Tại sao phải xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

Vì sao phải xây dựng con người mới

Admin - 21/05/2021 265
Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới đã trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Ảnh: KHÁNH AN

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định con người là vốn quý nhất và lấy việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, Người đã nói đến Con người và trong Di chúc, Người đã khẳng định “đầu tiên là công việc đối với con người”.

Bạn đang xem: Vì sao phải xây dựng con người mới


Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặt lên hàng đầu chiến lược xây dựng và phát triển con người, bởi vì “chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia” [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007- trang 345].

Nhất quán tư tưởng sâu sắc và nhận thức quan trọng trên, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng [1-2016], một lần nữa đã xác định một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016]. Trước tình hình và đặc điểm mới, phức tạp hiện nay và những năm sắp tới, đây là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, nặng nề, đồng thời là một thách thức gay gắt đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Hoàn thành tốt hay không nhiệm vụ trọng tâm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực trọng yếu của đời sống đất nước.

Cũng có người nghĩ rằng, vấn đề con người chỉ được đặt trong một mục cụ thể của Báo cáo chính trị tại Đại hội, mục VII “xây dựng phát triển văn hóa, con người” và gói gọn nhân tố con người trong phần văn hóa. Nhận thức đó chưa thấu hiểu hết tinh thần và nội dung của văn kiện này. Trong hầu hết các phần của văn kiện, từ kinh tế đến xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, từ hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ tăng cường quốc phòng, an ninh đến đổi mới giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, từ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đến quản lý phát triển xã hội..., nhân tố con người đều được coi trọng hàng đầu và khẳng định là động lực, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các lĩnh vực trên. Vì thế, cái mới trong văn kiện lần này là xác định dứt khoát nhân tố và nguồn lực con người là một trong ba đột phá chiến lược: “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Thực chất quan điểm này gắn liền với lý thuyết về vốn con người [hay có người còn gọi là tư bản người]. Nhiều quốc gia coi việc đầu tư “vô hình” này là chính sách ưu tiên hàng đầu bảo đảm cho phát triển bền vững. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm, tư tưởng lớn của Đảng về vị thế đặc biệt quan trọng của con người trong thời kỳ mới của sự phát triển đất nước được trình bày cô đúc với những đòi hỏi rất cao thể hiện trong các chương mục của văn kiện.

Trước hết, văn kiện xác định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Các nội dung trên đây thể hiện khát vọng sâu xa không chỉ của Đảng, mà của toàn dân tộc ta trong điều kiện chúng ta đang phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì, không nao núng trước những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất của một bộ phận con người trong xã hội đang biến đổi phức tạp ngày hôm nay. Cái mới của quan điểm trên còn ở chỗ: nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam không chỉ vì bản thân họ, mà sâu xa hơn, phải coi con người Việt Nam là trọng tâm của sự phát triển và phải "trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển" bền vững của đất nước.

Xem thêm: Thông Tư Hướng Dẫn Hợp Đồng Trong Xây Dựng, Thông Tư 07/2016/Tt

Những giá trị gì tạo nên sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế? Văn kiện Đại hội đã gợi mở, Đảng, Nhà nước và xã hội cần tạo môi trường và điều kiện để con người “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đó là những giá trị cần có để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới, trong đó, phải chỉ ra rằng, có những giá trị đòi hỏi rất cao, rất kiên trì sự rèn luyện, giáo dục, tự trui rèn của mỗi con người mới hy vọng đạt được. Mặt khác, đây là một quá trình rất lâu dài, diễn ra một cuộc đấu tranh thầm lặng nhưng quyết liệt trong mỗi con người, mỗi gia đình và cả cộng đồng để từng bước “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [văn kiện - tr. 126].

Để làm được điều đó cần nhận thức rõ các nội dung lớn sau đây: một là, kiên quyết bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững của dân tộc đã được hun đúc trong tiến trình lịch sử dân tộc; hai là, chắt chiu, nuôi dưỡng, chăm lo, bảo vệ, khẳng định những nhân tố mới, các giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ lịch sử mới đang xuất hiện và trưởng thành trong cuộc sống; và ba là, tỉnh táo khắc phục, vượt qua những hạn chế lịch sử vốn có và những thói hư, tật xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất đang diễn ra hiện nay. Văn kiện đã xác định rõ các nội dung trên, coi đó là con đường phải đi qua để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam đương đại: “khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu,…” và “khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” [Văn kiện - tr.127]. Với ý nghĩa đó, mục tiêu cao cả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới là tìm con đường để con người trở nên NGƯỜI NHẤT và làm cho hoàn cảnh không làm tha hóa con người, phải trở nên nhân đạo hơn với con người, như có lần C. Mác khẳng định.

Bằng con đường nào, giải pháp chủ yếu nào để có thể đào tạo, xây dựng được các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện? Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là giáo dục, đào tạo. Nhằm thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” [văn kiện - tr.114]. Tư tưởng này đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành,… Giáo dục, đào tạo phải tạo cho được sự phát triển của con người, đặc biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo cho bằng được những thế hệ con người Việt Nam “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” [Văn kiện - tr. 115].

Con người phát triển hay bị tha hóa, biến chất phụ thuộc vào môi trường văn hóa - nơi con người sinh sống, lao động, học tập, quan hệ cộng đồng. Vì vậy, nói đến xây dựng đời sống văn hóa, trước hết là xây dựng môi trường văn hóa cho con người, vì con người, kể từ môi trường trực tiếp và nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, bản làng, các đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu,… Nghĩa là, để có được nhân cách văn hóa phát triển đúng hướng và toàn diện, phải văn hóa hóa toàn bộ hoạt động và quan hệ đa dạng của con người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống” [Văn kiện - tr. 127 - 128].

