Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài

Trọng trách của công tác tư tưởng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam

[ĐCSVN] - Để văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc...hơn lúc nào hết Đảng cần phải tăng cường lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá con người trong thời kỳ mới.

Là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng Cộng sản, cho nên ngay sau khi ra đời, Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thành lập Ban cổ động và tuyên truyền. Trong năm 1930, Ban cổ động và tuyên truyền Trung ương đã tiến hành triển khai nhiều hoạt động công tác tư tưởng rất có ý nghĩa như truyền bá sâu rộng “lời kêu gọi” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thay mặt quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam, truyền bá sâu rộng những văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng như Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam… Đáng chú ý, có một văn kiện, một ấn phẩm của Ban cổ động và tuyên truyền TW Đảng mà Đảng ta lưu giữ được, đó là tài liệu: “Ngày quốc tế đỏ mồng 1 tháng tám” do Ban cổ động và tuyên truyền của Đảng Cộng sản ấn hành năm 1930. Đây là một hoạt động tư tưởng có ý nghĩa chính trị to lớn. Theo quyết định của Thường vụ Bộ Chính trị khoá VIII, ngày 1 tháng 8 hàng năm trở thành ngày truyền thống của ngành công tác tư tưởng của Đảng ta.

Vào thời điểm này, cả nước đang tưng bừng kỷ niệm 90 năm ngày truyền thống ngành tư tưởng, văn hoá, khoa giáo.

Lịch sử 90 năm qua của Đảng và của cách mạng Việt Nam mãi mãi còn ghi những đóng góp cực kỳ quan trọng của công tác tư tưởng, những cống hiến xuất sắc và những bước trưởng thành vượt bậc của những thế hệ cán bộ chiến sỹ trên mặt trận vẻ vang này. Lịch sử 90 năm hoạt động tư tưởng của Đảng ta đã ghi nhận những thành tựu rất quan trọng trong tư duy lý luận về văn hoá, con người, về vai trò của văn hoá con người, về kinh nghiệm xây dựng và phát triển nền văn hoá và con người Việt Nam qua các thời kỳ của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Ảnh minh họa: Chinhphu.vn

Tháng 2 năm 1943, sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ta họp bàn các công tác khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, trên tinh thần nghị quyết của Hội nghị này, Tổng bí thư Trường Chinh đã soạn thảo Đề cương về văn hoá Việt Nam. Trên cơ sở phương pháp luận mác xít gắn chặt với phân tích sâu sắc thực tiễn, nhất là những xu hướng khác nhau trong lĩnh vực văn hoá Việt Nam, Đề cương đã trình bày những nội hàm chủ yếu của văn hoá bao gồm cả Tư tưởng, học thuật [khoa học], nghệ thuật [văn học nghệ thuật]. Đề cương xác định văn hoá là một trong ba mặt trận [chính trị, kinh tế, văn hoá] mà ở đó người cộng sản phải hoạt động, phải lãnh đạo cách mạng chính trị và cách mạng văn hoá. Đề cương đã nêu bật những quan điểm tư tưởng chỉ đạo cách mạng văn hoá ở Việt Nam đó là phải hoàn thành cách mạng văn hoá mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội; Cách mạng văn hoá muốn hoàn thành phải do Đảng cộng sản lãnh đạo. Cách mạng văn hoá có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công. Nền văn hoá mà cuộc cách mạng văn hoá ở Việt Nam phải thực hiện là văn hoá xã hội chủ nghĩa. Về mối quan hệ giữa cách mạng văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, Đề cương khẳng định: Cách mạng văn hoá ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam, mới có thể đưa văn hoá Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền văn hoá mới; Phải tiến lên thực hiện cách mạng xã hội ở Việt Nam gây dựng một nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề cương cũng làm rõ mục tiêu trước mắt của cuộc vận động văn hoá ở Việt Nam là xây dựng nền văn hoá mới và xác định nền văn hoá mới của Việt Nam có hai tính chất dân tộc và dân chủ mới. Đề cương xác định 3 nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hoá ở Việt Nam thời kỳ này là:

- Dân tộc hoá; chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hoá Việt Nam phát triển độc lập.

- Đại chúng hoá chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hoá phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng.

-Khoa học hoá, chống lại tất cả những gì làm cho văn hoá trái khoa học, phản tiến bộ.

Tuy còn một số hạn chế nhất định nhưng trong bối cảnh lịch sử đầu những năm 40 của thế kỷ XX, với việc trình bày hệ thống những quan niệm, phạm trù, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phương châm nguyên tắc chỉ đạo cuộc vận động văn hoá, Đề cương về văn hoá Việt Nam, thực sự là đỉnh cao trí tuệ, là sự nhận thức về tình hình, là những dự báo khoa học về mục tiêu tính chất, nguyên tắc, nhiệm vụ cuộc vận động văn hoá đương thời nhằm tạo nên sức mạnh tinh thần vĩ đại mà cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đang rất cần.

Đề cương về văn hoá Việt Nam đầy sức thuyết phục và tính chiến đấu, đã trở thành ngọn cờ tập hợp, cổ vũ, động viên giới trí thức, khoa học, văn nghệ sỹ Việt Nam đương thời vào cuộc chiến đấu quyết liệt cho sự toàn thắng của cách mạng dân tộc, cho sự nghiệp phá tan xiềng xích của văn hoá phát xít, thực dân, bảo vệ truyền thống văn hoá dân tộc, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam.

Sau thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945, để thích hợp với tình hình mới, Hội văn hoá cứu quốc được mở rộng và đổi tên thành Hội văn hoá Việt Nam. Ngày 24-11-1946, Thực hiện mưu đồ cướp nước ta một lần nữa, Thực dân Pháp nổ sung tấn công Hải Phòng. Cùng ngày này, tại Thủ đô Hà Nội, khai mạc Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất. Sự kiện quan trọng này diễn ra giữa lúc đất nước đang trong tình cảnh nước sôi, lửa bỏng đã khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặt vị trí của văn hoá quan trọng như thế nào trước sự tồn vong của đất nước. Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vị trí và nhiệm vụ của nền văn hoá mới đối với sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Người nói: “Chúng ta cần biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui, hạnh phúc” ,“Số phận dân ta ở trong tay ta, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”, Phải “Đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ” [[1]]

Chưa đầy một năm sau Đại hội văn hoá lần thứ nhất quân và dân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, đập tan cuộc tấn công với hai gọng kìm của hải lục, không quân Pháp, bảo vệ an toàn Trung ương Đảng, Chính phủ, Bảo vệ an toàn căn cứ địa Việt Bắc.

Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, dù phải tiến hành biết bao công việc chuẩn bị cho giai đoạn mới của cuộc kháng chiến, Tháng 7-1948, Đảng ta tổ chức Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ 2. Ngày 15/7/1947 trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Đại hội, Người viết: “Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta, Văn hoá gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hoá ta đã cố gắng và đã có thành tích. Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, các nhà văn hoá ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng. Nhiệm vụ của văn hoá chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới. Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng đáng chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ mà còn để lưu truyền cả lịch sử oanh liệt kháng chiến, kiến quốc cho hậu thế”[[2]]. Như vậy trong thư gửi Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu bật những quan điểm cơ bản sau: Văn hoá giữ vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc; mục tiêu là xây dựng một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn dân; Nhiệm vụ của nền văn hoá kháng chiến kiến quốc là cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của dân và truyền bá thành tựu kháng chiến kiến quốc vĩ đại của Việt Nam ra thế giới. Lực lượng xây dựng nền văn hoá mới là toàn dân, trí thức và các nhà văn hoá giữ vai trò rất quan trọng. Do đó các nhà văn hoá cần được tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào thực tiễn kháng chiến, kiến quốc của toàn dân để có những tác phẩm văn hoá xứng đáng với sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại.

Tại Đại hội này Tổng bí thư Trường Chinh đã đọc báo cáo quan trọng: “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”. Báo cáo này đã cụ thể hoá và phát triển hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, phương châm của Đề cương văn hoá 1943 của Đảng. Đây là lần đầu tiên Đảng ta chính thức trình bày một cách hệ thống, toàn diện các quan điểm về văn hoá theo lập trường mác xít. Báo cáo này, có giá trị như cương lĩnh văn hoá của Đảng trong thời kỳ kháng chiến, kiến quốc. Trong bản báo cáo này, hệ thống các quan điểm nguyên tắc, phương châm về văn hoá được trình bày trên 7 phần:

- Văn hoá và xã hội

-Lập trường văn hoá mác xít

- Văn hoá Việt Nam xưa và nay

- Tính chất và nhiệm vụ văn hoá dân chủ mới Việt Nam

- Mặt trận văn hoá thống nhất trong mặt trận dân tộc thống nhất

-Văn hoá Việt Nam trong mặt trận văn hoá dân chủ thế giới

- Mấy vấn đề cụ thể trong văn học.

Sức mạnh tinh thần của nền văn hoá kháng chiến, kiến quốc là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam đề giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện.

Sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cả nước ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thống nhất đất nước.

Năm 1960, Đại hội III của Đảng đã quyết định đường lối thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội khẳng định: “Cách mạng XHCN ở miền Bắc không những là một cuộc cách mạng triệt để về kinh tế, chính trị mà còn là một cuộc cách mạng triệt để về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật:[3] Con người là vốn quý nhất của chủ nghĩa xã hội muốn có CNXH trước hết phải có con người XHCN, xây dựng con người mới XHCN là trọng trách hàng đầu, nhiệm vụ trực tiếp của cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật.

Mục tiêu của cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật là:

-Xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, trên cơ sở đó xây dựng đạo đức mới.

-Làm cho nhân dân đông đảo có trình độ văn hoá vững vàng, nắm được những hiểu biết cần thiết về khoa học và kỹ thuật.

-Bảo vệ bồi dưỡng sức khoẻ con người là nghĩa vụ, mục tiêu cao quý của ngành y tế và thể dục thể thao.

-Văn nghệ giữ vị trí quan trọng trong cách mạng tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật. Xây dựng một nền văn nghệ mới có tính chất dân tộc và nội dung XHCN phong phú. Văn nghệ phải góp phần tích cực vào công cuộc giáo dục tư tưởng, tình cảm và cải tạo con người theo chủ nghĩa xã hội; góp phần tích cực cổ vũ động viên nhân dân đem hết tinh thần và sức lực cho sự nghiệp xây dựng CNXH và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Tác phẩm văn nghệ phải trở thành vũ khí sắc bén trong việc xây dựng con người mới về tư tưởng và tình cảm.

- Báo chí, thông tin, truyền thanh và xuất bản phải trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hoá.

-Giáo dục con người mới phải thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp với lao động sản xuất và phương châm lý luận gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, giáo dục của nhà trường kết hợp với giáo dục xã hội. [4]

-Đảng là lực lượng lãnh đạo và là lực lượng nòng cốt trong cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật, cho nên cần phải: Có đầy đủ năng lực để lãnh đạo, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật; Ra sức đào tạo hàng loạt trí thức mới, xây dựng đội ngũ trí thức XHCN đông đảo.[5]

Dưới ánh sáng đường lối Đại hội III, nền văn hoá mang tính chất dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa được xây dựng và phát triển sâu rộng, con người mới XHCN từng bước được hình thành và phát triển thông qua cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực: Giáo dục chính trị, tư tưởng rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống, Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo, Phát triển mạnh mẽ văn học nghệ thuật và phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng. Báo chí cách mạng Việt Nam như báo in, báo ảnh, báo nói [phát thanh, truyền thanh] phát triển sâu rộng. Từ năm 1971 ra đời truyền hình Việt Nam, Báo chí Việt Nam thời kỳ này đã hoàn thành rất xuất sắc chức năng nhiệm vụ cao cả: Là người tuyên truyền; giáo dục tập thể, người hướng dẫn tổ chức, cổ vũ tập thể thực hiện đường lối nhiệm vụ chính trị, là người tuyên truyền, quảng bá, truyền bá các tác phẩm văn hoá, văn nghệ đến đông đảo mọi tầng lớp nhân dân cả hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam.

Ngành y tế và thể dục thể thao phát triển sâu rộng từ Trung ương đến cơ sở, góp phần quyết định trong việc bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho các thế hệ người Việt Nam.

Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, mà còn là thắng lợi của đường lối, chính sách văn hoá của Đảng ta. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào đông đảo quần chúng, thắng lợi của ý chí độc lập, tự do, của chủ nghĩa yêu nước truyền thống được phát huy mạnh mẽ hơn bất cứ thời đại nào trong lịch sử dân tộc; thắng lợi của nhân phẩm Việt Nam, của những giá trị tinh thần cao quý Việt Nam.

