Cây hoa trà tên tiếng Anh là gì


Hoa trà, thuộc chi Trà [danh pháp khoa học: Camellia] là một chi thực vật có hoa trong họ Chè [Theaceae], có nguồn gốc ở khu vực miền đông và miền nam châu Á, từ dãy Himalaya về phía đông tới Nhật Bản và Indonesia. Hiện vẫn còn mâu thuẫn liên quan tới số lượng loài đang tồn tại, với khoảng 100–250 loài được chấp nhận tùy theo hệ thống phân loại. Chi này được Linnaeus đặt theo tên của Fr. Georg Joseph Kamel S.J., một nhà thực vật học và là một thầy tu dòng Tên.

Các loài trong chi trà là các cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ và thường xanh, cao khoảng 2–20 m. Lá sắp xếp theo kiểu so le, lá đơn, dày, mép lá có khía, thông thường có mặt ngoài bóng láng, dài 3–17 cm. Hoa lớn và dễ thấy, đường kính 1–12 cm, với 5–9 cánh hoa; có màu từ trắng tới hồng hay đỏ, còn màu vàng có ở một số loài. Quả là loại quả nang khô được chia thành 1–5 ngăn, mỗi ngăn chứa 1–8 hạt.

Hoa tràCác loài trong chi trà nói chung thích nghi với các loại đất chua, và không thích hợp với các loại đất giàu canxi. Phần lớn các loài đòi hỏi có lượng mưa lớn và không chịu được khô hạn.Các loài Camellia bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Cánh vẩy [Lepidoptera] phá hại - xem Danh sách côn trùng cánh vẩy phá hại chi Camellia.

Hoa trà

Các loài

Chi Camellia thường được chia thành các nhánh hay các phân chi. Nó bao gồm các phân chi như Metacamellia, Protocamellia, Thea. Chi này chứa khoảng 100–250 loài [APG II cho là 120].

Hoa trà

Lá của cây chè [Camellia sinensis].

Những cây Trà Shan Tuyết cổ thụ

Trà [ Chè ] Shan Tuyết là loại trà có búp to màu trắng xám, dưới lá chè có phủ 1 lớp lông tơ mịn, trắng nên người dân gọi là chè tuyết. Chè Shan Tuyết có mùi thơm dịu, nước xanh. Chè được chế biến theo phương pháp thủ công của người dân tộc Mông, Dao [ Việt Nam ].

Trồng trọt và sử dụng

Cây chè [Camellia sinensis] là loài cây có giá trị thương mại chính do chè [đồ uống] được sản xuất từ lá của nó. Dầu trà là một loại gia vị ngọt và dầu ăn được sản xuất bằng cách ép hạt của cây chè Camellia sinensis hay trà dầu [Camellia oleifera].

Hoa tràNhiều loài trà khác được trồng làm cây cảnh vì có hoa đẹp; khoảng 3.000 giống và thứ lai ghép đã được chọn lọc, nhiều giống có hoa kép, như trong thư viện ảnh dưới đây. Camellia japonica [tên thông thường trà mi, trà Nhật Bản] là loài nổi tiếng nhất trong nuôi trồng cây cảnh, với trên 2.000 giống có tên gọi; kế tiếp là C. reticulata với trên 400 giống có tên gọi, và C. sasanqua với trên 300 giống có tên gọi. Các loại cây lai ghép có C. × hiemalis [C. japonica × C. sasanqua] và C. × williamsii [C. japonica × C. salouenensis]. Chúng được giới chơi cây cảnh đánh giá cao vì ra hoa sớm, thông thường trong số các loại hoa đầu tiên xuất hiện vào cuối mùa đông. Các trận băng giá muộn có thể làm tổn thương hoa. Các loài cây này có tốc độ tăng trưởng chậm. Thông thường chúng chỉ cao thêm khoảng 30 cm mỗi năm cho đến khi trưởng thành mặc dù điều này phụ thuộc vào từng loài và từng khu vực.Camellia japonica [ hoa trà my ] là loài hoa biểu tượng của bang Alabama, Hoa Kỳ cũng như của thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc.

Hoa trà

Ý nghĩa

Hoa Trà từng làm say đắm bao tâm hồn cũng được đưa vào văn học nghệ thuật mà tiêu biểu là tác phẩm Trà Hoa Nữ [The lady of the Camellias] của Alexandre Dumas, tiểu thuyết và kịch tác gia Pháp thế kỷ XIX. Trong tác phẩm, nữ nhân vật chính đã bày tỏ cảm nghĩ của nàng bằng cách đeo hoa Trà màu đỏ hay màu trắng.