Từ nhận thức trên, văn kiện Đại hội, đặc biệt trong phần “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh…” và phần “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” đã rất chú trọng và nhấn mạnh đến nhiệm vụ “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” trong cán bộ, đảng viên và quan tâm toàn diện đến nhiệm vụ bồi dưỡng, xây dựng, phát triển và phát huy các giai cấp, giai tầng xã hội: giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài,… Làm tốt các nhiệm vụ cụ thể trên chính là con đường tốt nhất để đào tạo, xây đắp con người Việt Nam đương đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước thời kỳ mới.

Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới đã trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Ảnh: KHÁNH AN

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định con người là vốn quý nhất và lấy việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, Người đã nói đến Con người và trong Di chúc, Người đã khẳng định “đầu tiên là công việc đối với con người”.

Bạn đang xem: Vì sao phải xây dựng con người mới


Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặt lên hàng đầu chiến lược xây dựng và phát triển con người, bởi vì “chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia” [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007- trang 345].

Nhất quán tư tưởng sâu sắc và nhận thức quan trọng trên, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng [1-2016], một lần nữa đã xác định một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016]. Trước tình hình và đặc điểm mới, phức tạp hiện nay và những năm sắp tới, đây là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, nặng nề, đồng thời là một thách thức gay gắt đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Hoàn thành tốt hay không nhiệm vụ trọng tâm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực trọng yếu của đời sống đất nước.

Cũng có người nghĩ rằng, vấn đề con người chỉ được đặt trong một mục cụ thể của Báo cáo chính trị tại Đại hội, mục VII “xây dựng phát triển văn hóa, con người” và gói gọn nhân tố con người trong phần văn hóa. Nhận thức đó chưa thấu hiểu hết tinh thần và nội dung của văn kiện này. Trong hầu hết các phần của văn kiện, từ kinh tế đến xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, từ hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ tăng cường quốc phòng, an ninh đến đổi mới giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, từ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đến quản lý phát triển xã hội..., nhân tố con người đều được coi trọng hàng đầu và khẳng định là động lực, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các lĩnh vực trên. Vì thế, cái mới trong văn kiện lần này là xác định dứt khoát nhân tố và nguồn lực con người là một trong ba đột phá chiến lược: “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Thực chất quan điểm này gắn liền với lý thuyết về vốn con người [hay có người còn gọi là tư bản người]. Nhiều quốc gia coi việc đầu tư “vô hình” này là chính sách ưu tiên hàng đầu bảo đảm cho phát triển bền vững. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm, tư tưởng lớn của Đảng về vị thế đặc biệt quan trọng của con người trong thời kỳ mới của sự phát triển đất nước được trình bày cô đúc với những đòi hỏi rất cao thể hiện trong các chương mục của văn kiện.

Trước hết, văn kiện xác định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Các nội dung trên đây thể hiện khát vọng sâu xa không chỉ của Đảng, mà của toàn dân tộc ta trong điều kiện chúng ta đang phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì, không nao núng trước những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất của một bộ phận con người trong xã hội đang biến đổi phức tạp ngày hôm nay. Cái mới của quan điểm trên còn ở chỗ: nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam không chỉ vì bản thân họ, mà sâu xa hơn, phải coi con người Việt Nam là trọng tâm của sự phát triển và phải "trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển" bền vững của đất nước.

Xem thêm: Thông Tư Hướng Dẫn Hợp Đồng Trong Xây Dựng, Thông Tư 07/2016/Tt

Những giá trị gì tạo nên sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế? Văn kiện Đại hội đã gợi mở, Đảng, Nhà nước và xã hội cần tạo môi trường và điều kiện để con người “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đó là những giá trị cần có để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới, trong đó, phải chỉ ra rằng, có những giá trị đòi hỏi rất cao, rất kiên trì sự rèn luyện, giáo dục, tự trui rèn của mỗi con người mới hy vọng đạt được. Mặt khác, đây là một quá trình rất lâu dài, diễn ra một cuộc đấu tranh thầm lặng nhưng quyết liệt trong mỗi con người, mỗi gia đình và cả cộng đồng để từng bước “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [văn kiện - tr. 126].

Để làm được điều đó cần nhận thức rõ các nội dung lớn sau đây: một là, kiên quyết bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững của dân tộc đã được hun đúc trong tiến trình lịch sử dân tộc; hai là, chắt chiu, nuôi dưỡng, chăm lo, bảo vệ, khẳng định những nhân tố mới, các giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ lịch sử mới đang xuất hiện và trưởng thành trong cuộc sống; và ba là, tỉnh táo khắc phục, vượt qua những hạn chế lịch sử vốn có và những thói hư, tật xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất đang diễn ra hiện nay. Văn kiện đã xác định rõ các nội dung trên, coi đó là con đường phải đi qua để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam đương đại: “khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu,…” và “khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” [Văn kiện - tr.127]. Với ý nghĩa đó, mục tiêu cao cả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới là tìm con đường để con người trở nên NGƯỜI NHẤT và làm cho hoàn cảnh không làm tha hóa con người, phải trở nên nhân đạo hơn với con người, như có lần C. Mác khẳng định.

Bằng con đường nào, giải pháp chủ yếu nào để có thể đào tạo, xây dựng được các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện? Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là giáo dục, đào tạo. Nhằm thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” [văn kiện - tr.114]. Tư tưởng này đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành,… Giáo dục, đào tạo phải tạo cho được sự phát triển của con người, đặc biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo cho bằng được những thế hệ con người Việt Nam “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” [Văn kiện - tr. 115].

