Tìm hiểu đề và tìm ý là gì
TÌM HIỂU ĐỀ VÀ CÁCH LÀM BÀI VĂN TỰ SỰ - Đề văn tự sự là yêu cầu về chủ đề để trên cơ sở đó định hướng cho người viết. - Có thể có nhiều cách diễn đạt về yêu cầu tự sự, nói cách khác, khái niệm tự sự trong đề văn có thể được diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau: tường thuật, tường trình, kể chuyện,... Có khi đề văn tự sự chỉ nêu ra chủ đề mà không kèm theo yêu cầu về thao tác (các yêu cầu về thao tác như: Em hãy tường thuật..., Em hãy tường trình..., Em hãy kể lại...). - Đề văn tự sự có thể nghiêng về yêu cầu kể người, nghiêng về yêu cầu kể việc hay nghiêng về yêu cầu tường thuật sự việc. Khi tìm hiểu đề văn tự sự phải tìm hiểu kĩ lời văn của đề để nắm vững yêu cầu của đề bài. Đọc các đề sau và thực hiện các yêu cầu: (1) Kể một câu chuyện em thích bằng lời văn của em. (2) Kể chuyện về một người bạn tốt. (3) Kỉ niệm ngày thơ ấu. (4) Ngày sinh nhật của em. (5) Quê em đổi mới. (6) Em đã lớn rồi. a) Đề (1) yêu cầu em những gì? Dựa vào đâu để biết đây là đề văn tự sự? b) Các đề (3), (4), (5), (6) không có từ kể, có phải đề văn tự sự không? c) Hãy xác định những từ ngữ trọng tâm trong mỗi đề trên và cho biết những từ ngữ ấy nói lên điều gì? d) Trong các đề trên, đề nào nghiêng về kể người, đề nào nghiêng về kể việc, đề nào nghiêng về tường thuật? Gợi ý: - Yêu cầu của đề (1): kể chuyện (có thể về người hoặc sự việc), chữ kể trong đề văn cho biết định hướng tự sự, cụm từ bằng lời văn của em cho biết yêu cầu về diễn đạt. - Các đề (3), (4), (5), (6) mặc dù không có từ kể nhưng vẫn là yêu cầu tự sự. Các đề này được diễn đạt như những nhan đề cho trước của một bài văn. - Các từ ngữ trọng tâm: + (1): câu chuyện em thích + (2): một người bạn tốt + (3): thơ ấu + (4): sinh nhật + (5): quê em + (6): lớn rồi - Đề (2), (6) nghiêng về kể người; đề (3), (5) nghiêng về kể sự việc; đề (4) nghiêng về tường thuật sự việc; đề (1) tuỳ thuộc vào việc lựa chọn kể lại câu chuyện nào. a) Các bước tiến hành làm một bài văn tự sự: - Tìm hiểu đề: Đây là bước đầu tiên khi tiến hành làm một bài văn theo đề ra trước. Phải đọc kĩ và hiểu từng câu chữ của đề để nắm được yêu cầu cần thực hiện cũng như định hướng về nội dung tự sự. Không làm tốt bước này, bài văn sẽ lạc đề. - Lập ý: Sau khi đã xác định yêu cầu của đề, người viết phải hình dung ra nội dung sẽ viết theo các yếu tố như: nhân vật, sự việc, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của câu chuyện. - Lập dàn ý: Các sự việc phải được lựa chọn, sắp xếp trình tự để đảm bảo diễn đạt được diễn biến câu chuyện, thể hiện được ý nghĩa mà người viết hướng tới. - Viết thành bài: Sau khi đã có dàn ý, người viết phải tiến hành viết thành một bài văn tự sự hoàn chỉnh theo kết cấu ba phần. b) Cho đề văn sau: "Kể một câu chuyện em thích bằng lời văn của em". Hãy tìm hiểu