiện những hành vi tức là cách định lượng hóa hành vi.

Khi đo lường hành vi cũng phải qui định thang đo.

Kết quả quan sát có thể ghi lại như sau: địa điểm, thời gian quan sát, số lượng các phương tiện tham gia vào hành vi tần xuất xuất hiện, chủng loại, biểu cảm của hành vi, hậu quả của hành vi...

Trong một nghiên cứu theo dõi hành vi gây gổ của trẻ em, nhà quan sát ghi lại tất cả những biểu hiện của hành vi này trong khoảng thời gian quan sát một giờ đồng hồ. Trước tiên một danh sách các hành vi đáng quan tâm được chuẩn bị. Sau đó nhà quan sát chia toàn bộ khoảng thời gian quan sát thành một chuỗi những khoảng thời gian ngắn. Ví dụ, một khoảng thời gian quan sát 30 phút có thể được chia thành 120 khoảng thời gian, mỗi khoảng là 15 giây. Nhà quan sát này thu thập số liệu bằng cách luân phiên theo dõi đứa trẻ này trong một khoảng thời gian và sau đó kiểm tra các hành vi trong khoảng thời gian tiếp theo và lặp đi lặp lại quá trình này cho đến khi toàn bộ khoảng thời gian quan sát được thực hiện.

Ví dụ: Sử dụng phương pháp quan sát để nghiên cứu những yếu tố có ý nghĩa về thái độ của những người tham gia hội nghị như sau:

- Có quan tâm đến thông tin được thông báo báo (lời nói, tiếng reo hò, vỗ tay tán thưởng, yêu cầu thông tin bổ sung, nêu câu hỏi đối với người phát biểu, trao đổi liên quan đến vấn đề của hội nghị)

- Thiếu quan tâm đến thông tin được thông báo (trao đổi về các vấn đề ngoài nội dung của hội nghị, làm việc khác)

Những yếu tố của hành vi này được ghi theo mức độ thể hiện của 6 nhóm người: 1- Chủ tịch đoàn; 2 – Đa số thính giả; 3 – Khoảng một nửa thính giả; 4 – Một số ít thính giả; 5 – Một vài người; 6 – Một hai người

Bảng 2: biểu hiện hành vi của người tham gia hội nghị

Những yếu tố của hành vi

Mức thể hiện theo nhóm

Ghi chú của người quan sát

1

2

3

4

5

6

Những lời, tiếng reo hò, vỗ tay tán thưởng

(Các sự kiện không tiêu chuẩn hóa, nếu có).

Những tiếng reo hò không tán thưởng

Yêu cầu thông tin bổ sung

Những câu hỏi liên quan đến người phát biểu

Những trao đổi liên quan đến những vấn đề được đề cập

Thái độ trung lập (không có phản ứng)

Những lời yêu cầu giữ trật tự

Những lời yêu cầu giữ đúng thời gian quy định

Những cuộc trao đổi về đề tài khác

Những trao đổi không liên quan đến vấn đề của hội nghị

Làm việc khác.

R.F. Bales đã đưa ra sơ đồ ghi chép hành vi để phân tích mối quan hệ tác động lẫn nhau trong các nhóm nhỏ. Sơ đồ này được rút ra từ lý thuyết về nhóm bao gồm 12 phạm trù quan sát tương ứng với 2 vấn đề trong nghiên cứu nhóm nhỏ: hành vi cảm xúc xã hội và hành vi thực hiện nhiệm vụ.

A. Phạm vi mang tính xúc cảm xã hội: các phản ứng

1. Biểu lộ tình đoàn kết, giúp đỡ khen thưởng tăng thêm sức mạnh cho người khác.

2. Không khí giảm căng thẳng, đùa, cười, biểu lộ sự hài lòng.

3. Đồng tình, hiểu biết, phù hợp, sự suy giảm.

B. Phạm vi nhiệm vụ: tìm trả lời

4. Nêu các kiến nghị, các hướng dẫn trong đó tính độc lập của cách những người khác được đồng tình ủng hộ.

5. Bộc lộ quan điểm, đánh giá, phân tích biểu lộ tình cảm hoặc ý muốn.

6. Định hướng, thông báo, giải thích, chứng nhận.

C. Phạm vi nhiệm vụ: các câu hỏi

7. Hỏi về sự định hướng, thông báo, nhắc lại, sự chứng nhận.

8. Hỏi về các quan điểm, chính kiến, đánh giá, phân tích, biểu thị cảm giác.

9. Đưa ra các đề nghị, hướng dẫn các phương thức tiến hành khả thi.

D. Phạm vi mang tính xúc cảm xã hội các phản ứng tiêu cực

10. Không đồng ý, biểu lộ sự từ chối tiêu cực, hình thức, không giúp đỡ.

11. Biểu lộ sự căng thẳng, yêu cầu được giúp đỡ, rút lui.

12. Biểu lộ sự phản kháng, hạ thấp đối phương, bảo vệ hoặc tự quả quyết.