Ví dụ về giả thuyết và giả thiết

Giả thiết hay giả thuyết, từ nào mới đúng chính tả? Gia thiết và giả thuyết là 2 từ khác nhau nhưng nhiều người vẫn coi 2 từ này là một dẫn đến sử dụng sai. Mời các bạn cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây để biết giả thiết là gì, giả thuyết là gì, từ đó có câu trả lời cho câu hỏi giả thiết hay giả thuyết mới đúng chính tả.

Mục lục của bài viết

  • 1. Giả thiết là gì?
  • 2. Giả thuyết là gì?
  • 3. Giả thiết hay giả thuyết, từ nào mới đúng chính tả?

1. Giả thiết là gì?

Giả thiết là coi như là có thật, nêu ra làm căn cứ để suy luận phân tích. Hiểu đơn giản, giả thiết là điều cho trước trong một định lý hay bài toán, dựa vào đó người ta sẽ đưa ra kết luận định lý hay giải toán.

Ví dụ:

  • Cho tam giác ABC, giả thiết các cạnh của tam giác có kích thước như sau: a = 3, b = 4, c = 5. Hãy tính diện tích của tam giác đó.
  • Giả thiết tôi trúng xổ số 10 tỷ, tôi sẽ nghỉ hưu sớm và đi du lịch khắp Việt Nam.

2. Giả thuyết là gì?

Giả thuyết là điều tạm được đưa ra để giải thích hiện tượng, sự vật nào đó, chấp nhận được dù chưa được chứng minh hay kiểm nghiệm trên thực tế.

Ví dụ:

Các nhà khoa học đưa ra nhiều giả thuyết về vụ nổ Big Bang, mô hình vũ trụ học nổi bật miêu tả giai đoạn sơ khai của sự hình thành vũ trụ.

3. Giả thiết hay giả thuyết, từ nào mới đúng chính tả?

Giả thiết và giả thuyết đều đúng chính tả nhưng có ý nghĩa không giống nhau nên tùy vào ngữ cảnh mà có cách sử dụng khác nhau.

Giả thiết là điều cho sẵn, chúng ta sẽ căn cứ vào đó để phân tích, suy luận. Còn giả thuyết là điều đưa ra để tìm cách chứng minh nó là đúng.

Giả thiết được dùng phổ biến trong toán học còn giả thuyết thường được dùng trong nghiên cứu khoa học.

Hy vọng giải thích trên đã giúp bạn hiểu rõ giả thiết là gì, giả thuyết là gì, từ đó có cách sử dụng đúng phù hợp với từng trường hợp.

Trong tiếng Việt có rất nhiều cặp từ dễ gây nhầm lẫn dẫn tới sai chính tả khác như dãn hay giãn, chần chừ hay trần chừ, che dấu hay che giấu,...

  • Chỉn chu hay chỉnh chu, từ nào là đúng chính tả?
  • Xoay sở hay xoay xở mới đúng chính tả? Có đến 90% người dùng bị sai
  • Sáng lạng hay xán lạn, từ nào đúng chính tả?

Giả thuyết hay giả thiết từ nào đúng chính tả? Giả thuyết và giả thiết đều nằm trong từ điển Tiếng Việt nhưng chúng có nghĩa và cách dùng khác nhau…

Lỗi về sai chính tả là lỗi mà thường xuyên nhất và ai trong chúng ta cũng đã từng hiểu sai nghĩa của hai từ phát âm tương tự nhau. Vậy giả thiết hay giả thuyết đâu mới từ dùng đúng. Hai từ mà dễ nhầm lẫn với nhau nhất. Thậm chí chắc chắn rằng có trường hợp người sử dụng còn không biết mình dùng đúng hay dùng sai. Lỗi này nằm ở việc sử dụng không hợp hoàn cảnh thì dẫn đến sai chính tả. Vậy bạn đã biết cách dùng nào đúng chưa nào?

Bài viết này wallpaper2x.COM.VN sẽ giúp bạn nghiệm ra nhiều điều đấy, chúng ta sẽ đi tìm hiểu kĩ về nghĩa và cách sử dụng, giúp bạn hiểu rõ về hai từ này để sử dụng cho đúng nhé.

