Biểu hiện tính đa dạng cao của sinh vật tự nhiên ở nước ta là gì

Mục lục bài viết

  • 1. Những nguyên nhân phổ biển toàn cầu của suy thoái đa dạng sinh học và biểu hiện của chúng ở Việt Nam
  • 1.1. Sự gia tăng dân số diễn ra không bình thường trên thể giới:
  • 1.2. Tác động của thương mại nông sản, lâm sản và hải sản:
  • 1.3.Sự bất bình đẳng trong việc sở hữu, quản lí và phân phối nguồn lợi :
  • 1.4.Tình trạng thiếu kiến thức và sử dụng kiến thức bảo vệ đa dạng môi trường sinh học:
  • 2. Nguyên nhân đặc trưng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam ?
  • 3. Chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát triển bền vững về đa dạng sinh học:

1. Những nguyên nhân phổ biển toàn cầu của suy thoái đa dạng sinh học và biểu hiện của chúng ở Việt Nam

Suy thoái đa dạng sinh học diễn ra do tác động của hàng loạt nguyên nhân khác nhau. Sự thay đổi khí hậu, những trận động đất hay các thảm hoạ thiên nhiên khác đều có thể gây suy thoái đa dạng sinh học. Tuy nhiên, thiên nhiên có thể tạo ra sự cân bằng trở lại. Điều đáng lo ngại là các nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học từ phía con người. Cũng là một loài trong tự nhiên, sống phụ thuộc vào tự nhiên, vào đa dạng sinh học song con người là loài tác động xấu nhất đến đa dạng sinh học. Các công trình nghiên cứu thực hiện ttong khuôn khổ của Ngân hàng phát triển châu á [ADB] đã nêu ra 6 nguyên nhân phổ biến toàn cầu sau đây của suy thoái đa dạng sinh học do tác động của con người.

1.1. Sự gia tăng dân số diễn ra không bình thường trên thể giới:

Sự gia tăng dân số những năm gần đây trên thế giới đang diễn ra có nhiều biến động đặc biệt ở châu Phi, châu á và châu Mỹ Latin: Trong những thập kỉ gần đây, dân số thế giới tăng một cách nhanh chóng và được cảnh báo như là mối đe doạ đối với sự phát triển của nhiều quốc gia. Dự đoán trong ba thập kỉ tới sẽ có thêm một tỉ người nữa bổ sung cho dân số hiện có của trái đất. Sự gia tăng dân số với nhu cầu tiêu thụ các hệ sinh vật ngày càng tăng. Các nguồn thực vật, động vật có giới hạn sẽ không chịu được sóc ép của gia tăng dân số. Gia tăng dân số cũng đồng nghĩa với cả việc tăng chất thải, tăng nguy cơ ô nhiễm dẫn đến sự suy giảm các giống loài. Cả hai hệ quả này của gia tăng dân số là được coi là thách thức lớn đối với đa dạng sinh học. Nguyên nhân sức ép dân số biểu hiện khá đậm nét ở Việt Nam. Tốc độ tăng dân số của Việt Nam từ năm 1994 đến năm 2004 đã tăng thêm 10 triệu người.Dự báo là với tốc độ tăng dân số như hiện nay thì đến năm 2050, dân số Việt Nam sẽ là 158 triệu người.