đề, tìm ý và lập dàn ý. Gợi ý: Dù kể câu chuyện nào thì cũng phải tiến hành tuần tự các bước từ đọc, tìm hiểu đề, xác định yêu cầu trọng tâm, nhiệm vụ cần thực hiện; tiếp theo là tìm ý, em chọn kể chuyện nào, trong truyện có sự việc nào là then chốt, nhân vật nào là nhân vật chính, câu chuyện mà em sẽ kể bộc lộ chủ đề gì (?); cho đến khâu lập dàn ý, đây là khâu liên quan trực tiếp đến lời kể: phải hình dung ra mạch diễn biến cụ thể của câu chuyện, mở đầu bằng cách nào, thời điểm xảy ra các sự việc, nhân vật xuất hiện ra sao, kết cục thế nào (?); đến bước diễn đạt lời kể bằng văn của mình. Ví dụ, em dự định kể lại truyện Thánh Gióng: - Kể câu chuyện về anh hùng Gióng đánh giặc Ân nhằm ngợi ca tinh thần yêu nước, đánh giặc ngoại xâm của nhân dân ta ngay từ buổi đầu lịch sử. - Nhân vật chính: Thánh Gióng; các nhân vật khác: cha mẹ Gióng, sứ giả, dân làng - Mở bài bằng việc giới thiệu sự ra đời kì lạ của Gióng; kết thúc bằng sự việc vua nhớ công đánh giặc, phong cho là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà. - Các sự việc chính: + Gióng và sứ giả + Gióng ăn khoẻ lớn nhanh như thổi + Gióng vươn vai thành tráng sĩ + Gióng giết giặc + Roi gãy, nhổ tre làm vũ khí + Thắng giặc, Thánh Gióng cởi bỏ áo giáp, cưỡi ngựa bay về trời - Xác định giọng kể: giọng điệu chung là ngợi ca, thể hiện được màu sắc thần kì. Lập dàn ý cho bài văn kể chuyện. Tuỳ theo câu chuyện định kể mà có sự lựa chọn, sắp xếp các ý khác nhau nhưng vẫn phải theo bố cục ba phần. Đọc lại phần hướng dẫn các bước từ tìm hiểu đề cho đến lập dàn ý. Có thể tham khảo dàn ý bài kể truyện Thánh Gióng.
a) Tìm hiểu đề và tìm ý - Xác định yêu cầu của đề: Câu tục ngữ khẳng định điều gì ? Chí có nghĩa là gì ? - Tìm ý: Muốn chứng minh thì có 2 cách lâp luận: một là nêu dẫn chứng xác thực, hai là nêu lí lẽ. + Xét về lí lẽ, ta thấy bất cứ việc gì, dù xem ra có vẻ đơn giản Các câu hỏi tương tự
a) tìm hiểu đề và tìm ý - xác định yêu cầu của đề: câu tục ngữ khẳng định điều gì? chí có nghĩa là gì? - tìm ý: muốn chứng minh thì có hai cách lập luận: một là nêu dẫn chứng xát thực, hai là nêu lí lẽ. + xét về lí lẽ, ta thấy bất cứ việc gì, dù xem ra có vẻ giản đơn ( như chơi thể thao, học ngoại ngữ,...) nhưng không có chí, không quyết tâm, kiên trì thì liệu có làm được không? còn những lúc khó khăn, nếu không có chí mà bỏ dỡ thì kết quả như thế nào? + xét về thực tế, xưa nay đã có biết bao tấm gương nêu cao ý chí, nhờ có chí mà thành công. (nêu một số tấm gương tiêu biểu, ví dụ như thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí bị liệt cả hai tay, phải tập viết bằng chân vẫn tốt nghiệp học; các vận động viên khuyết tật điều khiển xe lăng bằng tay đoạt huy chương vàng; cô Pa-đu- la người Anh bị mù trở thành người mẫu thời trang; ông Ốt-xto-rốp-xki bị mù trở thành nhà văn nổi tiếng...)