Giả Thuyết hay Giả Thiết

I. Giả Thiết hay Giả Thuyết là gì?

Có người cho rằng chỉ có giả thuyết mới đúng và dùng trong tất cả trường hợp. Nhưng có người lại quả quyết rằng giả thiết mới thật sự đúng. Vậy cuối cùng thì từ nào mới đúng?  Tuy nhiên về mặt chính tả thì khi bị dùng không đúng trường hợp sẽ dẫn đến sai chính tả.

Giả thiếtGiả thuyết đều đúng. Nhưng chúng mang những nghĩa khác nhau.

1. Giả thiết là gì?

Giả thiết [theo từ điển tiếng Việt] là điều cho trước trong một định lý hay một bài toán cho trước. Căn cứ vào điều cho trước đó để suy ra định lí hay để giải bài toán. Giả thiết là những điều kiện giả định mà ta xem như nó là sự thật và được nêu lên để làm căn cứ suy luận.

Ví dụ: Giả thiết rằng có một tia sét đánh từ đám mây xuống mặt đất có điện tích q=20C. Vậy khi đó hiệu điện thế giữa đám máy là bao nhiêu?

Ý muốn nói hãy nghĩa rằng tia sét đánh xuống là có thật để giải bài toán này.

2. Giả thuyết là gì?

Giả thuyết [theo từ điển tiếng Việt] là danh từ dùng để chỉ điều nêu trong khoa học, một vấn đề nào đó tự nhiên tạm thời được chấp nhận, chưa có kiểm nghiệm, chưa được chứng minh. Sau đó, người ta sẽ nghiên cứu chứng minh lập luận, lí giải tính đúng đắn về giả thuyết đó.

Giả: là giả định một điều chưa chắc chắn.

Thuyết: ý nói đến một hệ thống lập luận, trình bày về vấn đề nào đó.

Ví dụ: Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng Cô-Vít 19 bị rò rỉ từ phòng thí nghiệm.

Ý nói là các nhà khoa học nêu ra giả thuyết Cô-Vít bị rò rỉ từ phòng thí nghiệm, từ đó sẽ nghiên cứu chứng cứ để chứng minh rằng giả thuyết đó là đúng.

Xem thêm:

II. Tại sao có sự nhầm lẫn giữa giả thuyết và giả thiết.

 Đầu tiên là do sự phát âm không chuẩn của các vùng miền và thói quen dùng sai thường xuyên hai từ giả thiết và giả thuyết. Hai từ này phát âm khá giống nhau chỉ khác một chút luyến láy nhưng chúng ta ít khi chú trọng đến điều đó.

Thứ hai là vì hai từ này ít được chúng ta sử dụng trong giao tiếp hằng ngày nên gây nhầm lẫn hoặc hiểu sai nghĩa của chúng.

III. Một số ví dụ cụ thể để phân biệt hai từ giả thiết và giả thuyết.

Giả thiết là điều có sẵn làm căn cứ  phân tích suy luận, còn giả thuyết là điều mà tác giả đưa ra để chứng minh. Để hiểu thêm chúng ta làm một vài ví dụ cụ thể hơn nhé

Ví dụ 1: Thầy giáo đưa ra giả thiết lô- gíc về hiện tượng này

Câu nói này có nghĩa là thầy giáo đã có căn cứ chính xác về hiện tượng này.

Ví dụ 2: Ông ấy đặt giả thuyết rằng “tiền quyết định hạnh phúc”

Ông ấy nêu một vấn đề chưa có cơ sở, chưa được chứng minh để là tiền đề nghiên cứu chứng minh giả thuyết của ông ấy là đúng.

Trong trường chúng ta sử dụng sau hoàn cảnh sẽ khiến người khác khó chịu hay hiểu sai ý của bạn.

Ví dụ: Giáo viên đưa ra giả thuyết rằng a + b = c để làm điều kiện giải bài.

Thầy giáo chỉ đưa ra một dữ kiện và cho là đúng. Tuy nhiên có thể hiểu lầm thành đây là một giả thuyết và cần được thầy chứng minh.

