Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành đổi mới năm 1986

 
Xét về thời gian, có người nói đổi mới bắt đầu từ Ðại hội VI của Ðảng [1986]. Cũng có người nói, đổi mới có từ trước đó, từ Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương khóa IV [năm 1979]. Lại có người đi xa hơn, rằng trong nông nghiệp đã có sự đổi mới từ chủ trương khoán hộ của Vĩnh Phúc ngay từ hồi còn chiến tranh.

Xét về hành động và tư tưởng đổi mới, có người cho rằng đổi mới bắt đầu từ việc làm sau đó mới có đổi mới về tư tưởng, nói một cách khác thực tế đổi mới có trước, lý luận đổi mới có sau.

Liên quan đến cấp đổi mới, có ý kiến cho rằng, đổi mới bắt đầu từ nhân dân, cũng có nghĩa là từ cơ sở, sau đó mới có đổi mới ở cấp trên, cấp trên thừa nhận thực tiễn đổi mới ở cấp dưới, từ đó đã ra chủ trương đổi mới của chính mình.

Về lĩnh vực đổi mới, có ý kiến cho rằng đổi mới bắt đầu từ kinh tế rồi mới đến chính trị và các lĩnh vực khác, lại có ý kiến ngược lại rằng đổi mới bắt đầu từ chính trị, cụ thể là từ việc đổi mới tư duy, nếu không có đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế thì cũng sẽ không có đổi mới kinh tế.

Ðể trả lời các ý kiến nêu trên, quyết không thể đi theo lối tư duy tư biện, sách vở mà trước hết phải xuất phát từ thực tế, nhìn lại một cách khách quan quá trình đổi mới ở nước ta từ trước đến nay. Ðại thể như sau:

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta có tư tưởng chủ quan, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn. Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó về quản lý kinh tế, những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp bộc lộ ngày càng gay gắt, dẫn tới đất nước dần dần lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Muốn vậy, trước hết phải thay đổi mạnh mẽ cách nghĩ, cách làm. Từ đó có những tìm tòi thử nghiệm và cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp mới cho những vấn đề đặt ra.

Hội nghị Trung ương 6 khóa IV [8-1979], với chủ trương bằng mọi cách "làm cho sản xuất bung ra", là bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử nghiệm đó. Hội nghị chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc trao đổi tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hóa; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức; sửa lại thuế lương thực và giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng, v.v... Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã nhanh chóng được nhân dân cả nước đón nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, trong cả nước đã xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới. Long An từ giữa năm 1980 đã thí điểm mô hình theo cơ chế "mua cao, bán cao", "bù giá vào lương" thay đổi cho cơ chế "mua cung, bán cấp". Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh thí điểm hình thức khoán. Từ thực tế các thí điểm đó, Chỉ thị 100 CT/T.Ư [ngày 13-1-1981] của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp ra đời. Tiếp đó, trong công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của cơ sở trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các xí nghiệp theo các Quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ. Các nghị quyết Trung ương 6, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ cho thấy những ý tưởng ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.

Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng [3-1982] phát triển thêm một bước, đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Ðể góp phần khắc phục tư tưởng nóng vội, Ðại hội đưa ra khái niệm về "chặng đường trước mắt" của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này, nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là "coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu hợp lý". Ðại hội cũng khẳng định sự tồn tại 5 thành phần kinh tế trong một thời gian nhất định ở miền nam.

Tuy nhiên, sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa V [12-1983] lại cho rằng sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế, xã hội, từ đó, chủ trương để ổn định tình hình, phải đẩy mạnh hơn nữa sự cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xóa bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải sản quan trọng, thống nhất quản lý giá, v.v...

Hội nghị Trung ương 8 khóa V [6-1985] lại là bước đột phá thứ hai với chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Tháng 9 năm 1985, cuộc tổng điều chỉnh giá lương - tiền được bắt đầu bằng việc đổi tiền, xóa bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu. Do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Ðầu năm 1986, lại phải lùi một bước: Quay trở lại thực hiện chính sách hai giá...

