Vai trò của tích lũy tư bản trong phát triển nền kinh tế thị trường

Tái sản xuất được hiểu là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và tiếp diễn một cách liên tục không ngừng. Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành hai loại: tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

– Thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản, hay là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư.

Nói một cách cụ thể, tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Có thể minh họa tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chú nghĩa bằng ví dụ:

Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng lăng lên tương ứng.

– Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy.

Tích lũy tư bản là một yếu tố quan trọng quyết định đối với sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, một hệ thống các nước tư bản đầu tiên trên thế giới đã hình thành và phát triển vô cùng mạnh mẽ mà lịch sử đã cho thấy rằng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, tích lũy nguyên thủy đã diễn ra sôi động ở các nước phương Tây và nền kinh tế- xã hội của các nước này phát triển vô cùng mạnh mẽ. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng tích lũy tư bản còn là sự đòi hỏi khách quan của bất cứ một giai đoạn phát triển nào ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Nếu không tích lũy và huy động nguồn lực tư bản cho quốc gia mình thì nền kinh tế xã hội quốc gia đó sẽ không phát triển mạnh mẽ và cường thịnh được. Đối với Việt Nam tích lũy luôn là điều kiện tiên quyết để tái sản xuất mở rộng. Có tích lũy mới có thể làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, đưa đất nước vững vàng đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã lựa chọn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa thì nhu cầu về vốn để xây dựng các công trình nền tảng và cái tiến kỹ thuật áp dụng khoa học tiên tiến là càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Lý luận về tích tụ tư bản và tập trung tư bản của C. Mác và liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay”.

Danh mục tài liệu tham khảo

  • Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủa nghĩa Mác- Lênin- NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội- 2012
  • Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin – NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội- 2008
  • Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị- NXB Lý luận chính trị- Hà Nội- 2007
  • Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học- NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội- 2005

Lý luận về tích tụ tư bản và tập trung tư bản

Tích lũy tư bản

Chủ nghĩa tư bản đã trải qua hai hình thức tích lũy: tích lũy nguyên thủy và tích lũy tư bản chủ nghĩa. Nêu như tích lũy nguyên thủy tách người nông dân ra khỏi ruộng đất của họ, tước đoạt tư liệu sản xuất chủ yếu của họ là đất đại hoặc thông qua con đường xâm chiếm thuộc địa, cướp bóc… thì tích lũy tư bản chủ nghĩa là một hình thái mới với bước phát triển cao hơn về chất lượng so với tích lũy nguyên thủy.

Giá trị thặng dư là nguồn gốc của tích lũy

Tái sản xuất là tất yếu khách quan của xã hội loài người. Tái sản xuất có hai hình thức chủ yếu: tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Dưới chủ nghĩa tư bản, muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải sử dụng một phần giá trị thặng dư để tăng thêm tư bản ứng trước. Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản

Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, thì quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ đã được xác định thì sẽ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Có bốn nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng giá trị thặng dư:

a.Trình độ bóc lột sức lao động bằng các biện pháp: Tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân. Có nghĩa là thời gian công nhân sáng tạo ra giá trị thì càng được kéo dài nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy khơi lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.

Vai trò của tích lũy tư bản trong phát triển nền kinh tế thị trường
Lý luận về tích tụ tư bản và tập trung tư bản của C. Mác và liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay

b.Trình độ năng xuất lao động xã hội: Năng xuất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên lằm tăng quy mô của tích lũy.

c.Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng: Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy móc được xem như là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư bản càng lơn.

d.Quy mô của tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.

Tích tụ tư bản và tập trung tư bản

Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua quá trình tích tụ và tập chung tư bản.

Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích tụ tư bản. Tích tụ tư bản một mặt là yêu cầu tái sản xuất trở mở rộng, của sự ứng dụng khoa học kỹ thuật; mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo khả năng thực hiện cho tích lũy tư bản.

Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết, sự tự nguyện hay sáp nhập các tư bản cá biệt. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn dỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản.

Tích tụ tư bản và tập trung tư bản có điểm giống nhau là đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt. Nhưng giữa chúng lại có điểm khác nhau:

Một là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.