Qua bài viết này đã đưa ra ý nghĩa và cách sử dụng của hai từ giả thiết và giả thuyết, hy vọng rằng có thể cung cấp nhưng thông tin hữu ích cho các bạn để dùng từ tốt hơn trong văn nói và văn viết, rèn luyện vốn từ của bản thân. Ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta rất phong phú có phải không nào, tuy nhiên phải dùng đúng mới có thể truyền đạt những ý nghĩa chính xác của nó. Để cập nhật thêm nhiều từ hay và bổ ích thì hãy theo dõi wallpaper2x.COM.VN nhé!

Một hiện trạng đáng báo động

Một vị chủ nhiệm khoa của một trường đại học lớn ở Hà Nội, đồng thời là chủ tịch một hội đồng khoa học và đào tạo cấp khoa, có chức danh khoa học, luôn lớn tiếng mắng đồng nghiệp khi họ nêu giả thuyết cho nghiên cứu của mình. Vị chủ nhiệm khoa này nói: “NCKH của các anh cần gì phải có giả thuyết” [!]. Tại một viện nghiên cứu khác ở Hà Nội, ban lãnh đạo của viện đã phân vân, có nên yêu cầu các nghiên cứu sinh và học viên cao học viết giả thuyết trong luận văn của mình nữa không, vì các vị cho rằng, viết thì thừa, không viết thì thiếu!

ở một khoa khác trong một trường đại học lớn, một vị phó giáo sư bắt mọi luận văn, luận án [thạc sỹ và tiến sỹ] phải viết giả thuyết dưới dạng “Nếu …, thì …” một cách rất khô cứng, chẳng hạn, bản luận văn thạc sỹ do chính ông hướng dẫn, đã viết “giả thuyết” thành “giả thiết”, và được viết như sau: “Nếu có được biện pháp quản lý chất lượng đào tạo thích hợp, thì sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo nguồn nhân lực”.

Hầu hết văn bản hướng dẫn viết luận văn sau đại học của nhiều trường đại học ở nước ta hiện nay không đòi hỏi và hướng dẫn các tác giả phải trình bày “giả thuyết”. Khảo sát tại một cơ sở đào tạo sau đại học của ngành y, chúng tôi được các thầy /cô khẳng định: Nghiên cứu của ngành y không cần giả thuyết. Đến khi chúng tôi đưa cho các vị xem cuốn sách của GS, BS Tôn Thất Tùng, trong đó, ông luôn nói: “Tôi đặt giả thuyết này…”, “Tôi đặt giả thuyết kia…” thì các vị mới “ngã ngửa” ra rằng, trong nghiên cứu của ngành y, đến bác sỹ Tôn Thất Tùng, cũng đã phải viết giả thuyết.

Chúng ta có thể vào thư viện của nhiều trường đại học, tìm đọc một số công trình nghiên cứu các loại, từ luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ đến cử nhân, đều có thể thấy, hàng loạt tác giả hoặc là không trình bày giả thuyết của nghiên cứu, hoặc là sử dụng khái niệm giả thuyết và giả thiết một cách khá tùy tiện. Điều này chứng tỏ sự yếu kém về phương pháp luận trong cộng đồng nghiên cứu của chúng ta. Sự yếu kém này có lý do của nó: Hàng loạt trường đại học Việt Nam chưa đưa môn học về phương pháp luận NCKH vào chương trình giảng dạy.

Nếu nói đến tình trạng báo động trong NCKH và đào tạo sau đại học, thì đây là một trong những điều đáng báo động nhất.

Khái niệm “giả thuyết” và “giả thiết” trong nghiên cứu

Khái niệm “giả thuyết nghiên cứu”

Vậy “giả thuyết”, hoặc “giả thuyết khoa học”, hoặc đơn giản hơn, “giả thuyết nghiên cứu” [Hypothese] là gì? Sách hướng dẫn NCKH nước ngoài phần lớn định nghĩa giả thuyết là một sự giải thích [explanation] sơ bộ về bản chất sự vật. Trong các bài giảng về phương pháp luận NCKH, chúng tôi đưa ra những định nghĩa để người học dễ thao tác hơn: “Giả thuyết là nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu”, hoặc “Giả thuyết là luận điểm cần chứng minh của tác giả”, hoặc, đối với những người mới làm quen với NCKH, chúng tôi đưa ra một định nghĩa rất đơn giản: “Giả thuyết là câu trả lời sơ bộ, cần chứng minh, vào câu hỏi nghiên cứu của đề tài”.