Sau đại thắng mùa xuân 1975, cả nước ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong 45 năm qua tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển rất sâu sắc và toàn diện.

Năm 1976, Đại hội IV xác định: “Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung XHCN và tính chất dân tộc. Nền văn hoá được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể XHCN. Nó vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của nền văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại, vừa là sự kết tinh và nâng lên tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hoá Việt Nam. Đó là truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường và mưu trí trong đấu tranh cho độc lập và tự do, là tình thương yêu giữa những người lao động, là đức tính cần cù sáng tạo và tinh thần lạc quan yêu đời, đó là chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nền văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anhem trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.[6]Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người Việt Nam mới mà những đặc trưng nổi bật là: Làm chủ tập thể, lao động, yêu nước XHCN và tinh thần quốc tế vô sản. Đó cũng là sự kết tinh và phát triển những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và cốt cách Việt Nam hun đúc qua bốn nghìn năm lịch sử. Con người mới là con người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp có trí thức và năng lực để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân. Con người mới tất yếu phải là con người lao động, biết phát huy truyền thống lao động cần cù và đấu tranh anh dũng của dân tộc. Lao động với tinh thần tự nguyện, tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình tận tụy, sẵn sàng cống hiến mọi trí tuệ và sức lực cho sự nghiệp xây dựng CNXH. Là con người có tinh thần cách mạng tiến công, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào, coi lao động là vinh dự, hạnh phúc là lẽ sống. Là con người lao động thật thà, kiên quyết đoạn tuyệt với thái độ chây lười, thích sống ăn bám, coi thường kỷ luật lao động, nói dối, làm dối; là con người biết quý trọng và bảo vệ của công, lao động một cách có kỷ luật, có kỹ thuật, có sáng tạo và đạt năng suất cao; con người mới là con người có lòng yêu nước XHCN nồng nàn, kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng. Con người mới là con người có tình thương yêu sâu sắc đối với nhân dân lao động, biết đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động chiến đấu và xây dựng cuộc sống mới. Lấy việc xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người làm lý tưởng cao đẹp, làm hạnh phúc lớn của mình. Con người mới là con người biết xây dựng gia đình hạnh phúc, trên cơ sở của một xã hội hạnh phúc, có trách nhiệm đầy đủ và tình yêu chân thực trong quan hệ vợ chồng có trách nhiệm cao đối với việc xây dựng con cái thành những con người mới.”[7]

Ảnh: Thế Dương/CPV

Đại hội Đảng lần thứ IV, đã xác định quan điểm chỉ đạo để xây dựng nền văn hoá mới và con người mới: “Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng, văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Quá trình thực hiện ba cuộc cách mạng ấy cũng là quá trình hình thành từng bước chế độ làm chủ tập thể XHCN, nền sản xuất lớn XHCN, nền văn hoá mới và con người mới XHCN”.[8] “Con người mới vừa là sản phẩm của xã hội mới vừa là chủ thể có ý thức xây dựng xã hội mới. Tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, là tạo ra những điều kiện xã hội hết sức quan trọng để có con người mới. Song, con người mới không thể hình thành một cách tự phát, mà phải trải qua quá trình xây dựng một cách tích cực và chủ động. Hơn nữa, hoàn cảnh nước ta đòi hỏi chúng ta và cho phép chúng ta xây dựng sớm, xây dựng từng bước con người mới, không phải chờ đến sau khi có sự phát triển cao của nền sản xuất lớn XHCN. Làm như thế thì ba cuộc cách mạng sẽ được đẩy mạnh hơn, chế độ làm chủ tập thể, nền sản xuất lớn XHCN và nền văn hoá mới sẽ được xây dựng một cách nhanh chóng hơn”.[9]

“Con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội, phải bằng kết quả tổng hợp của cả ba cuộc cách mạng, phải thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua lao động và đấu tranh thì những thành viên trong xã hội mới cải tạo được mình và dần dần trở thành con người mới. Việc tiến hành ba cuộc cách mạng xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng con người mới, phải nhằm đảm bảo những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh việc xây dựng con người mới. Phải xây dựng con người mới từ lúc mới lọt lòng và ở tất cả mọi lứa tuổi, trong tất cả các tổ chức quần chúng, các cơ sở kinh tế, văn hoá, các hoạt động xã hội ở mọi ngành, mọi cấp, trong từng khu phố, thôn xóm và gia đình. Xây dựng con người mới là một công việc rất công phu, phải được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch trên quy mô xã hội và đối với từng người. Phải có nhiều biện pháp về các mặt: Tư tưởng và tổ chức, giáo dục và hành chính, chính trị và văn hoá, pháp chế và kinh tế… Trong các biện pháp ấy, tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá, áp dụng phổ biển phương pháp tự phê bình và phê bình, là biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt. Việc xây dựng con người mới phải được tiến hành thường xuyên liên tục, kiên trì, bền bỉ, đồng thời phải có những đợt vận động tập trung, phải qua nhiều phong trào, phong trào của từng đoàn thể, từng giới, từng lứa tuổi nói riêng nhất là phong trào lao động sản xuất”.[10]Dưới ánh sáng của đường lối của Đại hội IV và V, cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá đã được triển khai đồng thời với cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH và giành thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Những thành tự quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN đã góp phần quan trọng trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược.Tuy nhiên trong thời kỳ này, do Đảng ta phạm nhiều khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối kinh tế nhất là trong bố trí cơ cấu kinh tế, cả cơ cấu các ngành kinh tế và cơ cấu sản xuất đầu tư; Những khuyết điểm sai lầm trong tiến hành cải tạo XHCN và củng cố quan hệ sản xuất mới, và duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nhất là những sai lầm trong thực hiện chính sách giá, lương, tiền, cùng với những yếu kém trong công tác tư tưởng văn hoá cho nên từ đầu những năm 80, nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đối với con đường đi lên CNXH bị giảm sút.