1.2. Tác động của thương mại nông sản, lâm sản và hải sản:

Khi các cộng đồng không cách biệt, không giao lưu với nhau thì các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp chỉ đóng khung trong cộng đồng. Vì vậy, nhu cầu khai thác hàng loạt để buôn bán, xuất khẩu quy mô lớn không xảy ra. Tuy nhiên, khi các quốc gia phát triển với với những lợi thế tương đối khác nhau, với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng thì việc khai thác và mua bán các loại nông sản, lâm sản và hải sản trở nên có quy mô lớn hơn. Điều này đồng nghĩa với việc một số giống loài có thể bị hi sinh để nhường chỗ cho một vài giống loài có thể phục vụ cho nhu cầu phát triển thương mại của cộng đồng. Các cộng đồng có thể hi sinh những giống lúa đặc hữu của mình để nhập và trông những giống lúa lai tạo có năng suất cao hơn phục vụ thương mại. Những cánh rừng đước ngập mặn và những loài mà cuộc sống gắn liền với chúng có thể bị hi sinh để mang lại những sản lượng tôm lớn đủ cho xuất khẩu thu ngoại tệ. Những tác động như thế này của thương mại nông sản, hải sản, thuỷ sản tác động xấu đến đa dạng sinh học. Việc xuất khẩu cà phê với lợi nhuận cao đã khiến cho diện tích đất trồng cà phê của Đắc Lắc tăng từ 52.418 ha năm 1993 lên 156.230 ha năm 1996. Phần lớn diện tích trồng cà phê là do phá rừng. Việc hoạch định các chính sách kinh tế không thấy hết giá trị của môi trường và tài nguyên môi trường. Đây là một thực tế dễ nhìn thấy ở các nước đang phát triển. Do nhu cầu phát triển, nhiều quốc gia đang phát triển không thực sự chú trọng các khía cạnh môi ữường ttong các chính sách phát triển của mình. Việc thực hiện chính sách mở cửa rừng cho các công ti xuyên quốc gia hay các công ti nội địa khai thác gỗ và lâm sản rõ ràng không tính đến tác động xấu đối với môi trường nói chung và đa dạng sinh học nói riêng. Đối với Việt Nam đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng xẩu tới đa dạng sinh học. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu lâm thổ sản của nước ta trong những năm 1976 - 1986 đã góp phần rất lớn trong việc giảm diện tích rừng trong cả nước. Từ năm 1976 đến 1980 Việt Nam đã khai thác và xuất khẩu 11.700m3 gỗ tròn. Quy mô khai thác và xuất khẩu gỗ còn tăng mạnh trong giai đoạn 1986 - 1991. Trong giai đoạn này, 412 lâm trường đã khai thác gỗ xuất khẩu với số lượng tăng nhanh: Chỉ tính gỗ tròn, năm 1986 là 22.000m3, năm 1988 là 17.000m3, năm 1991 là 240.000m3. Một số chính sách khác như chính sách đất đai, chính sách hợp tác hoá nông nghiệp, chính sách khai hoang mở rộng diện tích trồng lúa do thực hiện không tốt cũng đã góp phần thu hẹp diện tích rừng, tác động xấu đến đa dạng sinh học.

1.3.Sự bất bình đẳng trong việc sở hữu, quản lí và phân phối nguồn lợi :

Việc bảo tồn và sử dụng các nguồn sinh học mang lại nhiều lợi ích kinh tế to lớn. Tuy nhiên, phần lớn các lợi ích này lại nằm ttong tay những nhóm các nhà kinh doanh chứ không thuộc về những cộng đồng đang sống và bảo tồn các nguồn sinh học. Trên phạm vi quốc tế, nguồn lại của đa dạng sinh học thuộc về các nước phát triển chứ không phải các nước đang phát triển mặc dù phân lớn các nguồn lợi sinh học lại thuộc sở hữu của các nước phát triển. Các nguồn sinh học được đưa từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển dưới dạng nguyên liệu thô, rất rẻ tiên song sau khi được chế biến, được chuyển sang các nước đang phát triển với giá cao hơn nhiều lần. Chính sự bất cân bằng này trong phân phối các nguồn sinh học đã khiến cho các cộng đồng không còn quan tâm tói việc bảo tồn đa dạng sinh học.

1.4.Tình trạng thiếu kiến thức và sử dụng kiến thức bảo vệ đa dạng môi trường sinh học:

Đây là nguyên nhân phổ biến nhất đối với các nước nghèo, đang phát triển. Sự kém hiểu biết của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng về ảnh hưởng tiêu cực của suy thoái môi trường nói chung và và đa dạng sinh học nói riêng khiến họ khai thác hoặc huỷ diệt môi trường sinh thái một cách vô thức. Việc đánh cá bằng chất nổ, bằng điện là ví dụ sinh động cho tình trạng kém hiểu biết này. Việc đốt cả cánh rừng chỉ vì khai thác một tổ ong mật cũng là ví dụ không xa lạ, nhất là đối với Việt Nam chúng ta. Việc dùng hoá chất, điện, chất nổ để khai thác thuỷ sản là hiện tượng hiếm thấy ở các nước trên thế giới song lại rất phổ biến ở nhiều địa phương nước ta. Những sự khai thác mang tính huỷ diệt, thiếu kiến thức và thiếu ý thức đang đe doạ nghiêm trọng đến hệ sinh thái đầm phá Tam Giang - một trong những hệ sinh thái lớn đầm phá lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Vói diện tích 248,7 km2 phá Tam Giang là noi sinh trưởng của nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm của thế giới và của Việt Nam. Tuy nhiên, tình trạng khai thác bừa bãi đang diễn ra ở vùng phá Tam Giang. Riêng năm 2004, chỉ riêng các vụ vi phạm như dùng xung điện, chất nổ để khai thác đã được phát hiện và xử lí là 200 vụ bằng khoảng 1/10 số vụ vi phạm. Chính vì tình trạng khai thác trái pháp luật, ưái quy hoạch như vậy nên nhiều loài động thực vật quý hiếm này đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Các hệ thống pháp lí và các định chế tạo điều kiện cho việc khai thác không bền vững: Pháp luật của nhiều quốc gia chưa thực thực chú ý đến việc bảo vệ môi trường, đến khía cạnh phát triển bền vững. Các hành vi chống lại môi trường, chông lại đa dạng sinh học chưa được xử lí hoặc được xử lí không đủ sức răn đe.Việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng các công trình hạ tầng chưa được gắn với những đánh giá tác động môi trường. Nhiều công trình công nghiệp đã gây tổn hại nghiêm trọng đến đa dạng sinh học.

2. Nguyên nhân đặc trưng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam ?

Bên cạnh những nguyên nhân nêu trên, suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam còn xảy ra do các nguyên nhân đặc thù sau:

+ Hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại cho môi trường ở Việt Nam: Việc thiêu huỷ hàng triệu ha rừng bằng bom napan và chất độc màu da cam do Mỹ tiến hành đã để lại di chứng nặng nề cho các hệ sinh thái ở nước ta. Tính từ năm 1961 đến năm 1975, chiến ttanh do Mỹ thực hiện đã huỷ diệt 4,5 triệu ha rừng ở Việt Nam. Khó có thể khắc phục được hậu quả này trong vài thập kỉ. Không có quốc gia nào trên thế giới lại chịu sự tàn phá nặng nề của các cuộc chiến tranh lâu dài như đất nước ta đã trải qua kể cả về tổn thất về tài sản, con người và môi trường sinh thái.

+ Tình trạng ô nhiễm nhanh chóng do sự phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà không có những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn từ đầu: Các ngành công nghiệp giấy, rượu bia, thuộc da khai thác quặng đã làm cho hệ sinh thái tồn tại ở các vùng phụ cận bị tổn hại nặng nề. Việc đổi lấy sự phát triển công nghiệp bằng sự đi xuống của môi trường là một trong những điểm dễ nhận thấy ở Việt Nam trong vài thập kỉ vừa qua. Đây cũng có thể coi là một trong những nguyên nhân đặc thù của suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam.

+ Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc ít người mà nhiều nhóm trong số đó có tập quán du canh, du cư: Trong số 54 dân tộc sinh sống ở Việt Nam thì có 50 dân tộc với khoảng 9 triệu người có tập quán du canh, du cư. Các cộng đồng này thường sống ở vùng rừng núi. Việc di chuyển của họ từ nơi đang sống sang nơi khác kéo theo sự mất đi của một diện tích rừng nhất định mà họ chặt đốt để làm nương rẫy. Cứ vài ba năm, họ lại di chuyển một lần như vậy. Chính tập quán này cũng gây tác động không nhỏ đến việc chặt phá rừng, tác động xấu đến đa dạng sinh học ở nước ta. Chỉ riêng hình thức du canh, du cư đã biến 15 triệu ha rừng thành đồi trọc.

+ Nhu cầu thưởng thức các món ăn, đồ uống chế biến từ động thực vật hoang dã đã phát triển mạnh ở nước ta: Nhà hàng đặc sản thú rừng mọc lên khắp nơi và trở thành nguồn tiêu thụ mạnh các loài động vật hoang dã. Nhiều người dân đã tìm mọi cách săn thú rừng quý hiếm để bán cho các nhà hàng đặc sản hoặc bán cho các tổ chức xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và các nước trong khu vực. Điều này dẫn tới nguy cơ là một số loài thú quý hiếm của nước ta đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.