Mendeleev nói: “Không một nghiên cứu nào không phải đặt giả thuyết”. ông còn nhấn mạnh: “Đặt ra một giả thuyết sai vẫn còn hơn không đặt ra một giả thuyết nào”. Có người nói rằng, điều mà Mendeleev nói chỉ đúng trong khoa học tự nhiên, còn trong khoa học xã hội thì không cần giả thuyết. Thế nhưng, một nhà khoa học xã hội rất quen biết, là Engels, đã khẳng định trong Biện chứng tự nhiên: “Nghiên cứu nào cũng phải có giả thuyết. Giả thuyết chẳng qua là sự giải thích sơ bộ bản chất của sự vật”.

Khái niệm “giả thiết” trong nghiên cứu

Bên cạnh khái niệm “giả thuyết”, trong NCKH còn sử dụng khái niệm “giả thiết” [Assumption]. Giả thiết là một điều kiện giả định trong quan sát hoặc thực nghiệm.

Ví dụ, khi nói nước sôi ở 1000 C, người ta đã ngầm hiểu, nước đó được quy về những điều kiện giả định, đó là: [1] Nước nguyên chất, [2] Được đun nóng dưới áp suất là 1 atm.

Một ví dụ khác trong khoa học xã hội, khi xem xét quan hệ giữa khu vực sản xuất tư liệu sản xuất [khu vực I] và khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng [khu vực II] trong quá trình tái sản xuất mở rộng, Marx đã đặt giả thuyết là khu vực I quyết định khu vực II với giả thiết rằng, giữa các quốc gia không có ngoại thương.

Giả thiết là một điều kiện mang tính quy ước của người nghiên cứu, nó có thể không tồn tại hoặc không phải lúc nào cũng tồn tại trong thực tế.

Vai trò của “giả thuyết” trong NCKH

Tất cả các khoa học thực nghiệm, bất kể trong khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật hay khoa học xã hội, đều cần có giả thuyết. Kết luận này là kết quả của cuộc tranh luận diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX, trong đó có mặt cả các nhà khoa học tự nhiên và các nhà khoa học xã hội. Trong cuộc tranh luận này, chúng ta thấy có cả E. Mach1, nhà vật lý nổi tiếng người áo và Engels.

Mach đã phê phán kịch liệt việc sử dụng giả thuyết trong NCKH. Trong khi đó, Engels lại đứng về phía những người ủng hộ việc phải xây dựng giả thuyết trong NCKH. Trong cuộc tranh luận ấy, Engels đã đưa định nghĩa giả thuyết như vừa nêu ở trên2.

Vì sao cần có giả thuyết trong NCKH? Chính bởi vì, NCKH là đi tìm kiếm những điều chưa biết. Cái khó là làm cách nào để tìm kiếm những điều chưa biết? Bằng trải nghiệm khoa học, các nhà nghiên cứu đã tìm ra giải pháp đưa ra một phương án “giả định” về cái điều chưa biết. Phương án giả định đó được gọi là giả thuyết. Nhờ có phương án giả định đã đặt ra, mà người nghiên cứu có được hướng tìm kiếm. Rất có thể giả thuyết bị đánh đổ, khi đó người nghiên cứu phải đặt một giả thuyết khác thay thế. Công việc diễn ra liên tục như thế, cho đến khi đạt được kết quả cuối cùng.

Tuy là một kết luận mang tính giả định được đặt ra để chứng minh, nhưng giả thuyết không thể được đặt ra một cách tùy tiện, mà phải dựa trên cơ sở quan sát sơ bộ quy luật diễn biến của đối tượng mà chúng ta nghiên cứu. Có những sự kiện diễn ra một cách phổ biến, giúp chúng ta đưa ra một giả thuyết phổ biến. Ví dụ, quan sát tất cả các chuyển động thẳng đều, người ta đều thấy nghiệm đúng quy luật tuyến tính s = v.t. Tuy nhiên, có những quy luật mà chúng ta chỉ quan sát thấy nghiệm đúng trong một tập hợp mang tính thống kê nào đó. Khi đó, chúng ta thiết lập được các giả thuyết thống kê. Chẳng hạn, trong một cuộc điều tra dư luận xã hội về nguyên nhân ly hôn trong giới trẻ ở thành phố, có tới 70% số người được hỏi cho rằng đó là do những khác biệt về lối sống. Từ kết quả này, chúng ta đặt giả thuyết, sự khác biệt về lối sống là nguyên nhân ly hôn trong giới trẻ ở thành phố. Giả thuyết này được xem là một dạng của loại giả thuyết thống kê.