Còn được biết đến với tên gọi Hoa Hồng Nhật Bản, hoa trà là một trong những loại hoa đẹp nhất từng du nhập vào Bắc Mỹ. Trong ngôn ngữ của loài hoa, hoa trà mang ý nghĩa là "sự duyên dáng nhất". Được đưa vào Châu Âu từ năm 1639 bởi một thầy tu dòng Joseph Kamel, nên hoa có tên nguồn gốc từ tên của người này. Tiếc rằng dù có vẻ đẹp duyên dáng tuyệt vời nhưng hoa trà lại không có mùi hương.Cây lá trà giống như một cây chè, người ta nhận được màu hòa theo dạng lá và màu lá. Lá dày tròn và xanh nhạt là trà bạch [gọi là bạch trà]. Có nhiều giống bạch trà [trắng, hồng trà màu đỏ, trà thum màu nâu đỏ, trà phấn màu hồng phấn. Có giống đơn một hoa, có giống kép nhiều hoa trên một đài gọi là "bát diện". Có giống nhị dài, có giống nhị bị thoái hóa gọi là "không tâm". Giống trà bạch, trà thâm bát diện không tâm là giống quý nhất, sau giống trà cung phấn màu phấn hồng, đẹp cực kỳ và trà lựu màu đỏ rục. Hoa trà to, đẹp nở rất hài hòa cân đối và nhiều hoa.

Hoa trà

Hoa trà là biểu hiệu sự tuyệt vời, hoàn hảo, niềm tự hào, lòng tận hiến và đức khiêm cung, sự duyên dáng, cao thượng, lòng can đảm, sự ái mộ, món quà may mắn cho chàng trai.

Hoa trà trắng : sự thanh khiết, nhắc tới cái đẹp toàn vẹn với ngụ ý "anh rất hãnh diện với tình yêu của em".

Hoa trà hồng : Lòng ngưỡng mộ.

Hoa trà đỏ : Hơn người mà không kiểu cách.

Hoa trà kép : Sự may mắn và lòng biết ơn, nói cách khác "anh nhận ra vẻ đẹp của em" hay "anh ngưỡng mộ em quá nhiều" ...

Tỏ tình với một bông hoa trà là xác minh một liên hệ tình cảm lý tưởng, chứng tỏ một tình yêu toàn vẹn.

Hoa trà còn được chọn làm hoa kỉ niệm cưới lần thứ 51 [tức sau lễ vàng, golden 50 anniversary].

Hoa trà my

Hoa Trà My có tên khoa học là Camellia japonica, là 1 loài trong chi trà, là loài hoa biểu tượng của bang Alabama, Hoa Kỳ cũng như của thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc.