Hai là, tích tụ tư bản phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa giai cấp tư sản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn tập trung tư bản phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư bản, đồng thời nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.

Tích tụ tư bản và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ tư bản và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng mạnh. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được xí nghiệp lớn sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

Như vậy, quá trình tích lũy tư bản gắn với quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nên sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc thêm.

Vai trò của tích lũy tư bản trong phát triển nền kinh tế thị trường
Lý luận về tích tụ tư bản và tập trung tư bản của C. Mác và liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay

Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam

Vấn đề tích tụ và tập trung tư bản ở Việt Nam hiện nay

Việc đề cập đến tình hình đất nước, các nhiệm vụ, đặc điểm của nền kinh tế, hình thức sở hữu cũng như cơ cấu nền kinh tế và vai trò có tác dụng giúp chúng ta nhận thức rõ về vấn đề tích tụ và tập trung tư bản đối với đất nước ta hiện nay. Tư bản chính là vốn, được đầu vào trong sản xuất. Tích tụ và tập trung tư bản thực chất là tích tụ và tập trung vốn vào trong sản xuất. Rõ ràng đất nước ta với những đặc điểm như trên, cùng với nó là quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì vấn đề tích tụ và tập trung tư bản vốn là một trong những vấn đề cơ bản để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế. Đối Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhiệm vụ kinh tế cơ bản như: phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ cũng tồn tại ba hình thức sở hữu là: sở hưu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu ở nhiều mức độ khác nhau.

Vốn là một nhân tố đầu vào không thể thiếu trong các hoạt động kinh tế. Thiếu vốn, nền kinh tế không thể tăng trưởng được. Vì vậy, để nền kinh tế tăng trưởng cao thì nhu cầu về vốn càng lớn và đòi hỏi phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó. Vốn không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam rất cần nguồn tư bản ( vốn) những hình thức vốn, đặc biệt của nó đối với sự phát triển của kinh tế đất nước.

Giải pháp cho vấn đề tích tụ và tập trung tư bản ở Việt Nam

Có thể nói quá trình tích tụ và tập trung tư bản ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, do nền kinh tế thị trường của Việt Nam là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội, cùng lúc trên đất nước đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu đan xen nhau. Vì vậy, Giải pháp cho vấn đề tích tụ và tập trung tư bản ( vốn) ở Việt Nam:

Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng

Vì mục tiêu của xã hội là không ngừng tái sản xuất mở rộng, tăng thêm sản phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân mà chúng ta phải xác cho được quan hệ giữa tích lũy vào tiêu dùng. Tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng được vào tài sản hiện có, thực hiện được mức tích lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng. Việc phân chia này tùy thuộc vào nhu cầu nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất định. Đồng thời phải khuyến khích mọi người không ngừng tiết kiệm.

Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn

Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ từng đối tượng được cấp vốn, từ đó phân bố nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp vốn toàn bộ mà nên tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp phát huy mọi năng lực cũng như mọi khả năng quản lý của họ từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

Tăng cường tích lũy vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Tích lũy vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng đầu là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trò quan trọng để giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và cho phát triển công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả tích lũy, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là hết sức cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Đây là hai hình thức tích lũy vốn có hiệu quả tương đối cao do có thể thu hút được vốn còn nhàn dỗi trong xã hội. Để thực hiện được ngày càng tốt các nhiệm vụ của mình, một mặt ngân hàng cần phải tự đổi mới phương thức phục vụ khách hàng mở rộng các hình thức tiết kiệm qua bưu điện cải thiện các thủ tục đảm bảo an ninh, bí mất. Đặc biệt hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân để tích tụ và tập trung vốn được thuận lợi. Mặt khác, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên quốc gia và từ các tài sản công còn bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là biện pháp cơ bản trước mắt và lâu dài để chúng ta tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển.

Ngoài nguồn vốn trong nước thì trong hoàn cảnh hiện tại, khi nền kinh tế mở của hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Trong đó vốn đầu tư trực tiếp có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Vì vậy mà chúng ta cần phải có những chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt là vốn đầu tư của các nước đang phát triển.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Lý luận về tích tụ tư bản và tập trung tư bản của C. Mác và liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.