+ Sự thoái hoá nguồn gen do nhu cầu: Thực ttạng vấn đề nguồn gen trong sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam là một nguyên nhân của suy thoái đa dạng sinh học. Đây cũng là nguyên nhân phổ biến toàn cầu song biểu hiện ở Việt Nam với những đặc thù riêng. Việt Nam vào những năm 1970 - 1976, sản xuất 15 triệu tấn lương thực là mục tiêu xa vời. Để đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, nền nông nghiệp nước ta đã sử dụng các giống mới có biến đổi gen hay lai tạo khoa học, các giống nhập nội có năng suất cao, chất lượng tốt. Hiện nay có tới 70% giống dùng trong nông nghiệp nước ta là những giống có áp dụng tiến bộ khoa học và biến đổi gen. Tuy nhiên, thực tế này cũng dẫn đến sự biến mất hoặc suy thoái các giống bản địa truyền thống. Những giống bản địa này có nhiều thuộc tính quý giá như khả năng thích nghi với khí hậu nhiệt đới, khả năng chống chịu sâu bệnh đặc thù của khí hậu và môi trường nhiệt đới gió mùa.

+ Sự xâm nhập các loài lạ vào môi trường sinh thái Việt Nam. Sự xâm nhập các loài lạ vào môi trường của Việt Nam có vẻ như tạo thêm sự đa dạng sinh học vì có thêm những loài mới. Loài lạ được hiểu là loài tồn tại bên ngoài môi trường của các loài bản địa. Tuy nhiên, sự xuất hiện của loài lạ nếu không được kiểm soát sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến đa dạng sinh học. Sự phát triển quá nhanh của loài lạ này trong môi trường mới tạo ra nguy cơ đối với các giống loài khác vốn tồn tại trong khu vực bản địa của chúng. Ở Việt Nam, việc kiểm soát loài lạ xâm nhập chưa được chú trọng đúng mức. Người ta có thể đem vào môi trường bất kì động thực vật hay vi sinh vật nào, miễn là nó không phải là loài gây bệnh dịch hoặc đang trong tình trạng bị bệnh. Song trên thực tế, ngay cả khi một loài lạ không hề có khả năng gây bệnh dịch khi xâm nhập vào các hệ sinh thái ở nước ta thì cũng không thể coi là an toàn. Tác động của các loài lạ không dễ thấy trước. Trong những năm 1994 - 1995, nạn dịch ốc bươu vàng trên miền Bắc Việt Nam là một minh chứng cho vấn đề này. Sự xâm nhập và tác hại của ốc bươu vàng ở nước ta trong những năm đó là ví dụ điển hình. Nó được nhập vào Việt Nam với mục đích kinh tế, được nhân giống và phổ biến khắp cả nước. Do sự sinh sản nhanh và tạp ăn, ốc bươu vàng đã lan rộng với tốc độ vô cùng nhanh, không thể kiểm soát. Thực tế, nó trở thành loài côn trùng gây hại vô cùng nguy hiểm đối vói cây lúa nước. Hàng chục ngàn ha lúa nước trên nhiều tỉnh có nguy cơ mất ttắng. Sự xuất hiện các loài lạ rõ ràng đang là một trong những nguyên nhân đáng lo ngại cho tình trạng suy thoái môi trường ở nước ta.

3. Chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát triển bền vững về đa dạng sinh học:

-Ưu tiên bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện cho một vùng sinh thái, bảo tồn loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; bảo đảm kiểm soát việc tiếp cận nguồn gen.

- Bảo đảm kinh phí cho hoạt động điều tra cơ bản, quan trắc, thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học và quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học; đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho khu bảo tồn, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học của Nhà nước; bảo đảm sự tham gia của Nhân dân địa phương trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học.

- Khuyến khích và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tri thức truyền thống vào việc bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học.

- Phát triển du lịch sinh thái gắn với việc xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định cuộc sống của hộ gia đình, cá nhân sinh sống hợp pháp trong khu bảo tồn; phát triển bền vững vùng đệm của khu bảo tồn.

- Phát huy nguồn lực trong nước, ngoài nước để bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật môi trường, gọi ngay: 1900.6162 để đươc Luật sư tư vấn pháp luật môi trường trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật môi trường - Công ty luật Minh Khuê

Video liên quan

Chủ Đề