Năm 1986, tại Đại hội VI, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, theo định hướng XHCN. Ngày 28 tháng 11 năm 1987, triển khai thực hiện đường lối văn hoá của Đại hội VI, Bộ chính trị ra nghị quyết 05-NQ/TW về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật và văn hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới. Tại nghị quyết chuyên đề này, Đảng ta xác định: “Văn hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hoá, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người. Văn hoá Việt Nam kết tinh tâm hồn, trí tuệ tài năng và đạo lý làm người của nhân dân ta trong lịch sử hàng nghìn năm giữ nước và dựng nước. Hiện nay, văn hoá là bộ phận trọng yếu của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá là một động lực mạnh mẽ đồng thời là một mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Văn hoá và văn học nghệ thuật có tác dụng to lớn trong việc góp phần thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng con người mới XHCN; có chức năng bồi dưỡng đạo đức tình cảm và năng lực thẩm mỹ cho con người, thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng tăng của nhân dân. Giai đoạn mới của cách mạng XHCN ở nước ta, đặc biệt là công cuộc đổi mới sâu sắc toàn diện hiện nay đòi hỏi văn hoá văn nghệ nước ta phải vươn lên đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra với duy mô và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các nền văn hoá ngày càng mở rộng, văn hóa văn nghệ nước ta ngày càng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm …

Tinh thần chung của các chính sách biện pháp là phải bảo đảm những điều kiện để văn hóa văn nghệ làm tốt vai trò xã hội với chức năng cao cả của nó. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm cơ bản của Đảng là coi trọng con người, coi con người là động lực quan trọng nhất và là mục tiêu phục vụ và xây dựng cao nhất của mọi hoạt động kinh tế xã hội. Phải xem việc đầu tư cho sự nghiệp văn hóa để phục vụ con người, xây dựng con người mới XHCN.”[11]

Tổng kết thực tiễn 12 năm đổi mới tư duy, đổi mới cách làm để thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, xây dựng con người – một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng văn hóa trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Ngày 16 -7 -1998, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã ban hành nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết quan trọng này được coi là cương lĩnh văn hóa của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Tại nghị quyết này, Đảng ta xác định “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh trên thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc lên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nhận thức nội hàm của văn hóa với 9 lĩnh vực sau:

-Tư tưởng đạo đức và lối sống, mà cốt lõi của các giá trị văn hóa là hệ tư tưởng. Đây là lĩnh vực then chốt của văn hóa.

-Khoa học kỹ thuật

-Giáo dục đào tạo

-Văn hóa nghệ thuật

-Thông tin đại chúng

-Giao lưu văn hóa với nước ngoài

-Di sản văn hóa [Di sản vật thể và phi vật thể]

- Văn hóa tôn giáo

-Thể chế văn hóa

Nghị quyết xác định phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là: Phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự do tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH-HĐH, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh tiến bước vững chắc lên CNXH. Nghị quyết xác định 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản :

-Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội .

-Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

-Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

-Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp toàn dân, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

-Văn hóa là một mặt trận, xây dựng, phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng, và sự kiên trì, thận trọng.

Qua thực tiễn 15 năm thực hiện nghị quyết TW5, tại nghị quyết 33- NQ/TW khóa XI,về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã bổ sung, phát triển hoàn thiện mục tiêu chung xây dựng nền văn hóa con người Việt Nam là phát triển toàn diện, hướng tới Chân – Thiện –Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xác định 5 quan điểm chỉ đạo :

- Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

-Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

-Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Nghị quyết TW33 có một nhận định rất quan trọng: “15 năm thực hiện nghị quyết TW5, khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Nhưng thành tựu trên lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng với thành tựu trên các lĩnh vực khác, nhất là chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa và tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục, tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng”.[12] Đáng chú ý là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi phức tạp hơn, Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng tập trung vào số Đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty. Nhiều tổ chức Đảng và Đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh ngăn chặn “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hoá”.[13]

Công tác tư tưởng có phần trách nhiệm đối với những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trên. Trách nhiệm đó là, từ những hạn chế yếu kém trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức học tập, nghiên cứu quán triệt, hướng dẫn hành động thực hiện nghị quyết, hoạt động kiểm tra phát hiện nhân tố mới để cổ vũ, động viên, nhân rộng, chỉ đạo, hướng dẫn đấu tranh khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm. Cho nên như Nghị quyết 04-NQ/TW Khoá XI đã nhận định: “Nhiều cấp uỷ, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này, lãnh đạo chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hoá, thể chế hoá nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá chậm được đổi mới có lúc có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hoá để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản các cấp”[14]

Ngày nay nhân dân ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện và đồng bộ, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc “vì dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh”, là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng thời là một quá trình cải biến xã hội sâu sắc đòi hỏi phát huy khả năng và trí tuệ ở mỗi con người Việt Nam. Ngày nay trong điều kiện bùng nổ của cách mạng khoa học hiện đại; yếu tố quyết định cho sự phát triển là trí tuệ, là thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng. Do đó để trở thành giàu mạnh không chỉ phụ thuộc vào nhiều hay ít lao động vốn kỹ thuật công nghệ, tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là khả năng phát huy đến mức cao nhất tài năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hoá. Và văn hoá có khả năng khơi dậy, nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Để văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, hơn lúc nào hết Đảng cần phải tăng cường lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá con người trong thời kỳ mới. Đội ngũ cán bộ tư tưởng văn hoá khoa giáo được nhận trọng trách là chiến sỹ tiên phong trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân – Thiện – Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc nhân văn, dân chủ và khoa học, hơn lúc nào hết:

- Đội ngũ cán bộ tư tưởng phải đi đầu trong tiếp tục đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, đổi mới cách làm. Từng đồng chí trực tiếp đọc, nghiên cứu để thấu triệt nghị quyết Trung ương 33 – Khoá XI, biến nhận thức hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng phát triển nền văn hoá con người Việt Nam trong thời kỳ mới thành tư tưởng, tình cảm, thành trách nhiệm tự giác gương mẫu thực hiện của bản thân mình.

- Phải đổi mới cách làm công tác tuyên truyền giáo dục để thực sự nâng cao nhận thức trong Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá con người Việt Nam. Phải có chương trình tuyên truyền giáo dục cho từng đối tượng, rất coi trọng đối tượng là các cấp uỷ, các cấp chính quyền, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các lĩnh vực của văn hoá [tư tưởng, đạo đức lối sống, giáo dục, khoa học, văn học nghệ thuật, Báo chí xuất bản truyền thông, Di sản văn hoá, Giao lưu văn hoá, văn hoá tôn giáo, thể chế thiết chế văn hoá] và đội ngũ trí thức văn nghệ sỹ. Giao trách nhiệm tuyên tuyền giáo dục này cho từng binh chủng của công tác tư tưởng đó là: các cơ quan nghiên cứu lý luận, Hệ thống các trường chính trị, Hệ thống giáo dục quốc dân, Hệ thống báo chí tuyên truyền, Hệ thống tuyên truyền miệng.