Mỗi giả thuyết luôn đi kèm với một điều kiện giả định, nghĩa là một giả thiết quan sát hoặc thực nghiệm. Chẳng hạn, giả thuyết trong một nghiên cứu lâm sinh: “Cây keo tai tượng sinh trưởng nhanh hơn cây keo lá tràm” với giả thiết rằng: “Hai loài keo này được trồng trong cùng điều kiện lập địa, cùng điều kiện khí hậu và cùng điều kiện chăm sóc”. Như vậy, giả thiết được đặt ra nhằm tập trung mối quan tâm của nghiên cứu vào những liên hệ căn bản nhất, loại trừ bớt những liên hệ không căn bản.

Trong giới nghiên cứu ở nước ta hiện nay, một số người vẫn cho rằng, giả thuyết chỉ cần thiết với những nghiên cứu giải thích và nghiên cứu giải pháp, còn nghiên cứu mô tả thì cứ việc “thấy sao nói vậy”, không cần phải đặt giả thuyết. Có lẽ các bạn đồng nghiệp của chúng ta tưởng thế thôi, trên thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Có thể lấy ví dụ, mô tả một hiện trạng kinh tế, hoàn toàn có hai quan điểm trái ngược nhau: Một quan điểm cho rằng nền kinh tế đang phát triển tốt đẹp; một quan điểm cho rằng, nó đang có những biểu hiện khủng hoảng. Ví dụ khác, một triều đại lịch sử, chẳng hạn, nhà Mạc, có thể mô tả như một ngụy triều; song trên một góc nhìn khác, nó lại có thể được mô tả như một chính triều.

Bản chất logic của “giả thuyết”

Cuối cùng, làm thế nào viết được một giả thuyết? Đối với các đồng nghiệp nghiên cứu mới vào nghề, đây luôn là một công việc khó khăn.

Bí quyết kỹ năng viết giả thuyết là ở bản chất logic của giả thuyết. Về mặt logic, giả thuyết được trình bày dưới dạng một phán đoán. Các phán đoán logic có dạng chung là [S - P], nghĩa là “S là /không là P”. Giả thuyết được chứng minh sẽ trở thành những “tế bào” bổ sung vào hệ thống lý thuyết vốn tồn tại, hoặc trở nên những mầm mống đầu tiên cho sự hình thành những cơ sở lý thuyết khoa học mới. Nói như thế có nghĩa, các lý thuyết khoa học, xét về mặt logic học, cũng đều là những phán đoán.

Tuy nhiên, mỗi giả thuyết luôn đi kèm những điều kiện giả định, tức giả thiết. Vì vậy, mỗi lý thuyết đều phải chấp nhận một ước lệ về hoàn cảnh thực tế đã sản sinh ra nó. Chính vì vậy, bao giờ giữa lý thuyết với thực tế cũng có một khoảng cách.

Không phải ngẫu nhiên, mà nhiều nhà nghiên cứu hay trích Goethe: “Mọi lý thuyết đều màu xám. Chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi” .

1 Ernst Mach [1838-1916] là nhà vật lý người áo. ông đã đặt cơ sở cho những nghiên cứu về vai trò của âm thanh trong khí động học. Những nghiên cứu phê phán của ông về các nguyên lý cơ học Newton đã có ảnh hưởng lớn đến các công trình của Einstein sau này [theo Le Petit Larousse illustré, Paris, 2002].

2 Xem Ruzavin G.I., Các phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, tr. 92 [Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Như Thịnh].

Nguồn: //www.tchdkh.org.vn/

Video liên quan

Chủ Đề