Con người phát triển hay bị tha hóa, biến chất phụ thuộc vào môi trường văn hóa - nơi con người sinh sống, lao động, học tập, quan hệ cộng đồng. Vì vậy, nói đến xây dựng đời sống văn hóa, trước hết là xây dựng môi trường văn hóa cho con người, vì con người, kể từ môi trường trực tiếp và nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, bản làng, các đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu,… Nghĩa là, để có được nhân cách văn hóa phát triển đúng hướng và toàn diện, phải văn hóa hóa toàn bộ hoạt động và quan hệ đa dạng của con người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống” [Văn kiện - tr. 127 - 128].

Từ nhận thức trên, văn kiện Đại hội, đặc biệt trong phần “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh…” và phần “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” đã rất chú trọng và nhấn mạnh đến nhiệm vụ “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” trong cán bộ, đảng viên và quan tâm toàn diện đến nhiệm vụ bồi dưỡng, xây dựng, phát triển và phát huy các giai cấp, giai tầng xã hội: giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài,… Làm tốt các nhiệm vụ cụ thể trên chính là con đường tốt nhất để đào tạo, xây đắp con người Việt Nam đương đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước thời kỳ mới.

Phát triển con người Việt Nam toàn diện đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo tư tưởng Hồ Chí Minh

20/08/2021

NGUYỄN HỒNG ĐIỆP*

Đặt vấn đề

Nhân loại đang chứng kiến những thay đổi vượt bậc trong thời đại công nghệ số của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư [CMCN 4.0] và tầm ảnh hưởng sâu rộng của khoa học, công nghệ đếnđời sống con người. Bản chất của CMCN 4.0 chính là việc ứng dụng công nghệ, khoa học dữ liệu vàsử dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ sản xuất và cuộc sốngcon người. Nhìn chung, CMCN 4.0 đang có sự tác động sâu sắc đến mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở các quốc gia trên toàn thế giới như những gì Giáo sư Klaus Schwab - Người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới, đã khẳng định: “Chúng ta đang đứng trước thềm một cuộc cách mạng sẽ làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc, và liên hệ với nhau. Tôi cho là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này sẽ không giống với bất cứ điều gì nhân loại đã từng trải qua cả về quy mô, phạm vi và độ phức tạp của nó” [Klaus Schwab, 2016, tr. 1]. Trong xu hướng chung đó, việc tận dụng cơ hội và khắc phục những thách thức do cuộc cách mạng này đem lại, suy cho cùng phụ thuộc vào con người. Con người có đủ phẩm chất, năng lực sẽ phát huy được những lợi thế và khắc phục được những thách thức do cuộc cách mạng này đem lại. Đối với nước ta, đó là những con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Hồ Chí Minh không viết tác phẩm riêng bàn về con người, nhưng vấn đề con người là chủ đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người. Trong mọi suy nghĩ và hành động, Hồ Chí Minh luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, con người là mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là một di sản quý báu, chiều sâu trong tư tưởng đó là triết lí nhân sinh sâu sắc, là tinh thần, là phương pháp luận để giải quyết vấn đề con người, đó là tư tưởng về phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh. Do đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là cơ sở lí luận và phương pháp luận khoa học phát triển con người Việt Nam toàn diện đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người Việt Nam toàn diện

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là những luận điểm về mô hình và con đường phát triển con người Việt Nam toàn diện. Mô hình con người Việt Nam phát triển toàn diện được khái quát lên từ sự kế thừa, phát triển các chuẩn mực con người phương Đông trong lịch sử. Trong đó, chủ yếu và trực tiếp nhất, Hồ Chí Minh đã đứng trên các phạm trù triết học Nho giáo về triết lí nhân sinh, đạo đức và tri thức để làm người, cụ thể hóa thành các tiêu chí của con người Việt Nam. Mô hình đó được Hồ Chí Minh cụ thể bằng các tiêu chí về phẩm chất và năng lực: thể lực, trí tuệ, thẩm mĩ, đạo đức. Tuy nhiên, đây mới chỉ là mô hình, tiêu chí để Hồ Chí Minh có một quan niệm về phát triển con người Việt Nam toàn diện. Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh mới thực sự tìm thấy con đường để phát triển con người toàn diện. Đó chính là những nguyên lí duy vật lịch sử về bản chất con người của triết học Mác - Lênin. Những nguyên lí này là cơ sở lí luận và phương pháp khoa học nhằm phát triển con người toàn diện, mang lại cho con người những phẩm chất, năng lực mới để con người làm chủ ngày càng tốt hơn các quá trình phát triển xã hội. Vì vậy, con đường phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh được nảy sinh, phát triển từ thực tiễn và lại được hệ thống lí luận cách mạng định hướng, soi đường. Chính điều này đã làm cho tư tưởng về phát triển con người của Hồ Chí Minh trở nên khoa học và có giá trị trong phát triển toàn diện con người Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, trước hết muốn phát triển con người Việt Nam toàn diện phải giải phóng họ khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng vô sản. Đây là công việc phải thực hiện đầu tiên, tạo điều kiện phát triển con người Việt Nam trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, dân ta một cổ hai tròng. Con người chỉ có điều kiện phát triển toàn diện khi họ được giải phóng. Vì vậy, nếu nước nhà không được độc lập thì không có tự do, có nghĩa là con người vẫn bị kìm kẹp trong ách áp bức nô lệ cả về thể xác lẫn tinh thần. Muốn giải phóng con người, chúng ta phải tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra những điều kiện về vật chất và tinh thần để giải phóng con người về kinh tế, chính trị, xã hội - yếu tố quyết định cho sự phát triển con người Việt Nam toàn diện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 12, tr. 30]. Theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Người thể hiện ý chí quyết tâm giải phóng và giành độc lập, tự do cho dân tộc: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 4, tr. 534].