Mục Lục Kho sáng kiến và tài liệu môn văn dành cho giáo viên tham khảo A. ĐẶT VẤN ĐỀI.Lời mở đầuTìm hiểu đề và tìm ý là một yêu cầu có tính bắt buộc trong quy trình làm một bài văn ở trường phổ thông:có ý nghĩa quan trọng, quyết định phương hướng lựa chọn kiểu văn bản, cùng với việc sử dụng các thao tác tư duy hoặc các phương thức biểu đạt để tạo lập văn bản và nội dung bài văn. Để đánh giá một bài văn hay, căn cứ điều đầu tiên và then chốt nhất là bài văn có đúng yêu cầu của đề bài đặt ra không? Sách giáo khoa Ngữ văn bậc phổ thông hiện hành có nhiều đổi mới ở khâu ra đề và không dễ dàng ở những năm đầu đổi mới đối với cả người dạy và người học. Học sinh lúng túng nhiều nhất là khâu tìm hiểu đề và tìm ý cho bài văn. ( Thực trạng tìm hiểu đề và tìm ý cho bài làm văn của học sinh ở trường THPT) Kết quả cho thấy, trước một đề làm văn, phần đông số học sinh chưa có thói quen tìm hiểu đề và tìm ý. Học sinh chỉ đọc đề một vài lần và viết bài luôn, không tìm ý trước mà vừa viết vừa suy nghĩ để tìm ý, chưa biết cách phân tích đề làm cơ sở cho việc tìm ý. đặc biệt đối với dạng đề mở, đa số các em gặp khó khăn ở khâu xác định các phương thức biểu đạt hoặc thao tác tư duy cần sử dụng để làm bài, lúng túng ở việc tìm ý, bị động trong quá trình viết bài; bài làm văn vừa thiếu ý, lạc ý vừa không đáp ứng đúng đặc trưng kiểu văn bản mà đề bài yêu cầu tạo lập. Như vậy từ thực trạng trên cho thấy rằng việc tìm đề và tìm ý là một yêu cầu bắt buộc trước khi đặt bút viết bài văn, nhằm giúp bài văn tránh được tình trạng xa đề, lạc đề, nội dung lan man rất cần thiết. Cũng từ thực trạng trên để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã suy nghĩ, tìm hiểu và trao đổi với đồng nghiệp nhằm tìm ra một số biện pháp phù hợp để giải quyết thực trạng. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀI. Đề làm văn trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện hành: I.1. Đề làm văn theo quan niệm truyền thống:
Phần 1 mang đặc tính thông tin hiệu lệnh chứa đựng yêu cầu và cách thức làm bài như giải thích, chứng minh ( làm sáng tỏ), phân tích, bình giảng, bình luận; phần 2 nhằm gợi ý định hướng nội dung cho học sinh, giúp các em trả lời câu hỏi viết cái gì, trong phạm vi nào? Đề 3: Trong truyện ngắn “ Mùa lạc”, nhà văn Nguyễn Khải viết “ ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới , điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy” ( Văn học 12) Bằng việc phân tích nhân vật Đào, anh, chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.ở đề 2,3 câu dẫn của đề cũng thuộc phần giới hạn vấn đề nhưng có tác dụng định hướng gợi dẫn rõ hơn về nội dung.I.2. Quan niệm về đề văn theo sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện hành: Đề thi phải khơi dậy những suy nghĩ riêng đồng thời rèn luyện cho học sinh óc phê phán, nhìn vấn đề trên nhiều mặt, tránh ra đề kiểu “suôn sẻ”, dạng “ thoả hiệp một chiều”. Với mục tiêu ấy, sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện hành chủ yếu ra đề theo hướng “ mở” – chỉ nêu ra đề tài hoặc vấn đề cần bàn bạc trong bài văn, không giới hạn cứng nhắc việc vận dụng các phương thức biểu đạt hoặc các thao tác tư duy để viết bài văn, khuyến khích học sinh suy nghĩ nhiều chiều trước một vấn đề. Đề “ mở” khác loại đề “ đóng”, đề “ khép kín”. Sử dụng loại đề này để phân hoá học sinh sẽ phù hợp hơn. Kết cấu đề “ mở ” trong sách giáo khoa khá phong phú. Dạng 1: Phổ biến là dạng đề chỉ nêu ra đề tài hoặc vấn đề để học sinh làm bài, không nêu yêu cầu về kiểu văn bản và cách thức làm bài. Ví dụ: VD1:Người phụ nữ xưa với tình yêu và hôn nhân qua một số bài ca dao?