-Hướng dẫn và kiểm tra các cấp các ngành các cơ quan đơn vị trong hệ thống chính trị việc bổ sung, hoàn thiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 33 – Khoá XI.

- Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá con người Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra với tốc độ và qui mô chưa từng thấy, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, mặt trái của cơ chế thị trường, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình bạo loạn lật đổ, thúc đẩy hình thành các yếu tố để tạo ra “cuộc cách mạng màu” ở Việt Nam. Để có thể vượt qua các khó khăn thách thức này và nhất là để khắc phục cho được nguyên nhân chủ quan của những yếu kém trên, Ban bí thư trung ương cần thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về xây dựng và phát triển nền văn hóa con người Việt Nam do đồng chí Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương làm trưởng ban, Phó thủ tướng phụ trách văn xã làm phó trưởng ban, các thành viên ban chỉ đạo: Bộ trưởng Bộ văn hóa thể thao du lịch, Thứ trưởng Bộ thông tin, Thứ trưởng Bộ giáo dục, Thứ trưởng Bộ khoa học công nghệ, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư, Thứ trưởng Bộ Tài chính, Chủ tịch liên hợp các hội Văn học nghệ thuật, Bí thư thường trực Trung ương đoàn, Phó Chủ tịch tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch hội nông dân Việt Nam, Phó Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Phó Chủ tịch Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam, Chủ tịch hiệp hội văn hóa doanh nghiệp Việt Nam. Phó trưởng ban thường trực Ban tuyên giáo TW làm Ủy viên thường trực. Ban chỉ đạo TW được Ban Bí thư ủy quyền phối hợp chỉ đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết Trung ương: “Xây dựng và phát hiện nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Ban chỉ đạo TW tập trung chỉ đạo:

+ Hoàn thành thể chế hóa nghị quyết TW33 thành luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy các cơ chế chính sách. Các chương trình mục tiêu quan trọng như: Chương trình phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với hoàn thiện thị trường văn hóa, chương trình xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh: môi trường văn hóa tại các cơ quan, đơn vị, các doanh nghiệp, trường học, bệnh viện…, chương trình hội nhập quốc tế về văn hóa và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, chương trình bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Chương trình phát hiện, tôn vinh, bồi dưỡng các tài năng văn hóa, văn học nghệ thuật. Chương trình đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa; Chương trình xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt động hệ thống thiết chế văn hóa ở các đơn vị xã, phường, thị trấn, đơn vị quân đội, công an, bệnh viện, trường học; Chương trình xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể quần chúng để văn hóa thực sự là nhân tố quan trọng xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

+ Chỉ đạo tập trung nghiên cứu xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam hiện đại để làm cơ sở định hướng cho hệ thống chính trị và các tổ chức cơ quan đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa thực hiện trong tiến trình đào tạo con người từ khi lọt lòng.

[1]Trường Chinh – Nhà văn hoá lớn của Việt Nam. Báo Nam Định, ngày 21/11/2019.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Tập 5 – Trang 677.

[3],[4],[5]Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập – Tập 21 – Trang 549, 550, 556, 557.

[6] Văn kiện Đảng toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – Tập 37 – Trang 500

[7] Văn kiện Đảng toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Tập 37 – Trang 501-503.

[8] Văn kiện Đảng toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Tập 37 – Trang 491.

[9] Văn kiện Đảng toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Tập 37 – Trang 501.

[10].Văn kiện Đảng toàn tập - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Tập 37 – Trang 503-504.

[11]. Văn kiện Đảng toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2011 – Tập 48 - Trang 842-846

[12]. Nghị quyết số 33- NQ/TW Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng [ Khóa XI] về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

[13]. Nghị quyết số 04/NQ-TW Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành TW Đảng [Khoá XII] về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng…

[14]. Nghị quyết số 33/TQ-TW Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng [Khoá XI] về xây dựng, phát triển văn hoá con người…

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người vì sự phát triển bền vững

[ĐCSVN] – Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các đại biểu đã đóng góp những ý kiến tâm huyết, trách nhiệm. Đây sẽ là cơ sở để lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII

Văn hóa hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc

​Xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam

Toàn cảnh Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 2021

Khơi dậy động lực và sức mạnh nội sinh của văn hoá thúc đẩy sự phát triển đất nước

Khẳng định vai trò của văn hóa trong việc phát triển nhanh và bền vững đất nước

Tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về phát triển văn hóa

Tham luận tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch khẳng định: Trong dòng chảy của văn hóa Việt Nam sau 35 năm đổi mới cho thấy, nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Tư tưởng, đạo đức và lối sống - lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích cực; hệ thống chính sách pháp luật về văn hóa tiếp tục được hoàn thiện, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá; công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm; tổ chức tốt hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam ra thế giới. Thực tiễn đã chứng minh, những lúc đất nước khó khăn thì các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ; lòng yêu nước, tinh thần tương thân, tương ái, sống có nghĩa, có tình, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam lại càng tỏa sáng; cả dân tộc kết thành một khối thống nhất về ý chí và hành động.Văn hoá đã có những đóng góp tích cực, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ các đại biểu tham dự hội nghị.

Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển, lĩnh vực văn hóa còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập: Đã xuất hiện các hiện tượng văn hóa tầm thường, dễ dãi, mang tính thị trường; các biểu hiện “lệch chuẩn” trong hưởng thụ văn hóa. Môi trường văn hóa, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, văn minh công cộng chưa được xây dựng theo hướng văn hóa… Đời sống văn hóa, tinh thần ở một số nơi còn đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa chậm được rút ngắn; chưa có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao; việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa còn gặp khó khăn. Cơ chế chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa vốn rất phong phú, giàu có của Việt Nam thành sự đa dạng, giàu bản sắc và có khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa còn thiếu đồng bộ. Một hệ sinh thái thực sự để các ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cũng như tạo ra sự cân bằng, đa dạng và bền vững hơn cho nền kinh tế chưa đủ điều kiện để hình thành. Thể chế về văn hóa đang trong quá trình từng bước hoàn thiện, công tác cán bộ của Ngành văn hóa nói chung, đội ngũ văn nghệ sĩ - những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa của Đảng nói riêng còn có sự bất cập.