Tiến hành cách mạng vô sản nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp cũng là nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người quan niệm, giải phóng dân tộc cũng là nhằm để dân có tự do, hạnh phúc, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 4, tr. 64]. Theo Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là điều kiện để bảo đảm cho nền độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp bức, bóc lột mà còn chính vì “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 11, tr. 60], chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới tạo ra mọi điều kiện để con người được phát triển toàn diện năng lực của mình.

Theo Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện, họ phải tham gia vào hoạt động đấu tranh cách mạng, phải được tôi luyện và trưởng thành từ phong trào cách mạng. Khi họ tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ là môi trường quantrọng để thử thách, rèn luyện con người Việt Nam, thông qua đó họ được phát triển về mọi mặt. C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [C.Mác và Ph.Ăng-ghen, 1995, tập 3, tr. 11]. Tiếp thu lí luận về bản chất con người của C.Mác, Hồ Chí Minh có cơ sở phương pháp luận khoa học để phát triển con người Việt Nam toàn diện. Theo đó, việc hình thành những năng lực bản chất người bao giờ cũng phải thông qua các quá trình xã hội hóa, tiếp thu kinh nghiệm, văn hóa vật chất và tinh thần của loài người, thông qua việc tham gia vào các quan hệ xã hội. Tham gia vào nhiều quan hệ xã hội, những quan hệ càng có tính khó khăn, phức tạp bao nhiêu, khi con người thích ứng được nó thì càng phát triển những phẩm chất, năng lực của mình bấy nhiêu - phát triển toàn diện bấy nhiêu. Vì vậy, tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ chế độ mới là điều kiện hết sức quan trọng để con người Việt Nam trưởng thành về mọi mặt. Vì vậy, thông qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ là điều kiện để hàng triệu con người Việt Nam tôi luyện, trưởng thành về mọi mặt, làm cho năng lực nhận thức và hành động của họ không ngừng được nâng cao, tạo ra sự phát triển ngày càng phong phú, hài hòa về nhân cách của con người Việt Nam trong thời đại mới. Quá trình tham gia đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tác động sâu sắc đến việc hình thành những phẩm chất, năng lực mới của con người Việt Nam, góp phần quyết định tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt - những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta.

Hồ Chí Minh còn khẳng định, phát triển con người toàn diện khi họ tham gia vào hoạt động lao động sản xuất. Khi bàn về vai trò của lao động với sự hình thành và phát triển con người, Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người” [C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 20, tr. 641]. Điều đó có nghĩa là, bằng lao động và thông qua lao động mà các cơ quan của cơ thể con người được phát triển hoàn thiện, đồng thời với đó là tư duy, ý thức, năng lực của con người cũng phát triển theo sự phát triển của quá trình lao động sản xuất. Tiếp thu quan điểm của các nhà lí luận mácxít, Hồ Chí Minh cho rằng, thông qua lao động sản xuất vật chất, trước hết sức khỏe, thể lực con người được nâng lên, không những làm cho con người “quen gian khổ” mà còn có ích cho sức khỏe của họ, “do lao động, sức khỏe tăng hơn” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 11, tr. 594]. Không những thế, thông qua lao động mà con người biết quý trọng sức lao động và giá trị sản phẩm do lao động tạo ra, biết tôn trọng những người lao động và từ đó biết tự làm lấy để sinh sống,... Người khẳng định vai trò của lao động sản xuất với sự phát triển toàn diện của con người: “Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen gian khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỉ lực” [làm lấy mà ăn] không ăn bám xã hội” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 5, tr. 121]. Sự phát triển của nhận thức con người phát triển cùng với sự phát triển của lao động, Người viết: “Hoạt động sản xuất của xã hội phát triển từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy, sự hiểu biết của người ta [về giới tự nhiên, cũng như về xã hội] cũng phát triển từng bước, từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, từ một mặt đến toàn diện” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 121].

Trong quá trình phát triển của lao động sản xuất ấy, giới tự nhiên dần bộc lộ ra những quy luật, những thuộc tính, những tri thức để con người hiểu biết sâu hơn về giới tự nhiên làm cho nhận thức của con người phát triển từ thấp đến cao, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều,... Người viết: “Do sự sản xuất vật chất mà người ta hiểu biết dần dần các hiện tượng, các tính chất, các quy luật và mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Lại do hoạt động sản xuất mà dần dần hiểu rõ mối quan hệ giữa người này với người khác” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 121]. Như vậy, sự phát triển về tri thức và năng lực là thước đo đánh giá sự phát triển của con người, theo Người, thông qua lao động sản xuất, sức khỏe, lí tưởng cách mạng, ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình, cũng như tài năng của con người ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Khi tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, con người càng thấy giá trị của lao động, biết quý trọng những sản phẩm do những người lao động đổ mồ hôi, nước mắt làm ra, qua đó nâng cao ý thức cần, kiệm cho bản thân đồng thời biết trân trọng, yêu quý những người lao động chủ nhân của xã hội mới.

Xây dựng và phát triển một nền giáo dục mới là con đường cơ bản để phát triển con người toàn diện. Giáo dục, đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người nói chung và toàn diện của con người nói riêng. Có thể nói đây là một trong những phương thức cơ bản nhất mà loài người đã sử dụng trong suốt mấy nghìn năm qua để đào tạo, phát triển nhiều thế hệ người, đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong tiến trình phát triển của nhân loại. Là người thầy vĩ đại của dân tộc, Hồ Chí Minh có niềm tin vào sức mạnh của một nền giáo dục mới nhằm tạo ra những con người mới xã hội chủ nghĩa, phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn/Phần nhiều do giáo dục mà nên” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 3, tr. 413]. Vì vậy, cần phải tiến hành đổi mới nền giáo dục cũ và phải tiến hành giáo dục, đào tạo một cách khoa học và chu đáo. Người chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa.

Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục toàn diện cả về chính trị, quân sự, văn hóa, đạo đức, khoa học, kĩ thuật,... của nền giáo dục mới sẽ cung cấp cho con người tri thức toàn diện, rèn luyện cho con người năng lực toàn diện để tự tin bước vào xã hội mới. Người viết: “Trong giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kĩ thuật, lao động sản xuất” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 12, tr. 647]. Nội dung giáo dục này cũng tạo điều kiện để con người Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao quý, tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại, trau dồi vốn hiểu biết về thời đại, về khoa học kĩ thuật cơ bản, thiết thực, vững chắc, đồng thời rèn luyện thói quen, kĩ năng lao động và thực hành,... tạo ra sự phát triển hài hòa các sức mạnh của lí trí, tình cảm và ý chí, của kiến thức, kĩ năng và thái độ của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần quan trọng cho sự ra đời và phát triển con người Việt Nam toàn diện.

Theo Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện khi có sự chủ động, tích cực, tự giác rèn luyện, vươn lên của cá nhân. Khi bàn về mối quan hệ giữa điều kiện, hoàn cảnh với con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy” [C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 3, tr. 55]. Như vậy, giữa sự biến đổi của hoàn cảnh và con người có quan hệ biện chứng lẫn nhau. Điều kiện, hoàn cảnh càng thuận lợi bao nhiêu thì con người càng phát triển bấy nhiêu, con người muốn phát triển toàn diện bao nhiêu, thì phải tạo ra hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh dù có thuận lợi đến mấy nhưng không có sự nỗ lực, cố gắng của chủ thể thì hiệu suất của quá trình tiếp nhận và chuyển hóa hệ thống các giá trị xã hội thông qua quá trình xã hội hóa các quan hệ xã hội thành những năng lực của chủ thể sẽ không cao. Sự tác động của môi trường tự nhiên và xã hội đến sự phát triển con người diễn ra thường xuyên trên cả hai bình diện thể lực và trí tuệ, năng lực nhận thức, năng lực hành động. Song, cùng một môi trường sống như nhau, nhưng ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội đối với sự phát triển của mỗi con người, mỗi cá nhân lại không giống nhau. Nói cách khác, khả năng tiếp nhận chuyển hóa của các nhân tố khách quan với từng chủ thể có khác nhau, tùy thuộc vào nhận thức, sự nỗ lực, tự giác và năng lực của mỗi chủ thể đó.

Trên cơ sở lí luận đó, Hồ Chí Minh hết sức đề cao yếu tố tự giác rèn luyện, vươn lên của các cá nhân trong sự phát triển toàn diện của mỗi con người. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển toàn diện con người. Bằng kinh nghiệm của bản thân, bằng những hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và khách quan cũng như bằng sự nghiên cứu, tổng kết lịch sử, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 3, tr. 596]. Suy rộng ra nghĩa là trong sự phát triển các phẩm chất, năng lực mọi mặt của con người, các nhân tố khách quan dù quan trọng đến đâu cũng không thể thay thế được nhân tố chủ quan, không thể thay thế được sự tự giác vươn lên về mọi mặt của các cá nhân. Con người với tư cách là chủ thể trong sự phát triển của nó, luôn là nhân tố cơ bản để hình thành nên những nhân cách vẹn toàn, những cá nhân phát triển toàn diện. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, trong việc phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam, cần phải đặc biệt chú ý đến phát triển ý thức tự giác, tinh thần tự lập, tự cường, năng lực tự vươn lên không biết mệt mỏi của con người. Hồ Chí Minh viết: “Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 5, tr. 120].

Thực chất của triết lí phát triển con người của Hồ Chí Minh là tạo ra mọi điều kiện xã hội thuận lợi, từ đó tạo ra những cơ hội để mọi người được tham gia vào các quan hệ xã hội, qua đó phát triển, phát huy những năng lực của mình đáp ứng yêu cầu của phát triển xã hội. Thông qua đó con người cũng được rèn luyện, trải nghiệm để họ nhận thức được sự cần thiết phải có ý thức tự giác, tích cực chủ động trong phát triển mình và phát triển xã hội. Đó như là những vấn đề có tính quy luật trong phát triển toàn diện con người Việt Nam.

Hiện nay, thế giới đã bước vào thời kì của cuộc CMCN 4.0, nó đã, đang và sẽ tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để giải quyết những vấn đề thuận lợi và thách thức do cuộc cách mạng này mang lại, suy cho cùng là giải quyết vấn đề con người, trong đó con người Việt Nam phát triển toàn diện là một trong những vấn đề trọng tâm để đất nước ta tận dụng cơ hội nhằm phát triển đất nước cũng như phát triển con người Việt Nam. Theo đó, cần thấy được những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam do cuộc CMCN 4.0 đặt ra, từ đó nghiên cứu những vấn đề có tính quy luật trong phát triển con người của Hồ Chí Minh vào xây dựng chiến lược con người ở nước ta đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới.

2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam hiện nay

Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp với các bước phát triển nhảy vọt về khoa học, công nghệ và hiện nay đang bước vào CMCN 4.0. Bản chất của cuộc cách mạng này là dựa trên nền tảng công nghệ số và sự tích hợp các công nghệ thông minh trên lĩnh vực vật lí và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo [AI], vạn vật kết nối [IoT], dữ liệu lớn [Big Data], công nghệ na-nô,... Những lĩnh vực của cuộc cách mạng này đặt ra những yêu cầu cho con người Việt Nam trên một số lĩnh vực như sau:

Thứ nhất, con người có trình độ và kĩ năng lao động cao đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 trong khi trình độ lao động, thói quen xấu, kỉ luật lao động và khả năng làm việc nhóm của không ít người dân Việt Nam còn ở trình độ thấp.