( Ngữ văn 10, tập 1, bộ 1; Ban KHXH – NV). VD2: “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động” ( Ngữ văn 12, tập 1, SGK thí điểm bộ 2, ban KHTN). VD3: Dòng sông truyền thống trong đoạn trích Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi ( Ngữ văn 12, tập 2, NXB GD, 2008) ,( Đề thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hoá năm học 2009 – 2010). VD4: Tiền tài và hạnh phúc. ( Đề 1, trang 221; Ngữ văn nâng cao 12, tập 2) Dạng 2: Dạng đề có kết cấu hai phần: Phần nêu mệnh đề làm bài và phần giới hạn vấn đề, đề tài. Ví dụ: VD1: Nhà thơ Tố Hữu viết “ ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn” ? Anh, chị hãy tìm câu trả lời trong cuộc sống và trong văn học ( Ngữ văn 10, tập 2, bộ 1; Ban KHXH – NV) VD2: Cảm nghĩ của anh, chị về hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Trung Thành ( Ngữ văn 12, tập 2, bộ 2; Ban KHXH – NV) VD3: Hình tượng người phụ nữ gợi cho anh, chị nhiều suy nghĩ nhất trong các tác phẩm Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), Vợ nhặt ( Kim Lân) , Một người Hà Nội ( Nguyễn Khải) và Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu); ( Đề 4 trang 221; Ngữ văn nâng cao 12, tập 2) II.Các giải pháp thực hiện: Sau đây tôi xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất tìm hiểu đề và tìm ý cho bài làm văn theo sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện hành. Cụ thể là: Ví dụ cụ thể: Ví dụ 1: Một kinh nghiệm học văn hoặc làm văn ( Trang 14, Ngữ văn 10, tập 2- NXBGD). Đề làm văn này yêu cầu làm nổi bật kinh nghiệm học văn hoặc làm văn bằng kiểu văn bản thuyết minh, thuộc dạng bài thuyết minh về một kinh nghiệm học tập có sử dụng kết hợp một số biện pháp nghệ thuật và yếu tố tự sự. Thuyết minh là phương thức biểu đạt chính. Các biện pháp như tự thuật, so sánh, nhân hoá và yếu tố tự sự được sử dụng đan xen kết hợp trong quá trình giới thiệu quá trình học văn: những thất bại, những tìm tòi, tích luỹ về kinh nghiệm học văn( học thuộc lòng văn bản, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, chú ý nghe giảng, luyện đề sau giờ học…) . Lưu ý: đối với loại đề mở có kết cấu hai phần, học sinh cần lưu ý các “ lệnh” trong đề bài.Từ “ phân tích” trong đề bài có ý nghĩa nhấn mạnh phép luận luận chính của bài viết chứ không có ý nghĩa chỉ định một phương pháp lập luận duy nhất hay yêu cầu về kiểu bài phân tích như các đề văn thường gặp trong các đề văn thường gặp trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Bởi trong thực tế không có đề văn nào chỉ sử dụng một thao tác giải thích, chứng minh hay một cách thức lập luận nào đó, hoặc chỉ dùng một phương thức kể… Bất kì bài văn nào cũng là sự tổng hợp các phương thức và các thao tác. Tuy nhiên,, nói như thế không có nghĩa là trước một đề văn, ai thích sử dụng phương thức biểu đạt nào cũng được. Bao giờ cũng có một phương thức biểu đạt chính đóng vai trò chủ đạo, các phương thức biểu đạt khác chỉ là hỗ trợ và phục vụ cho phương thức chính. Ví dụ 2: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài Vội vàng của Xuân Diệu: Ta muốn ôm Cả sự sống đang bắt đầu mơn mởn ; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!