Sự tích hoa trà my

"Khi linh mục Kamêli được phái tới Nhật Bản để truyền đạo thì ông không ngờ rằng ông lại bắt gặp ở đây những vị thần có khả năng quyến rũ cả những cha cố tiếng tăm. Ông thề rằng ông sẽ tránh xa mọi cám dỗ trần thế và tự hành hạ mình bằng cái đói và cái khát. Bởi vậy các thầy học của ông và bản thân ông đều tin rằng với sự trong sáng của mình ông rất đáng được ơn huệ của Chúa, và Chúa sẽ giúp ông biến những người Nhật Bản lầm lạc theo đạo. Ở Nhật Bản, trong lúc chuẩn bị cho công việc đại sự, cứ chiều chiều ông lại vào rừng nhặt nhạnh các rễ cây và bắt châu chấu đem phơi khô dành cho mùa đông. Phải nói rằng số lượng lớn châu chấu mà ông kiếm được là ở trên các cành của một cái cây lớn. Châu chấu nhiều đến nỗi dù ông cố bắt hết thì sang chiều hôm sau chúng lại phát triển thành bầy nhung nhúc.Vào một buổi chiều nóng bức, Kamêli dừng chân trong một làng xa, kể chuyện cho những người nông dân nghe về buổi truyền đạo trên núi và mãi tới tận nửa đêm ông mới tới được cái cây lạ lùng kia. Mặt trăng tròn vành vạnh nhô cao trên đỉnh rừng, cây cối đứng im lìm tựa như đã thấm mệt, còn lũ châu chấu thì im lặng hoặc có thể vị linh mục đã quá quen với tiếng kêu ri rỉ của nó đến nỗi chẳng buồn nghe nói nữa. Khi Kamêli chắp hai tay vẻ thành kính và ngước lên trời tạ Thượng Đế vì ơn huệ của một ngày qua thì trong đám lá cây bỗng vang lên tiếng cười ngọt ngào của một thiếu phụ. - Ha ha ha! - một sinh vật như một chú thỏ, thoăn thoắt nhảy từ cành nọ qua cành kia, phô hàm răng trắng xoá. - A! Một kẻ vô đạo đã phái con quỷ này đến cám dỗ ta đây ư ? - Kamêli quả quyết.Sau cái khoát tay của ông, con quỷ dường như hứng chí hơn, nó liền nhảy ngay xuống cành cây thấp nhất và bắt đầu huơ huơ đôi chân trắng ngay trên đầu vị linh mục. Kamêli lùi lại vài bước, chăm chú nhìn cái sinh vật kỳ dị kia. Toàn thân nó được bao bọc một lớp xanh hòa lẫn trong màu xanh lá cây, chỉ có đôi chân trắng muốt và cái đầu nhỏ tóc vàng lấp lóa ánh trăng là thấy rõ và được thu lại tựa một bông hoa sặc sỡ đang kỳ nở rộ.- Ngươi là ai? - tu sĩ hỏi- Hi hi! Ha ha!- Ngươi là nữ nhi ư?Sinh vật lắc đầu quầy quậy- Vậy ngươi là ai? Tên ngươi là gì?- Ta là Đơriađa, linh hồn của cái cây này, - đầu tóc vàng thú nhận - Ta đến để tạ ơn ngươi vì ngươi đã làm cho thân cây của ta sạch bóng lũ châu chấu tanh hôi.Nói xong, hồn cây nhảy luôn vào lòng bàn tay của tu sĩ, đoạn ôm chầm lấy ông và gắn vào bộ râu của ông một nụ hôn. Kamêli lúng túng đến nỗi đáng lẽ phải đẩy cô gái rừng xanh ấy ra xa thì ông lại kéo diết cô ta lại phía mình và cứ để nguyên giây phút kỳ diệu như thế trong đời một hồi lâu. - Ta không thể ở lại với nhà ngươi lâu hơn được nữa - Đơriađa thì thào - nếu không cái cây của ta sẽ khô héo mất. Con quỷ vùng ra khỏi tay ôm của kamêli và nhảy lên một cành cây xanh.Chỉ đến lúc này vị tu sĩ mới hiểu rằng ông đã phá bỏ lời thề về sự trinh trắng và ông trở về nhà trong tâm trạng đầy u uất. Biết làm sao được? Liệu ta có còn xứng đáng là một vị linh mục nữa hay không?Cho đến tận đêm khuya lạnh lẽo, cái đầu bốc lửa của Kamêli mới nguôi ngoai được đôi chút. Ông bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về những sự việc vừa xảy ra ông đã phá bỏ lời thề rồi ư? Người đã hôn ông không phải là một thiếu phụ mà là một linh hồn, bởi vậy, cái hôn này chẳng phải đem lại niềm vui sướng xác thịt. Nàng không phải là phù thủy, nếu không nàng đã biết sợ dấu hiệu của nhà thờ. Phải, trong kinh thánh không hề nói đến chuyện tiếp xúc với thần linh, như vậy là đã phạm tội sau khi tự chấn an như vậy, vị linh mục thấy tự tin hẳn lên.Nửa đêm hôm sau, bị tính tò mò thôi thúc, Kamêli lại đến trước cái cây lạ.