Việc xây dựng nhà máy lọc dầu dung quất dựa trên thế mạnh

Phân xưởng CDU thuộc Nhà máy lọc dầu Dung Quất. [Ảnh: TTXVN]

Với sự phục hồi sản xuất trong tình hình mới, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã tăng công suất từ tối thiểu lên 85% vào ngày 22/9 và hiện đang vận hành ở 100% công suất.

Theo Công ty Lọc Hóa dầu Bình Sơn, đơn vị quản lý và vận hành Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, việc tăng công suất của nhà máy tại thời điểm này nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường tăng cao của dầu diesel.

Với việc chủ động tăng công suất vận hành, đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho, linh hoạt trong chính sách bán hàng của BSR cũng như các nhà kinh doanh xăng dầu sẽ đảm bảo nguồn cung trong nước, hạn chế các trường hợp trục lợi, đầu cơ, găm hàng, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp và người dân nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất trở lại ngay sau đại dịch.

Tuy nhiên, BSR cũng cho biết việc tăng công suất  này cũng đặt ra những thách thức cho BSR khi mức độ phục hồi tiêu thụ xăng dầu còn chậm nên dự kiến trong các tháng cuối năm việc tiêu thụ sản phẩm vẫn còn nhiều khó khăn.

Cùng đó, trước dự báo về một mùa đông lạnh, hoạt động khai thác dầu ở Bắc bán cầu sẽ chịu tác động tiêu cực, thị trường dầu mỏ được dự báo có nhiều diễn biến khó lường và có xu hướng tăng.

Những ngày đầu tháng 10, giá dầu Brent đã chạm mốc 82 USD/thùng, mức cao nhất 3 năm qua.

Kết hợp với nhu cầu tăng nhanh và tăng cao sau đại dịch ở các nền kinh tế đã mở cửa, đẩy giá dầu thế giới có xu hướng tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Vì vậy giá dầu thô đầu vào cao cũng sẽ là một thách thức khác đối với BSR trong việc duy trì giá thành sản xuất sản phẩm xăng dầu đầu ra ở mức hợp lý.

Để vượt qua thách thức này, cùng với việc triệt để tiết giảm chi phí, BSR đã triển khai các giải pháp quản trị biến động như tối ưu hóa cơ cấu sản phẩm, huy động các kho ngoài nhà máy để tăng dung tích chứa sản phẩm.

Công ty cũng ban hành các chính sách kích cầu bán sản phẩm để tránh tồn kho xăng dầu tăng cao, đảm bảo quay vòng vốn sản xuất kinh doanh hiệu quả./.

Anh Nguyễn [TTXVN/Vietnam+]

Nhà máy lọc dầu Dung Quất: Công trình của sự kết tinh trí tuệ ý Đảng hợp lòng dân

Ông Đinh La Thăng, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam khẳng định: Dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất tại Khu kinh tế Dung Quất [Quảng Ngãi] là hạt nhân công nghiệp tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, tạo đà cho phát triển toàn diện các ngành công nghiệp và kinh tế của khu vực, đảm bảo cho sự phát triển kinh tế cân đối giữa các vùng, miền của đất nước. Đây là minh chứng hết sức sinh động cho một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Nhà máy lọc dầu Dung Quất thực sự xứng đáng là: Kết tinh của trí tuệ, sức mạnh của dân tộc Việt Nam, là sản phẩm của đường lối đổi mới và phát huy nội lực của Đảng ta; là biểu tượng của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.

* Chủ trương đúng

Ngày 19/9/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trực tiếp thị sát khu vực vịnh Dung Quất - Quảng Ngãi và chỉ thị cho các bộ, ngành liên quan phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục khảo sát và lập quy hoạch Khu Công nghiệp tập trung, NMLD số 1 và Cảng nước sâu Dung Quất [nay là Khu Kinh tế Dung Quất]. Sau khi xem xét những kết quả khảo sát khoa học thu được và quy hoạch sơ bộ, ngày 09/11/1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 658/QĐ-TTg về địa điểm xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 và quy hoạch Khu kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó chính thức chọn Dung Quất - Quảng Ngãi làm địa điểm xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 .

Trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta, việc xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất có thể được xem như một bước tiến cực kỳ quan trọng đặt nền móng cho ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Với tổng mức đầu tư trên 3 tỷ USD, dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ giải quyết có hiệu quả các nhu cầu về việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách và phát triển các ngành dịch vụ khác của địa phương trong giai đoạn xây dựng cũng như giai đoạn vận hành sản xuất. Chính vì thế tại bàn nghị sự của Quốc hội cũng đã được thảo luận sôi nỗi và đi đến Quyết định đầu tư xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Việc xây dựng NMLD Dung Quất còn là tiền đề thúc đẩy các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục đầu tư vào Khu kinh tế Dung Quất trên các lĩnh vực công nghiệp hóa chất, công nghiệp cơ khí, chế tạo và lắp ráp, đóng sửa tàu biển, luyện cán thép, vận tải, điện tử, chế biến và các ngành công nghiệp khác. Với quy mô và ý nghĩa như vậy, NMLD được xem như trái tim của Khu kinh tế Dung Quất.

Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Chính phủ, các bộ ngành và cơ quan Trung ương, sự phối hợp chặt chẽ của tỉnh Quảng Ngãi, cộng với những nỗ lực vượt bậc của chủ đầu tư cùng hàng vạn cán bộ, kỹ sư, chuyên gia, công nhân thuộc các nhà thầu trong nước và quốc tế, NMLD Dung Quất đã được xây dựng hoàn thành và đưa vào vận hành đúng tiến độ, cho ra dòng sản phẩm thương mại đầu tiên vào ngày 22/2/2009.

* Tổng quan về nhà máy lọc dầu Dung Quất

Sau một thời gian tích cực đàm phán, ngày 17/5/2005, Hợp đồng EPC 1+4 đã được ký kết giữa PetroVietnam và Tổ hợp nhà thầu Technip gồm Công ty Technip France [Pháp], Technip Geoproduction [Malaysia], JGC [Nhật Bản], Tecnicas Reunidas [Tây Ban Nha] thực hiện, trong đó Technip France đứng đầu. Ngày 28/11/2005, Lễ khởi công các gói thầu EPC 1+2+3+4 được Tổ hợp Nhà thầu Technip phối hợp với PetroVietnam tổ chức tại công trường.

Nhà máy lọc dầu Dung Quất [NMLD Dung Quất] đặt tại Khu kinh tế Dung Quất, thuộc địa bàn các xã Bình Thuận và Bình Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi . Với diện tích sử dụng: Mặt đất khoảng 338 ha; mặt biển khoảng 471 ha. Trong đó, Khu nhà máy chính 110 ha; Khu bể chứa dầu thô 42 ha; Khu bể chứa sản phẩm 43,83 ha; Khu tuyến dẫn dầu thô, cấp và xả nước biển 17 ha; Tuyến ống dẫn sản phẩm 77,46 ha; Cảng xuất sản phẩm 135 ha; Hệ thống phao nhập dầu không bến, tuyến ống ngầm dưới biển và khu vực vòng quay tàu 336 ha. Công suất chế biến: 6,5 triệu tấn dầu thô/năm; [tương đương 148.000 thùng/ngày]; giai đoạn 2 mở rộng lên đến trên 10 triệu tân/năm. Nguyên liệu: Giai đoạn 1: Chế biến 100% dầu thô Bạch Hổ [Việt Nam]; Giai đoạn 2: Chế biến dầu thô hỗn hợp [85% dầu thô Bạch Hổ + 15% dầu chua Dubai].

Trong suốt 44 tháng xây dựng, Chủ đầu tư cùng với các nhà thầu đã thực hiện một khối lượng công việc rất lớn bao gồm: Tham gia thực hiện gói thầu EPC 1+4 và 2+3 ngoài tổ hợp nhà thầu chính Technip còn có 47 nhà thầu phụ và 151 nhà thầu phụ thứ cấp. Đã có hơn 1.000 chuyên gia của nhà thầu và hàng trăm cán bộ giám sát thiết kế của chủ đầu tư và nhà thầu tư vấn quản lý dự án được huy động làm việc liên tục trong nhiều tháng tại 4 trung tâm trên thế giới. Tài liệu thiết kế chi tiết và bản vẽ kỹ thuật phục vụ chế tạo, xây lắp được phê duyệt lên đến hàng triệu bản. Số kỹ sư và công nhân tham gia gói thầu vào khoảng 14.000 đến 15.000 người đến từ 30 quốc gia. Các nhà thầu Việt Nam đảm nhận khoảng 75% khối lượng công tác xây lắp trên công trường. Tổng số giờ công thi công trên công trường đạt khoảng gần 66 triệu giờ.

Để mô tả khối lượng công việc lớn của gói thầu EPC 1+4 và 2+3, tổng thầu của Technip đã so sánh: "Tổng số tài liệu thiết kế và sổ tay vận hành chất đầy khoảng 100 xe tải; diện tích các gói thầu chính xấp xỉ 600 hecta, tương đương với 1.200 sân bóng đá; hơn 150.000 tấn vật tư, thiết bị, tương đương với một triệu xe máy; trên 5 triệu mét dây cáp điện, đủ để căng 2 lần từ Hà Nội đến thành phố Hồ Chí Minh; gần 17.000 tấn thép các loại, đủ để xây dựng 2 tháp Eiffel – Paris; và một nhà máy điện công suất trên 100 Megawatt đủ dùng cho cả thành phố Quảng Ngãi". Gói thầu 5A - Đê chắn sóng, đã nạo vét và thay thế trên 1,2 triệu mét khối cát và đá, thi công đổ 1.568.000 m3 đá thân đê, đúc và lắp đặt 21.472 cấu kiện bê tông phá sóng Accropode; Gói thầu 5B - Cảng xuất sản phẩ m, đã thi công 2.238 cọc đỡ cầu cảng, trong đó có 821 cọc khoan và hạ vào đá gốc, 1.417 cọc đóng; đúc và lắp đặt 168 dầm dự ứng lực, đổ trên 48.000 m3 bê tông sàn cầu dẫn.