Ý thức sâu sắc được trách nhiệm của mình về phát triển văn hóa mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ giao phó, trong thời gian tới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ nỗ lực, tập trung thực hiện các nội dung trọng tâm.

Thứ nhất, tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 và Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa: Làm tốt vai trò tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền để Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị.

Thứ hai, xác định nhiệm vụ tham mưu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển văn hóa, thể thao và du lịch là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên, đột phá phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ, trên cơ sở xuất phát từ thực tiễn. Giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030 tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án Luật, Nghị định thuộc lĩnh vực văn hóa .

Thứ ba, định hình hệ sinh thái văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Sự hoàn thiện con người cần và chỉ có thể thực hiện được trong văn hóa và bằng văn hóa. Do đó, cần xác định và thực hành hệ giá trị con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp yêu cầu của thời đại mới như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Thứ năm, phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ và bản quyền trí tuệ, phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 2030; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

Thứ sáu, quan tâm, dành nguồn lực thỏa đáng để đầu tư cho văn hóa. Văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá của cộng đồng, văn hóa giữ vai trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và cột mốc văn hóa trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững chắc nhất. Do vậy, đầu tư cho văn hóa là đầu tư lâu dài để hướng tới tương lai.

Mối quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước dành cho văn hóa, cùng sứ mệnh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn khắc sâu hơn ý thức trách nhiệm của mỗi trí thức, văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, nhà quản lý, những người thực hành văn hóa.

Dưới sự Lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự đồng thuận của Nhân dân bởi sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tin tưởng và kỳ vọng sau Hội nghị có tính lịch sử này, văn hóa Việt Nam sẽ được đầu tư đúng mức, được phát triển có trọng tâm, có những đột phá mạnh mẽ trong việc thúc đẩy năng lực sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, hình thành những giá trị tốt đẹp, có khả năng kết nối mạnh mẽ với các trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học công nghệ để trở thành động lực, mục tiêu của sự phát triển bền vững.

Đảng bộ Hà Nội quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo đường lối phát triển văn hóa của Đảng

Đồng chí Nguyễn Văn Phong, Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội nhận định: Trong 35 năm đổi mới, Đảng bộ Hà Nội đã liên tục có sự đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức, là thành phố đi đầu cả nước trong việc cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Trung ương về phát triển văn hóa, xây dựng con người. Đến nay, nhiệm kỳ 2020 - 2025 là kỳ đại hội thứ tám sau đổi mới [từ Đại hội X đến Đại hội XVII], Đảng bộ Thành phố đã luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển văn hóa, xây dựng con người phù hợp với điều kiện Thủ đô. Cụ thể, nhận thức về vị trí của văn hóa trong xã hội được phát triển qua từng giai đoạn.

Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm: “Chú trọng phát triển văn hóa Hà Nội trên cơ sở phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng; Thành phố vì hòa bình, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, phát triển toàn diện với những giá trị nhân văn và tinh thần yêu nước sâu sắc, tôn trọng pháp luật; giàu lòng tự hào dân tộc, ý chí, khát vọng phát triển; coi đây là sức mạnh nội sinh, động lực tinh thần to lớn để phát triển Thủ đô”; đồng thời xác định khâu đột phá: “Đưa văn hóa và con người Hà Nội thực sự trở thành giá trị tinh thần to lớn, nguồn lực quan trọng quyết định phát triển bền vững Thủ đô”.

Các đại biểu tham dự hội nghị

Nhằm cụ thể hóa các quan điểm mới về phát triển văn hóa, con người Việt Nam được đặt ra tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, bám sát tình hình thực tiễn của Thủ đô, Thành phố Hà Nội tập trung triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp vừa bảo đảm tính trước mắt, vừa có tính căn cơ, lâu dài trên tinh thần đổi mới sáng tạo, có tính đột phá, với những nhóm nội dung trọng tâm. Theo đó, tập trung nâng cao nhận thức về văn hóa và nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người Việt Nam của toàn xã hội, trước hết là của cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng, chính quyền của Thành phố; Định vị tầm nhìn rộng để hoạch định chiến lược phát triển văn hóa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Thủ đô; Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và nhân văn trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng thôn làng, khu dân cư, tổ dân phố, trường học, cơ quan, doanh nghiệp và mỗi gia đình; Tiếp tục kiên trì mục tiêu xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, phát triển toàn diện, hình thành hệ giá trị văn hóa mới trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn sâu sắc của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội ngàn năm văn hiến; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển; Phát huy tối đa mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với hơn 100 thành phố, thủ đô các nước, quan hệ kinh tế thương mại với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Để hoàn thành trọng trách nặng nề và vẻ vang ấy, Đảng bộ, chính quyền, các tầng lớp nhân dân Thủ đô, xác định phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, đoàn kết, sáng tạo, vừa phát huy truyền thống vẻ vang và những thành tựu đạt được, vừa khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, tận dụng tối đa những cơ hội, huy động được nguồn lực tổng hợp và nhất là nguồn lực từ niềm tin, sự đồng lòng, nhất trí, ý chí và khát vọng vươn lên của mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển nhanh, bền vững Thủ đô.

Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa

Theo PGS.TS Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội: Để có thể biến văn hóa thành nguồn lực, khai thác các di sản như những tài nguyên, điều quan trọng đầu tiên là phải đổi mới tư duy nhận thức một cách căn bản. Trước hết phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm văn hóa không chỉ là một lĩnh vực hoạt động thuộc phạm vi quản lý của ngành Văn hóa mà là nền tảng tinh thần của xã hội, là hồn cốt, khí chất của dân tộc.

Cùng với đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, cũng phải đánh giá đúng và thấy hết những khó khăn khi khai thác các nguồn lực văn hóa.

Trước hết, đó là những trở ngại trước các thói quen, tập tính và hạn chế của cư dân nông nghiệp khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa mà một trong những nhược điểm lớn, gây rất nhiều hậu quả tai hại là không có thói quen nhìn xa, là tâm lý “ăn xổi”. Suy cho cùng, thói quen này cũng là biểu hiện của những tàn dư lịch sử, nằm trong di tồn văn hóa. Nếu không có nhận thức thật sâu sắc để có biện pháp khắc phục hữu hiệu thì đây là một cản trở lớn cho sự phát triển. Trong thời đại ngày nay, người ta trù liệu trước cho sự phát triển ít nhất là vài chục năm.