- Đơriađa! - Ông cất tiếng gọi và dừng lại dưới một chiếc lá to bản. - Hi hi! Ha ha! - Một tiếng cười hỉ hả cất lên. Và qua tiếng lá cây sột soạt có thể đoán ra cô gái rừng xanh đang tụt xuống đất. Ngay từ lúc trưa, vị tu sĩ đã nghĩ cách giải thích lý do ông trở lại chỗ cây này khi Đơriađa đã ngồi trên một cành cây thấp, ông không hề lúng túng thanh minh: - Tôi đến để xem lũ châu chấu có còn quấy rối các cây của bà nữa không. - Một tên vô lại nào đó đã leo lên tận ngọn cây rồi, - Cô gái rừng xanh than phiền - nếu ngươi bắt được nó, ta sẽ rất biết ơn ngườị  Kamêli quấn hai vạt áo quanh thắt lưng và thoăn thoắt leo lên cây. Một con châu chấu đã bị tóm và ông đã được thưởng công xứng đáng. Cả lũ châu cháu đã bị diệt gọn, song Kamêli không hề lúng túng, nghĩ cách đoạt được nụ hôn của Đơriađa. Mùa đông đã đến gần, không khí bắt đầu nhuốm lạnh. Trong một đêm Đơriađa đã nói với Kamêli: - Ngày mai ngươi đừng đến đây nữa trước mùa xuân, cái cây phải nghỉ ngơi và ta sẽ cùng nghỉ với nó. Cái tin lạ lùng khiến Kamêli sửng sốt. Ông sẽ sống ra sao đây nếu thiếu niềm vui hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, rồi nhiều tháng cứ qua đi thì sao, còn linh hồn dịu dàng - Đơriađa - hẳn nàng đang bị chết cóng trong hốc cây không, phải nghĩ ra một điều gì đó, phải làm một cái gì đấy để cứu nàng.  Giá như còn thời gian hẳn Kamêli sẽ nghĩ ra được điều gì đấy, nhưng bây giờ chẳng còn thời gian để nghĩ nữa, cần phải hành động. Ông túm lấy cô gái rừng xanh, giấu dưới vạt áo rộng và đem về nhà mình. Suốt dọc đường Đơriađa đành câm miệng hến, chỉ khi bước vào gian phòng mà vị linh mục đặt nàng xuống giường, nàng mới kêu lên:  - Ngươi làm cái trò gì thế? Giờ này chắc cái cây của ta đang bắt đầu chết héo.- Mặc cho nó chết héo chẳng lẽ trong rừng hiếm cây sao - Kamêli an ủi nàng. - Ông hiểu việc đó như thế nào, nếu cái cây của tôi khô héo thì tôi sẽ chết. - Đơriađa nói, giọng buồn bã. - Đó là chuyện nhảm nhí, ta sẽ giải phóng nàng khỏi nơi này - Vị tu sĩ thề thốt.Tới mùa xuân, khi các lá cây bắt đầu trổ màu xanh, Đơriađa cứ yếu dần và ngày rộc hẳn đi.- Hãy trả ta về với cây của ta! - Nàng khẩn khoản nói với Kamêli và ông đã sẵn sàng thực hiện yêu cầu của nàng, đồng thời hy vọng không khí mùa xuân sẽ chữa cho Đơriađa lành bệnh.- Thật là đau khổ! - Đơriađa kêu lên khi Kamêli đặt nàng ngồi trên cành cây thấp - Cái cây của tôi đã chết rồi.Trước mắt Kamêli nàng cứ tự tan biến đi và hòa lẫn vào cây xanh: Mãi tới một ngày kia, hệt như bông hoa lộng lẫy, mớ tóc hung hung của nàng bừng đỏ lên, rồi sau đó chúng cứ lấp loáng. - Xin nàng đừng bỏ đi, hãy nói với ta, dù chỉ là đôi lời! Kamêli thất vọng cầu xin và ông đã nghe được giọng nói yếu ớt đáp lại: - Trên đỉnh ngọn cây kia vẫn còn hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Hãy bẻ lấy một nhành cây trên đó và đem trồng ngay xuống đất. 

Kamêli bẻ ngay một cành cây tươi và đau đớn trở về nhà. ít lâu sau, từ cành cây đó mọc lên một bụi cây và nở ra những bông hoa đỏ sặc sỡ. Đó chính là hoa Trà My.

 

Vài năm sau, vị tu sĩ già từ Nhật Bản trở về Châu Âu. Ông là người duy nhất mang theo về một chậu hoa mà ai cũng phải trầm trồ. Kamêli đặt tên nó là Hoa Đơriađa nhưng người đời không thể nhập tâm được một cái từ khó đọc như vậy nên đã gọi tên hoa bằng tên vị linh mục : Kamêli - Hoa Trà My".

 

Hoa Trà My có ý nghĩa là Kiêu hãnh, coi thường tình yêu. Đôi khi nó trở thành loài hoa tình yêu.

Video liên quan

Chủ Đề