( Đề 1, trang 101,102; Sách giáo khoa Ngữ văn nâng cao 12 – NXB GD)Đề văn trên yêu cầu nghị luận về một đoạn thơ, trong đó phép lập luận chủ yếu là phân tích. Các thao tác sử dụng với phân tích là giải thích, chứng minh, so sánh và tổng hợp đánh giá. Nghị luận là phương thức biểu đạt chính của bài văn, bên cạnh đó, học sinh có thể sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm.Từ “ Cảm nghĩ” đến “ cảm nhận” trong đề văn có ý nghĩa lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết – đặc biệt, đối với nghị luận văn học lại càng phải có sự cảm thụ, liên tưởng, đồng cảm và ấn tượng chủ quan của người làm bài được gợi lên từ tác phẩm. Bởi vậy, học sinh cần lưu ý các cụm từ “ Cảm nghĩ”, “ cảm nhận” trong đề bài không đơn giản là phát biểu cảm tưởng, suy nghĩ mà còn là yêu cầu nghị luận trên cơ sở cảm thụ.Ví dụ 3: “ Cảm nghĩ của anh, chị về hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Trung Thành” ( Ngữ văn 12, tập 2, bộ 2; Ban KHXH – NV) Đề yêu cầu nghị luận về hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn “ Rừng xà nu”, thuộc dạng bài nghị luận về một tác phẩm tự sự. Nghị luận là phương thức biểu đạt chủ yếu kết hợp với yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm. Các thao tác lập luận kết hợp gồm phân tích, so sánh, bác bỏ và bình luận nhằm làm nổi bật số phận của rừng xà nu trong tầm đại bác của đồn giặc, sức sống bất diệt của cây xà nu và ý nghĩa tượng trưng của rừng xà nu trong truyện.Từ “ suy nghĩ” trong đề văn nhấn mạnh yêu cầu người làm bài phải trình bày những nhận định, phân tích của mình. Khi trình bày cảm nhận, suy nghĩ phải có lí lẽ , lập luận, phải qua phân tích, chứng minh bằng các dẫn chứng cụ thể kết hợp đan xen linh hoạt nhiều phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận khác.Ví dụ 4: “ Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết” Anh, chị có suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên. (Đề 2, trang 41 Sách giáo khoa Ngữ văn nâng cao 12 – NXBGD)Đề yêu cầu nghị luận về thái độ sống của con người , thuộc dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống. Sử dụng nghị luận là phương thức biểu đạt chính kết hợp với các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm. Phép lập luận chủ yếu là phân tích, kết hợp các thao tác chứng minh, bình luận.II.2. Cách thức tìm ý cho bài làm văn theo sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện hành: Cách 1: Dựa vào tính chất của dạng bài mà đề yêu cầu tạo lập để tìm ý cho bài viét: trả lời câu hỏi viết cái gì? Cách 2: Căn cứ vào vấn đề được nêu ra trong đề bài để đặt các câu hỏi và trả lời câu hỏi. Đây thực chất là yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài, lật đi lật lại vấn đề ở nhiều mặt để tìm ý cho bài làm văn trước khi viết bài. Ví dụ 5: Tìm ý cho đề bài sau:Nhà thơ Tố Hữu viết : Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn Anh, chị hãy tìm câu trả lời trong cuộc sống và trong văn học. * GV định hướng cho học sinh nắm được tính chất của dạng bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí : Bàn bạc, làm sáng tỏ một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người, chỉ ra chỗ đúng ( hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó nhằm làm thuyết phục người nghe, người đọc. * Gv hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn nghị luận về tư tưởng sống đẹp :– Giới thiệu tư tưởng sống đẹp : Trong cuộc sống, con người luôn hướng tới cái Chân, Thiện, Mĩ và họ luôn mong muốn được hoàn thiện bản thân làm cho cuộc đời mình trở nên có ý nghĩa hơn.