Về c ơ cấu sản phẩm: Việc chỉnh sửa thiết kế tổng thể đã cho phép nhà máy sản xuất ra cơ cấu sản phẩm mới có chất lượng cao hơn, đón đầu và cạnh tranh được với thị trường xăng dầu trong khu vực cũng như trên thế giới. Trong đó, sản lượng hàng năm các sản phẩm chính đó là: Propylene có 204.200 tấn; LPG có 505.300 tấn; Xăng Mogas 92có 2.198.100 tấn; Xăng Mogas 95 có 377.600 tấn; Dầu hỏa/nhiên liệu phản lực J-A1 có 236.800 tấn; Diesel ôtô có 1.902.100 tấn; Dầu nhiên liệu [FO] có gần 78.000 tấn.

Đối với nhân lực vận hành: Công tác đào tạo do chủ đầu tư thực hiện bắt đầu từ năm 2006 và hoàn thành vào giữa năm 2007. Công tác đào tạo của nhà thầu gói thầu EPC số 1+2+3+4 tiến hành vào năm 2007 và kéo dài đến giai đoạn chạy thử nhà máy. Để đảm bảo tốt công tác đào tạo nhân lực vận hành NMLD, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Tổng công ty dầu khí Việt Nam tổ chức đấu thầu để chọn Nhà thầu cung cấp dịch vụ đào tạo và trợ giúp vận hành trong giai đoạn chạy thử NMLD Dung Quất. Đã có 1.046 kỹ sư và công nhân kỹ thuật được đào tạo ở trong nước và nước ngoài để vận hành nhà máy theo đúng kế hoạch, trong đó có 510 kỹ sư và công nhân kỹ thuật là người Quảng Ngãi, chiếm tỷ lệ 48,75%.

Về Tiến độ tổng thể: Tổng thời gian thực hiện dự án là 44 tháng. Trong đó, giai đoạn thiết kế, mua sắm và hoàn thiện xây lắp cơ khí là 36 tháng; giai đoạn chạy thử, chạy nghiệm thu là 08 tháng. Nghiệm thu bàn giao toàn bộ công trình vào tháng 4/2010.

Về Tổng mức đầu tư: Tổng mức đầu tư của dự án NMLD Dung Quất theo Quyết định 546/QĐ-TTg là 2,501 tỷ USD chưa bao gồm chi phí tài chính. Tổng mức đầu tư sau khi đã tính toán phát sinh và lập hồ sơ hoàn công lên khoảng 3,1 tỷ USD.

* Hiệu quả rõ ràng

Dự án xây dựng NMLD Dung Quất là công trình trọng điểm quốc gia về dầu khí có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ngãi và các tỉnh, thành phố trong khu vực Miền Trung. Việc đầu tư xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất cho phép chúng ta chế biến dầu thô trong nước, đảm bảo từng bước về an ninh năng lượng, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp xăng dầu từ nước ngoài, góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Theo tính toán, NMLD Dung Quất khi đi vào hoạt động với công suất 6,5 triệu tấn/năm, sẽ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu sử dụng xăng dầu trong nước.

Qua hơn một năm đưa vào vận hành chạy thử, tính đến đầu tháng 5/2010, số lượng dầu thô Bạch Hổ đã nhập vào nhà máy hơn 3,740 triệu tấn phục vụ công tác chạy thử, chạy nghiệm thu, đã chế biến được gần 3 triệu tấn sản phẩm các loại và tiêu thụ trên thị trường hơn 2,815 triệu tấn. Theo kế hoạch năm 2010, nhà máy sẽ nhập 5 triệu tấn dầu thô, chế biến 4,76 triệu tấn sản phẩm các loại, doanh thu đạt khoảng 63.000 tỷ đồng, sẽ nộp ngân sách nhà nước từ 7.450 tỷ đến 8.800 tỷ đồng.

Việc đưa Nhà máy lọc dầu Dung Quất vào vận hành thương mại từ ngày 22 tháng 02 năm 2009 đã đánh dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử của ngành Dầu khí, là nền móng đầu tiên cho sự phát triển ngành công nghiệp lọc hóa dầu, đáp ứng mục tiêu của chiến lược phát triển Ngành dầu khí giai đoạn 2005 - 2015, tầm nhìn 2025; góp phần đảm bảo an ninh năng lượng của Quốc gia. Nhà máy lọc dầu Dung Quất thực sự xứng đáng là: Kết tinh của trí tuệ, sức mạnh của ý Đảng lòng dân; là sản phẩm của đường lối đổi mới và phát huy nội lực của Đảng ta; là biểu tượng của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh./.

Video liên quan

Chủ Đề