Hội nghị Bộ Chính trị khóa V [8-1986] là bước đột phá thứ ba với "Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế". Nội dung là: [1] Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sự phát triển công nghiệp nhẹ; phát triển có chọn lọc công nghiệp nặng. [2] Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. [3] Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.

Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo lại  một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội VI của Ðảng.

Ðại hội VI của Ðảng [12-1986] đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa ở nước ta, với việc đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong đánh giá tình hình, Ðại hội đưa ra phương châm "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", từ đó không chỉ khẳng định những thành tựu đạt được mà còn thẳng thắn vạch ra sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong phân phối lưu thông, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và cả trong cơ chế quản lý nền kinh tế. Ðại hội đã kết luận rằng "những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện". Và: "Những sai lầm đó bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Ðảng. Ðây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân...".

Tiếp tục tư tưởng về phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Ðại hội VI xác định chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, xem ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo là nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát những năm còn lại của chặng đường đầu tiên này.

Sau Ðại hội VI, Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hóa đường lối đổi mới của Ðảng, làm cho nghị quyết Ðại hội VI đi dần vào cuộc sống.

Nét nổi bật nhất của tình hình là từ cuối năm 1988, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu ngày càng chao đảo, việc thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập đã dẫn đến sự phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng, chĩa mũi nhọn công kích vào Ðảng cộng sản và chủ nghĩa Mác - Lê-nin, gieo rắc những tư tưởng hoài nghi, bi quan, dao động với chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI [3-1989], cùng với việc tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đã nêu ra sáu nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới chứ không đổi mầu là nguyên tắc đầu tiên.

Ðại hội VII của Ðảng [năm 1991] là một bước phát triển đặc biệt quan trọng của quá trình đổi mới, với việc thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Ðảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; khẳng định xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một phương hướng chiến lược lớn. Sự khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh [cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin] là nền tảng tư tưởng của Ðảng có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

Ðại hội VIII của Ðảng [6-1996] khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; xem đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt; làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tiếp tục coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu.

Ðại hội IX của Ðảng [tháng 4-2001] là Ðại hội mở đầu thế kỷ 21 ở Việt Nam, vừa đưa ra cái nhìn tổng quát về thế kỷ 20 với những thành tựu rực rỡ mà cách mạng nước ta và dân tộc ta đã giành được trong thế kỷ này, vừa khẳng định triển vọng của thế kỷ 21, xác định mục tiêu chung của nước ta trong giai đoạn hiện nay là "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhằm phấn đấu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm kỷ niệm 1000 năm  Thăng Long. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Ðại hội nêu lên ba nội dung có tính chất đột phá: [1] Ðánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn vị trí, vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh, coi "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,..." khẳng định "Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Ðảng và dân tộc ta". [2] Khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. [3] Coi việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một nhân tố rất cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo đó, "động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Ðảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội".

Khi nói các Ðại hội Ðảng là những cột mốc của quá trình đổi mới ở nước ta, chúng ta đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của các Hội nghị Trung ương trong từng nhiệm kỳ, đặc biệt là Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, đã cụ thể hóa và phát triển nội dung các nghị quyết của Ðại hội VII và đưa các nghị quyết ấy vào cuộc sống. Trong 5 năm gần đây các Hội nghị Trung ương của nhiệm kỳ khóa IX đã có thêm nhiều cống hiến về mặt thực tiễn và phát triển lý luận trên các vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh, v.v...

Cái nhìn tổng quát về quá trình đổi mới ở nước ta như trên cho phép chúng ta trả lời câu hỏi: "Ðổi mới bắt đầu từ đâu" dưới bốn góc độ được nêu ở phần đầu bài viết.