Một trong những hạn chế lớn khác của di tồn văn hóa có hại cho sự phát triển là tâm lý bình quân cào bằng. Đây là sản phẩm của cơ cấu kinh tế - xã hội nông nghiệp - công xã. Trong lịch sử, sự bình đẳng làng xã, sự phân hóa xã hội không mấy sâu sắc đã từng đóng vai trò quan trọng cho sự cố kết/đoàn kết cộng đồng. Quan niệm “dàn hàng ngang mà tiến” hay “xấu đều hơn tốt lợi” đôi khi là những yếu tố cần thiết để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, mặt trái chính là tâm lý ghét sự vượt trội - một biểu hiện của tâm lý bình quân. Trong phát triển nói chung, đây là yếu tố có sức cản vô cùng mạnh mẽ...

Một trong những điều quyết định thành công trong sự nghiệp phát triển, đưa đất nước đi tới phồn vinh là phải khơi dậy khát vọng của cả dân tộc, đặc biệt là giới trẻ như tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra. Giáo dục văn hóa, lịch sử cho mọi tầng lớp từ lãnh đạo đến nhân dân, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên cần được coi như một nhiệm vụ mang tầm chiến lược. Khát vọng sẽ dẫn tới tự tin và có thể biến những gì mình có thành lợi thế, thành sức mạnh.

Trong thời kỳ hội nhập, văn hóa không chỉ là tài sản để cất giữ, để tự hào mà phải được coi là sức mạnh mềm của đất nước để có thể mở rộng hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trên trường quốc tế. Trên ý nghĩa này, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa không chỉ dừng ở những hoạt động giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra bên ngoài mà phải có những tính toán dài hơi và hiệu quả, trong đó đặc biệt coi trọng thế mạnh của con người Việt Nam.

Bên cạnh việc phát huy sức mạnh mềm, việc làm sống dậy các di sản, di tích cũng là một giải pháp quan trọng, cần được đặc biệt quan tâm. Việt Nam là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời và rực rõ, có truyền thống dựng nước và giữ nước vô cùng vẻ vang. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một truyền thống hào hùng và gắn với nó là vô vàn những di tích quý giá. Tuy nhiên, đến nay, những di sản này chưa được khai thác hiệu quả. Phần nhiều mới chỉ được giữ gìn theo cách bảo quản và đôi khi được tôn tạo bằng những khoản kinh phí rất hạn chế. Thế giới hiện đang có rất nhiều kinh nghiệm làm sống dậy di sản văn hóa, khai thác di sản như những tài nguyên góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Xây dựng, đào tạo thế hệ khán giả trẻ của sân khấu

NSND Trịnh Thúy Mùi, Ủy viên Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam khẳng định: Thực hiện tốt Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khóa về việc “Tiếp tục xây dựng và phát triển VHNT trong thời kỳ mới” và Nghị quyết 33-NQ/TW Hội nghị lần thứ 9 BCH TW Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước nền văn nghệ hiện đại Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỉ 21 đã có nhiều thành tựu trong hoạt động sáng tạo tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và chất lượng nghệ thuật cao, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng công chúng và bạn bè quốc tế. Nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đi sâu vào việc tuyên truyền nghị quyết của đảng, đã tác động đến tư tưởng tình cảm và làm thay đổi nhận thức để hoàn thiện về nhân cách con người. Điều ấy chứng tỏ, các chủ thể là văn nghệ sĩ đã và đang thực hiện thắng lợi đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Tuy nhiên, để hoạt động sân khấu vượt qua khó khăn, thách thức, NSND Trịnh Thúy Mùi cho rằng, ngành sân khấu rất cần đến sự quan tâm, đầu tư hơn nữa và có các cơ chế đặc thù theo đặc thù của nghệ thuật biểu diễn sân khấu, đảm bảo đời sống ,giảm bớt khó khăn cho văn nghệ sĩ, tạo động lực cho văn học nghệ thuật phát triển hài hòa cùng các thành phần khác. Những khó khăn về nhân lực, tài lực khiến cho nhiều đơn vị nghệ thuật đang tồn tại rất vất vả và chênh vênh. Chính sách tiền lương dù đã “cải cách”,vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến.

Bên cạnh đó, cần đầu tư nguồn nhân lực, xây dựng cơ chế đặc thù để đào tạo trong nước nhằm khôi phục dần sự khủng khoảng về đội ngũ sáng tạo của văn học nghệ thuật.

Một trong những đề án cần được quan tâm nhất của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam là Đề án cho chiến lược phát triển nghệ thuật sân khấu, bằng cách“Giới thiệu nghệ thuật truyền thống trong các trường học” nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị tinh hoa nghệ thuật truyền thống đang có nguy cơ thất truyền, đồng thời nhằm xây dựng, đào tạo thế hệ khán giả trẻ của sân khấu. Đây là hoạt động hết sức cần thiết, mang tính khả thi cao, vừa trang bị kiến thức lịch sử nước nhà cho giới trẻ, vừa có tác dụng đào tạo định hướng khán giả chung cho nghệ thuật sân khấu.

Cùng với đó, Nhà nước nên đầu tư và kêu gọi đầu tư cho “Quỹ hỗ trợ phát triển văn học nghệ thuật ” để đặt hàng sáng tác cho cả các đơn vị công lập và ngoài công lập tạo sự công bằng bình đẳng, nhằm tạo điều kiện tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa văn hóa nghệ thuật trong tiến trình phát triển văn hóa xã hội.

Vì sự thôi thúc khẩn thiết của đòi hỏi xã hội, nên sân khấu phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho những tác phẩm mang đề tài hiện đại nhằm tổ chức đối thoại với người xem, bằng những vở diễn phản ánh sâu sắc, sinh động vấn đề đồng thuận giữa ý Đảng và lòng dân trong cuộc sống hôm nay. Đặc biệt là đề tài chính luận về thế sự, mang ý nghĩa giáo dục tư tưởng, của Đảng. Những tác phẩm này rất cần Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều kiện cho vở diễn được biểu diễn trong các trường Đảng, các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân để cán bộ đảng viên phải là người học tập và thẩm thấu trước tiến, nhằm thực hiện quyết tâm lớn của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, để nghệ thuật góp phần tích cực nhất vào việc “phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh của con người Việt Nam” vượt qua những thách thức trong quá trình đưa đất nước phát triển và hội nhập quốc tế...