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ trong CMCN 4.0, nó sẽ làm thay đổi bản chất của công việc một cách đáng kể đối với tất cả các ngành, nghề. Yêu cầu về trình độ lao động, kĩ năng lao động đặt lên hàng đầu để thích ứng với máy móc, phương tiện kĩ thuật hiện đại, đi kèm với đó là mức độ chuyên môn hóa ngày càng cao, đòi hỏi khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc nhóm, ý thức kỉ luật lao động. Trong khi chúng ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, con người Việt Nam bên cạnh những đức tính, phẩm chất tốt vẫn còn nhiều thói quen xấu như cơ hội chủ nghĩa, bè phái; hám danh; thiếu ý thức tuân thủ pháp luật; lãng phí; khả năng làm việc tập thể chưa cao,... Đây là những yếu điểm, đồng thời là những thách thức khiến chúng ta đánh mất các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại, dẫn đến tụt hậu so với các nước khác.

Thứ hai, sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới do CMCN 4.0 đem lại, đòi hỏi khả năng thích ứng của con người Việt Nam.

Sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng của các công nghệ hiện đại từ cuộc CMCN 4.0 mà tâm điểm là việc hình thành các nhà máy thông minh, nhà máy số - nơi mà máy móc, thiết bị sẽ được kết nối, tự động ra quyết định toàn bộ hoạt động của nhà máy từ khâu thu thập, phân tích yêu cầu, xây dựng kế hoạch sản xuất. Do đó, lao động máy móc và tự động hóa sẽ thay thế lao động chân tay, một mặt nó đòi hỏi về chất lượng con người, nhưng mặt khác, nó cũng thay đổi phương thức lao động của con người, khiến nhiều ngành nghề truyền thống sẽ mất đi, nhiều lĩnh vực lao động mới xuất hiện, thời gian xuất hiện và mất đi có khi diễn ra rất ngắn. Điều này đòi hỏi con người phải có đủ phẩm chất và năng lực để thích nghi. Trong khi đó, không ít người Việt Nam vừa có trình độ lao động thấp, nhưng lại bị ảnh hưởng bởi tư tưởng bảo thủ, trì trệ, sẽ khó có khả năng thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của phương thức lao động mới này.

Thứ ba, khả năng thực hành, khả năng ngoại ngữ và khả năng thích nghi môi trường cạnh tranh công nghiệp của con người Việt Nam.

Cuộc CMCN 4.0 làm cho thế giới ngày càng “phẳng” hơn, nghĩa là các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau hơn, mức độ liên kết chặt chẽ hơn, do đó, đòi hỏi các cá nhân phải thông hiểu ngoại ngữ để trao đổi, liên kết trong công việc. Bên cạnh đó, năng lực thực hành đòi hỏi hiện hữu và trực tiếp nhất đối với người lao động, trong cuộc cách CMCN 4.0, cuộc cạnh tranh phát triển giữa các nước ngày càng khốc liệt hơn, do chính nhân tố kinh tế quy định. Trong khi đó khả năng ngoại ngữ của chúng ta còn khá thấp, công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp về cả số lượng và chất lượng. Đào tạo cao đẳng và đại học vẫn chiếm tỉ lệ lớn, đây là nguyên nhân dẫn đến việc thừa thầy thiếu thợ. Phương thức giảng dạy vẫn còn lạc hậu, chưa áp dụng các công nghệ hiện đại mới. Trong công tác xây dựng chương trình giảng dạy còn thiếu các chương trình thực tế, dẫn đến thiếu cơ hội cho người học áp dụng những kiến thức được học trong nhà trường vào các vấn đề cụ thể của xã hội. Với tâm lí bằng cấp, hầu hết người học đều lựa chọn học đại học hoặc sau đại học mà không chú trọng đến nhu cầu nhân lực cũng như học nghề, điều này dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ hiện nay và tình trạng người lao động có bằng đại học nhưng chấp nhận làm những công việc không cần chuyên môn kĩ thuật,...

Thứ tư, yêu cầu về sự hoàn thiện giá trị con người Việt Nam với sự đứt gãy hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa giữa các thế hệ do mặt trái của CMCN 4.0 tạo ra. Trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin, sự phát triển nhanh như vũ bão của internet, mạng xã hội; báo điện tử; kênh truyền hình giải trí;… mang lại những thông tin bổ ích, tạo điều kiện cho con người tiếp cận thông tin thuận tiện, dễ dàng; khả năng chia sẻ, kết nối cao,… Bên cạnh đó cũng để lại nhiều hệ lụy như: nạn nghiện game online; sự gia tăng ngôn ngữ tiếng lóng, ngôn từ kí hiệu làm méo mó và mất đi sự trong sáng của tiếng Việt,...khiến mỗi cá nhân là một không gian khép kín thiếu sự gắn kết, chia sẻ giữa các thành viên, thiếu sự quan tâm đến các vấn đề xã hội và làm giảm trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng. Những rạn nứt trong cung cách ứng xử, lối sống giữa các thế hệ trong cùng một gia đình diễn biến phức tạp, nhiều mâu thuẫn khó có thể điều hòa. Bạo hành gia đình giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái; tranh giành tài sản đất đai,… tạo ra những rào cản, xung đột ngầm giữa các thế hệ trong bối cảnh chuyển đổi, tìm kiếm và thiết lập những mô hình gia đình phù hợp.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, cần vận dụng vào phát triển con người Việt Nam toàn diện, để đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần phải có chiến lược phát triển con người Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0. Đảng ta đã nhận thức rõ vấn đề này và khẳng định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 223]. Tuy nhiên, khi xây dựng chiến lược này phải quán triệt di huấn của Người trong bản Di chúc thiêng liêng: “Đầu tiên là công việc đối với con người” [Hồ Chí Minh, 2011, tập 15, tr. 616]. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách trong chiến lược phát triển con người của Đảng phải luôn hướng đến con người, tất cả vì con người và phải coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển” [Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 76 - 77] trong sự phát triển của xã hội. Chủ trương, chính sách này phải cụ thể, rõ ràng trong việc xác định mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các tổ chức, cá nhân theo đó thực hiện. Vì vậy, trước hết, cần phải đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người trong thời đại CMCN 4.0, đó là: “Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc CMCN 4.0, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm” [Bộ Chính trị, 2019]. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người. Theo đó: “Nhà nước ưu tiên chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ mới trong các ngành, lĩnh vực; có trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm để người dân và doanh nghiệp là các chủ thể quyết định tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [Bộ Chính trị, 2019].