– Giải thích tư tưởng sống đẹp : Là sống có ích, biết hy sinh, có tâm hồn yêu đời, có ý chí nghị lực, có khát vọng hoài bão…– Chứng minh và phân tích các mặt biểu hiện của tư tưởng sống đẹp :+ Dẫn chứng tiêu biểu trong cuộc sống : Những tấm gương ngưqời thực, việc thực.+ Dẫn chứng tiêu biểu trong văn học: ca dao, truyện cổ tích, thơ trung đại, văn thơ kháng chiến, văn học sau 1975 đến nay.– Nêu nhận xét đáng giá về các biểu hiện sống đẹp đó trong bối cảnh của cuộc sống riêng, chung.– Nêu nhận thức mới và hành động : ‘Đời người chỉ sống có một lần phải sống sao cho ra sống ? Phải sống sao cho trước khi nhắm mắt xuôi tay ta không phải xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí. để trước khi nhắm mắt, xuôi tay ta có thể tự hào rằng : tất cả đời ta, tất cả sức lực ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao quý của loài người’. Lời bất hủ của chàng thanh niên Paven Coosoghin trong tiểu thuyết ‘Thép đã tôi là thế đấy’cũng là phương châm sống đẹp của tuổi trẻ chúng ta trong thời đại đất nước hội nhập và phát triển hôm nay. II.3. áp dụng cho việc tìm hiểu đề, tìm ý ( Tiết 120 Ngữ văn 11, chương trình nâng cao) * GV yêu cầu HS so sánh ba đề văn :Đề 1: Vẻ đẹp của bài Thơ duyên (Xuân Diệu).Đề 2: Nghệ thuật trào phúng của Nguyễn Công Hoan qua truyện ngắn Tinh thần thể dục.Đề 3: Nhà văn Nga Lê-ô-nit Lê-ô-nốp cho rằng: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phám về nội dung”. Anh (chị) hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên.* Gợi ý:(1) Giống nhau: Đều là nghị luận văn học.(2) Khác nhau:Đề 1: Thuộc dạng đề mở, không giới hạn về nội dung và không chỉ rõ các thao tác lập luận cần sử dụng.Đề 2: Thuộc dạng đề có giới hạn về nội dung, nhưng không chỉ rõ các thao tác lập luận cần sử dụng.Đề 3: Thuộc dạng đề có yêu cầu cụ thể về nội dung và chỉ rõ các thao tác lập luận cần sử dụng. Có thể lập bảng tổng hợp như sau:
* GV gợi dẫn HS cách tìm ý cho bài văn bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi: Với đề 2 có thể đặt một số câu hỏi sau: – Thế nào là nghệ thuật trào phúng? Nghệ thuật trào phúng thường sử dụng những thủ pháp nào và biểu hiện ở những phương diện nào?– Nghệ thuật trào phúng được thể hiện như thế nào trong truyện ngắn Tinh thần thể dục?– Nghệ thuật trào phúng có ý nghĩa, giá trị như thế nào trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm?Với đề 3 có thể đặt một số câu hỏi sau: – ý kiến của Lê-ô-nít Lê-ô-nốp đề cập đến vấn đề gì?– Thế nào là “phát minh về hình thức”? Phát minh về hình thức của tác phẩm văn học được thể hiện như thế nào?– “Khám phá về nội dung” là gì và được thể hiện như thế nào?– Sự phát minh về hình thức và khám phá về nội dung của một tác phẩm có mối liên hệ như thế nào?– Có thể chứng minh qua những tác phẩm văn học tiêu biểu nào? Mỗi tác phẩm đó có những sáng tạo gì mới về nội dung và nghệ thuật? III.Kết quả thực nghiệm:III.1. Kết quả giờ dạy: * Cụ thể ở lớp 11A5 : có 45 học sinh : – Kết quả của việc tìm hiểu đề, tìm ý :+ 40/45 hs, chiếm 89% đã có thói quen đọc kĩ đề từ 2- 5 lần trước khi viết bài văn.