Hội nghị sẽ tiếp tục làm việc trong buổi chiều!

Nhóm PV

Quan điểm của ĐCSVN về xây dựng và phát triển văn hóa, con người hiện nay

Thứ sáu - 26/11/2021 12:11

Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội vì nó góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.


1. Đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người

Ngay từ ngày xây dựng chính quyền, Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng, phát triển văn hóa là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn hóa tác động vào môi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn hóa theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Do vậy, xây dựng, phát triển văn hóa suy cho cùng cũng là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Còn xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ. Vì vậy, xây dựng, phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa.

Nhận thức tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn hóa, con người nên trong suốt quá trình thực hiện đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Năm 1988, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, trong đó nhấn mạnh: Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ và nhân văn, dựa trên hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu không ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa vừa cập nhất với trình độ chung của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nền văn hóa này vừa đảm bảo được sự thống nhất của quốc gia - dân tộc, tạo nên sự đoàn kết dân tộc, vừa tôn trọng và phát huy sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là nền văn hóa thắm nhuần sâu sắc các giá trị nhân văn, dân chủ, tiến bộ, có sức lan tỏa và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh “nội sinh” quan trọng để phát triển đất nước.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, khóa VIII, Đảng ta tiếp tục ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 về xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bổ sung thêm quan điểm mới là: sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững đất nước;; phải coi văn hóa ngang hàng với kinh tế, phải quan tâm xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Tập trung phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới; chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Bên cạnh phát huy sức mạnh nội lực trong nước cần thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn ghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước.

Vấn đề phát triển văn hóa, con người được Đảng ta định hướng rất rõ trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, nhất là từ Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng về tính định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[1]. Theo đó, phải phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế...[2]. Để thực hiện thành công quan điểm phát triển văn hóa, con người trên, tại Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu phải “đề cao tính tiên phong gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các đơn vị... khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế xã hội[3].

Những định hướng cơ bản trong đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nói riêng và sự thành công của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Trong thời gian qua, các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã được cụ thể hóa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, ghi rõ trong Hiến pháp. Nhằm định hướng xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình mới, Đảng ta nêu rõ các quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện.

2. Quan điểm, mục tiêu của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Đảng ta đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan điểm này được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người bởi lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu không xác định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra nên nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì thế, xây dựng nhân cách con người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.

Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của xây dựng môi trường văn hóa là xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.

Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng yếu có vai trò to lớn, là nguồn lực và động lực để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm này đã phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận văn hóa của Đảng. Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung ở các quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.

3. Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Xuất phát từ 5 quan điểm trên, Đảng ta đã đưa ra 6 nhiệm vụ rất cơ bản và bao quát một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và các hoạt động văn hóa liên quan đến văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sáu nhiệm vụ đó là: [1] xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về đạo đức, tâm hồn, thể chất đến trí tuệ, năng lực; [2] xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; [3] xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; [4] nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; [5] phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa; [6] chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Để thực hiện tốt 5 quan điểm, 6 nhiệm vụ trên, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về định hướng phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phức tạp trong tình hình mới. Đó là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[4].

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cả về mặt nhận thức và cách thức.

Về nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng xác định xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ đổi mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu và động viên, tổ chức cho Nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người.
Về cách thức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng hài hòa, vừa bảo đảm để văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa thông qua việc thực hiện tốt yêu cầu của Nghị quyết 33-NQ/TW.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò quản lý nhà nước về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa, Nghị quyết số 33-NQ/TW nhấn mạnh các yêu cầu sau: Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật, quyền tác giả và các quyền khác phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, tích cực tiếp thu và ứng dụng hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về văn hóa, không ngừng đổi mới và nâng cao trình độ quản lý.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nói riêng và người Việt Nam nói chung phát triển cả về đạo đức, phẩm chất, trình độ, năng lực.

Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực văn hóa đóng vai trò quan trọng, là động lực của sự phát triển đất nước nói chung, phát triển văn hóa nói riêng. Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI yêu cầu phải xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy môn đào tạo. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức.

Trong giai đoạn hiện nay, cần đẩy mạnh xây dựng con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong cuộc sống; giàu trí tuệ, phong phú về đời sống tinh thần, trong sáng về đạo đức, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tuân thủ pháp luật, chăm lo xây dựng cộng đồng; biết suy nghĩ độc lập, tự chịu trách nhiệm, có tinh thần hợp tác, làm việc có hiệu quả; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, không ngại với khó khăn và gian khổ, có ý chí vươn lên, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Xây dựng gia đình và xã hội đoàn kết, hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc, kỷ cương, nền nếp, đời sống vật chất và tinh thần phong phú, lành mạnh; có tinh thần tương thân, tương ái, tự nguyện, tự quản, dân chủ, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Năm là, tăng cường các nguồn lực cho văn hóa về đầu tư của Nhà nước, về xã hội hóa, về quản lý, về thiết chế văn hóa, về nghiên cứu lý luận và đầu tư các nguồn lực phát triển con người toàn diện.

Để phát triển văn hóa, con người, Nhà nước cầu đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người ngang với đầu tư cho phát triển kinh tế. Bởi lẽ, chung quy mọi sự phát triển đều do con người, vì con người. Nếu giá trị văn hóa bị biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, con người bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Vì thế, Nhà nước cần đầu tư cả về tài lực, vật lực và có kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ để thực hiện mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay.

Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh xã hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ trong xã hội. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, nhất là những vùng khó khăn. Xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm. Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, con người.

Tóm lại, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển đất nước. Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người và bản sắc, cốt cách dân tộc. Con người là nguồn lực quan trọng nhất .giữ vai trò quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội Ngày nay, văn hóa, con người còn được xác định là một trong những yếu tố có vai trò quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế. Vì thế, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam hiện nay./.

TS. Phạm Thị Mỹ Phượng - Trưởng khoa Lý luận cơ sở, Trường Chính trị Tiền Giang.

Chú thích:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.143.

[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.115-116.

[3] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.262-263.

[4] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.115-116.


Video liên quan

Chủ Đề