Thứ hai, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0. Tức là phải: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 126 - 127]. Phải xây dựng được hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời đại mới thì mới có căn cứ để xây dựng con người. Các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam phải vừa phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa phải phù hợp với những giá trị văn hóa của thời đại nhằm xây dựng con người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất và năng lực, vừa phải mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn; vừa có khả năng đảm nhiệm những trọng trách mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Hệ giá trị chuẩn này là cơ sở để các lĩnh vực: văn hóa, y tế, giáo dục,… các cấp, các ngành có căn cứ để vun đắp cho con người Việt Nam những giá trị, tùy theo lĩnh vực hoạt động của mình. Đi đôi với đó phải có cơ chế để “đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực,… làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” [Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, tr. 51].

Thứ ba, chủ động tiếp nhận và tận dụng tối đa mọi điều kiện của cuộc CMCN 4.0 đem lại để phát triển con người Việt Nam.

Cuộc CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 và phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Tuy vậy, “mức độ chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 ở nước ta còn thấp” [Bộ Chính trị, 2019]. Theo đó, chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân. Cần tập trung tận dụng mọi thành tựu để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho nhân dân, qua đó tạo ra những điều kiện vật chất phục vụ cho con người phát triển thông qua việc đáp ứng tốt các nhu cầu của con người, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng trong cả nước. Đây là những cơ hội cho con người cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất của mình làm nền tảng để phát triển toàn diện. Tuy nhiên, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa mới tạo ra sự phát triển bền vững, như vậy, đi đôi với việc phát triển kinh tế phải phát triển văn hóa.

Thứ tư, phải chăm lo phát triển văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh làm cho xã hội phát triển bền vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị của con người, là thước đo trình độ phát triển con người, làm cho con người phát triển toàn diện. Từ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và xã hội, phải quán triệt và thực hiện tốt 5 mục tiêu, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp mà Nghị quyết TW 9 khóa XI đề ra, trong đó tập trung: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” [Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, tr. 48]. Như vậy, để có thể tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cần phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa.

Thứ năm, kiên trì thực hiện đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam.

Cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kĩ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Nếu người học được trang bị kiến thức rộng, trang bị năng lực tư duy, năng lực diễn đạt, ... thì sẽ thành công hơn trong cuộc sống. Định hướng đổi mới giáo dục theo hướng “khai phóng” đã trở thành triết lí hiện đại mà nhiều trường đại học hàng đầu trên thế giới theo đuổi. Theo đó, trong giáo dục phải “Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất người học” [Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 115]. Đó là, cần đề cao yếu tố con người, hướng tới phát huy tối đa khả năng sáng tạo của cá nhân, giải phóng tư duy, khơi gợi sự sáng tạo bên trong bộ óc con người, tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng cá nhân. Đó là: “Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số” [Bộ Chính trị, 2019]. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải trang bị cho người học khả năng vận dụng kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết một vấn đề nan giải. Thay vì chỉ đào sâu trong một lĩnh vực cụ thể, người học theo định hướng khai phóng sẽ tìm tòi, khám phá các vấn đề, ý tưởng, các phương pháp giải quyết trên nhiều lĩnh vực rộng khắp, từ nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ, đến triết học, lịch sử, toán học và khoa học. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kĩ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị, gắn lí thuyết với thực hành,… và dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc.

Kết luận

Cuộc CMCN 4.0 đã và đang tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó vừa đặt ra những yêu cầu mới cho sự phát triển của con người, đồng thời cũng tạo ra những tiền đề, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển con người ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện vẫn còn nguyên các giá trị lịch sử và đương đại sâu sắc. Tư tưởng ấy là cơ sở, là kim chỉ nam cho Đảng ta hoạch định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong thời kì mới... Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, giá trị của tư tưởng đó phải được vận dụng và cụ thể hóa trong điều kiện mới hiện nay.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị. 2019. Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, số 52-NQ/TW. Hà Nội.

2. C. Mác và Ph.Ăngghen. 1995. Toàn tập. Tập 3, 5. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.

3. Nguyễn Hữu Công. 2010. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2014. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương khóa XI. Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội.

7. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập. Tập 3, 4, 5, 7, 11, 12, 15, 20. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội

8. Klaus Schwab. 2016. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dịch bởi Đồng Bích Ngọc và Trần Thị Mỹ Anh.

* TS.; Khoa Triết học Mác - Lênin, Trường Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1 [112] 2021

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi trọng nhân tố con người, coi đó là yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển. Vấn đề "phát triển con người toàn diện" trong các văn kiện của Đại hội XII được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020.

Đó là xây dựng "con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa". Một con người toàn diện cần phát triển hài hòa, đầy đủ các mặt đức, trí, thể, mỹ. Do đó, việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện không phải là riêng của từng bộ ngành mà là nhiệm vụ chung, đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, các ngành, toàn hệ thống chính trị và cần được tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều giải pháp đồng bộ.