+37/45 hs, chiếm 77% biết vận dụng thao tác tìm hiểu đề, tìm ý cho bài văn.Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đó có ít nhất 4 lần cho học sinh làm bài kiểm tra trong một học kỳ, kết quả của các lần kiểm tra đều nâng lên về mặt chất lượng .– Kết quả chung :+ Học kỳ I có 3 em đạt giỏi, chiếm tỉ lệ 7%, 23 em loại khá, chiếm tỉ lệ 51% ,18 em loại trung bình, chiếm tỉ lệ 41 %, 01 em loại yếu, chiếm 2% .+ Đến học kỳ 2 đó có 5 em đạt loại giỏi, 24 em đạt khá, 16 em đạt loại trung bình , không còn học sinh xếp loại yếu.So sánh kết quả bài kiểm tra: Sau khi dạy thực nghiệm đối chứng ở bài học ở hai lớp 11A2, 11A5, tôi đã tiến hành cho cả hai lớp làm bài kiểm tra để đối chứng kết quả, trong 15 phút.Đề1: Intenet – con dao hai lưỡi. * Bài viết cần nêu được những ý chính sau:– Giải thích khái niệm Intenét: hệ thống thông tin toàn cầu có thể truy cập công cộng gồm các mạng máy tính liên kết với nhau…– “Intenét là con dao hai lưỡi” có nghĩa là thế nào? Intenét có những tiện ích to lớn bên cạnh những tác hại khôn lường. ( Vừa là “ túi khôn” vừa là “ thùng rác” của loài người.– Tiện ích của Intenét: Cung cấp thông tin, mở mang hiểu biết, giúp con người giao lưu, thư giãn…– Mặt trái của Intenét: Làm cho văn hoá đọc có nguy cơ bị mai một; là nguyên nhân phá vỡ kết nối giữ các cá nhân trong cộng đồng khi họ say mê trong thế giới ảo; là phương tiện để kẻ xấu lợi dụng để truyền di những thông tin không có lợi; là nguyên nhân khiến nhiều bạn trẻ bê trễ học hành, vi phạm pháp luật…– Làm thế nào để Intenét phát huy tác dụng tốt nhất trong cuộc sống.+ Người sử dụng: Biết sử dụng đúng mục đích, sử dụng một cách thông minh, linh hoạt.+Cơ quan quản lí: Có những biện pháp tích cực, quản lí chặt chẽ những thông tin trên mạng, giáo dục phổ cập nâng cao kiến thức…– Rút ra bài học cho bản thân.Đề2: Học sinh sử dụng điện thoại di động trong trường học – lợi và hại. * Bài viết cần nêu được những ý chính sau:– Nêu vấn đề nghị luận: Hiện tượng sử dụng điện thoại di động trong nhà trường của hs.– Lợi ích cho ĐTDĐ mang lại đối với hs.+ Liên lạc cùng bạn bè, trao đổi những vấn đề về học tập.+ Bố mẹ quản lí giờ giấc cũng nh kiểm soát con em mình được dễ dàng hơn.Qua đó có thể hiểu và chia sẻ được những lo lắng và những suy nghĩ của concái.+ Dùng ĐTDĐ có thể ghi nhớ, đặt giờ giấc. + Dùng điện thoại để nhắn tin, chơi điện tử, nghe nhạc… làm mất thời gianhọc hành của hs.+ Dùng điện thoại không đúng lúc, đúng chỗ sẽ tạo nên một hình ảnh phảncảm.+ Dùng điện thoại di động trong nhà trường vào những mục đích xấu sẽkhiến học sinh đi sai đường, nhận thức vấn đề không đúng dẫn đến việc không xây dựng cho mình lối sống văn hoá… + Hạn chế việc hs mang ĐTDĐ đến trờng.+ Tăng cường giáo dục tư tưởng, ý thức để hs hiểu được ảnh hưởng không tốtcủa việc mang ĐTDĐ đến trường lớp.+ Phụ huynh hs cần quản lí chặt chẽ việc con em sử dụng ĐTDĐ.+ Bản thân mỗi hs phải hiểu được những mặt lợi – hại, tốt – xấu của việcmang và sử dụng ĐTDĐ trong trường để tự điều chỉnh hành vi của mình. – Liên hệ bản thân.
-> Rõ ràng, việc áp dụng thực nghiệm đề tài đã tạo ra kết quả học tập cao hơn cho học sinh. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xem thêm : Sáng kiến kinh nghiệm môn văn Bài viết gợi ý: |