Về thời gian, đổi mới không phải chỉ mới bắt đầu từ Ðại hội VI [1986] mà đã manh nha từ giữa nhiệm kỳ Ðại hội IV, đánh dấu bằng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa này [1979] và các Nghị quyết Trung ương tiếp theo, tiếp đó là Ðại hội V mà thời gian từ đó đến Ðại hội VI là một quá trình đấu tranh gay gắt và phức tạp giữa những nhân tố đầu tiên của đổi mới với những tư tưởng muốn duy trì cơ chế quản lý cũ. Ðối với bản hòa tấu đổi mới, thời kỳ này chưa hẳn đã là khúc nhạc dạo đầu nhưng cũng đã là những nốt nhạc rất sáng được liên kết lại. Tuy vậy cũng phải thấy rằng, chỉ đến Ðại hội VI thì đổi mới mới trở thành đường lối chính thức của Ðảng ta - đường lốí đổi mới toàn diện, cũng tức là bản hòa tấu đổi mới mới thật sự bắt đầu.

Tổng kết lại, chúng ta thấy rõ: Ðường lối đổi mới không phải tự nhiên mà có. Ðó là kết quả của một quá trình tìm tòi, thử nghiệm; thông qua những trăn trở, đấu tranh gian khổ về tư duy trên cơ sở tổng kết thực tiễn kết hợp với vận dụng lý luận, tạo ra những đột phá quan trọng. Ðó là quá trình từng bước từ thấp đến cao, từ đổi mới bộ phận đến đổi mới căn bản, từ đổi mới từng mặt đến đổi mới toàn diện.

Về mối quan hệ giữa hành động và tư tưởng, có thể nói việc làm đổi mới là có trước, bởi nó xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, yêu cầu của sự gỡ bí và tìm lối ra, bắt đầu từ những hành động riêng lẻ, thậm chí lúc đầu khoán cũng là "khoán chui", phá bỏ ngăn sông cấm chợ cũng là "xé rào", hành động gì lúc khởi đầu cũng đều mang tính tự phát. Tất nhiên không ai có thể nói rằng những hành động tự phát ấy hoàn toàn không xuất phát từ một suy nghĩ bức xúc [tư tưởng], song phải đến khi thực tế được tổng kết, trở thành tư tưởng chỉ đạo thì mới có thể thực sự coi đó là "tư tưởng đổi mới". Lý luận đẻ ra từ thực tiễn nhưng trở lại chỉ đạo thực tiễn là như vậy.

Về đổi mới bắt đầu từ ai, từ cấp nào, có lẽ chúng ta không cần bàn cãi nhiều. Mỗi lần tổng kết về đổi mới, khi nêu lên các bài học, chúng ta đều khẳng định rằng một trong những bài học đó là: Ðổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới. Khẳng định rằng: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Ðảng. Dựa vào nhân dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân, tiến hành tổng kết, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên, đó là chìa khóa của thành công.

Sự thật là từ lâu, Ðảng ta đã đặc biệt coi trọng cơ sở, coi cơ sở không chỉ là nơi thực hiện chủ trương, chính sách từ bên trên, mà còn là nơi thử nghiệm sự đúng sai của chính sách; phải xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn từ cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở phát triển để xem xét, điều chỉnh và đổi mới chính sách từ bên trên.

Về lĩnh vực đổi mới bắt đầu từ kinh tế, hay từ chính trị, Văn kiện Ðại hội VIII của Ðảng đã nêu lên bài học: "Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị". Nội dung phân tích là: Xét trên tổng thể, Ðảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song Ðảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của xã hội.

Với việc xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt, Ðại hội VIII  đã thật sự xác định sự kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị và từ đó đến nay Ðảng ta không coi nhẹ đổi mới chính trị - không chỉ là đổi mới và chỉnh đốn Ðảng mà còn là đổi mới và nâng cao hiệu lực của cả hệ thống chính trị, giải quyết tốt những vấn đề chính trị của đất nước.

Trả lời câu hỏi đổi mới bắt đầu từ đâu, phải chăng là như vậy?

HÀ ÐĂNG

Video liên quan

Chủ Đề