Các thí sinh tham gia hội thi nấu ăn “Cả nhà vào bếp” trong Ngày hội gia đình hạnh phúc năm 2019. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN

Coi trọng giáo dục nhân cách từ gia đình

Tuy không phải là thiết chế duy nhất có vai trò, trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ nhưng gia đình là môi trường giáo dục có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách con người. Giáo dục từ nhà trường và xã hội chỉ phát huy hiệu quả khi lấy giáo dục gia đình làm cơ sở. Từ nền tảng giáo dục gia đình, mỗi người cần được bồi đắp thêm đức, trí, thể, mỹ trong nhà trường, xã hội với các tri thức, kỹ năng sống đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay.

Bà Trần Thị Tuyết Ánh, Vụ trưởng Vụ Gia đình [Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch] cho biết: Sau nhiều năm đổi mới, Việt Nam đang đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đạo hóa, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Giáo dục nhân cách cho con người ngay từ gia đình là một vấn đề quan trọng và cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân đang có những biểu hiện sa sút nghiêm trọng, vai trò của gia đình và giáo dục gia đình đối với việc hình thành, nuôi dưỡng tâm hồn, nhân cách của thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước trở nên quan trọng hơn lúc nào hết.

Nghiên cứu của nhiều chuyên gia và thực tiễn cuộc sống đã cho thấy, trong giáo dục gia đình, người lớn phải dạy cho trẻ ngay từ nhỏ những điều giản dị nhất như chào hỏi, cảm ơn, nhặt được của rơi phải trả lại người mất, kính già, yêu trẻ, tuổi nhỏ làm việc nhỏ, người lớn làm việc lớn, ai cũng có trách nhiệm với bản thân, xã hội...

Kho tàng tục ngữ ca dao của dân tộc cũng là một trong những nền tảng của đạo đức, văn hóa ứng xử, có giá trị lâu bền của dân tộc mà con trẻ cần được học, được dạy ngay từ nhỏ qua lời ru, lời dạy của bà, của mẹ để dần dần thấm nhuần ý nghĩa. Ví dụ như: Kính già già để tuổi cho; ăn trông nồi, ngồi trông hướng; học ăn, học nói, học gói, học mở…

Thế nhưng trong thời kỳ kinh tế thị trường, các bậc cha mẹ phải bắt nhịp với guồng quay hối hả của cuộc sống, bị vòng xoáy của công việc cuốn đi. Nhiều gia đình quá coi trọng giá trị vật chất mà quên đi giá trị tinh thần, không ý thức được tầm quan trọng của giáo dục gia đình với thế hệ trẻ, coi nhẹ việc chăm lo, bồi đắp tình yêu thương - chất keo gắn kết sự bền vững của mỗi gia đình.

Thực tế trong xã hội đã có những gia đình phó mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường, ở nhà giao phó cho người giúp việc. Trong khi đó, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh ở nhà trường không thể thay thế được vai trò giáo dục của gia đình và cũng đang gặp rất nhiều khó khăn bất cập.

Mặt khác, với cách dạy quá nuông chiều con trẻ ở nhiều gia đình, nhất là gia đình thành thị vốn ít con, theo các chuyên gia là không tốt, sẽ dẫn đến hậu quả là con trẻ thiếu kỹ năng sống, vô cảm, vô ơn. Nhiều trẻ không biết cách ứng xử, thậm chí hỗn hào với người lớn, bắt nạt người bé hơn vì quen được nuông chiều, muốn gì được nấy.

Khi trưởng thành, những đứa trẻ như vậy thường không chịu được sức ép của cuộc sống, đạo đức không được giáo dục đầy đủ nên luôn đặt cái tôi cá nhân lên trên hết, không còn biết sợ, không đủ nhân ái, vị tha và chia sẻ với người khác...

Hiện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang thực hiện thí điểm Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình với 4 tiêu chí: Ứng xử vợ chồng; ứng xử của cha mẹ với con, ông bà với cháu; ứng xử của con với cha mẹ, cháu với ông bà; tiêu chí ứng xử của anh, chị, em.

Các tiêu chí này góp phần xác định và từng bước đưa vào cuộc sống các chuẩn mực giá trị đạo đức, văn hóa con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, các tiêu chí giúp củng cố ý thức pháp luật, đề cao đạo đức, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, cộng đồng, xã hội và đất nước, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức trong
gia đình và xã hội…

Hoàn thiện con người Việt Nam

Phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ có phần góp sức của nhà trường. Ảnh: Hoàng Hải/TTXVN

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia [Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch] chia sẻ: Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhất là cơn lốc toàn cầu hóa, con người Việt Nam có những biến đổi phức tạp. Một mặt đó là sự nâng cao rõ rệt về trình độ học vấn, sự phát lộ về tài năng, trí tuệ; sự cải thiện đáng kể về thể chất, tầm vóc.

Nhưng mặt khác đó là những chuyển biến tiêu cực về đạo đức, lối sống; sự tha hóa về nhân cách; rối loạn về thị hiếu thẩm mỹ; lệch lạc trong nhân sinh quan, thế giới quan… Từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá kịp thời công cuộc xây dựng con người Việt Nam hiện nay để có những điều chính, đối sách phù hợp, hiệu quả.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác định: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, là những chủ thể văn hóa có bản lĩnh, có khả năng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; hướng tới các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học để xây dựng con người Việt Nam có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, có tinh thần nhân văn, ý thức lao động; đề cao trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội…

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Hoài Sơn cho rằng, việc xây dựng đạo đức xã hội hiện nay cần được chấn chỉnh, củng cố niềm tin vào chế độ. Trong đó, cần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, khắc phục bệnh thành tích, nói không đi đôi với làm. Các cấp lãnh đạo cần phải làm gương về đạo đức, tư cách, phẩm chất.

Gia đình, nhà trường và xã hội cần tăng cường vai trò, trách nhiệm trong giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách. Báo chí cần đề cao trách nhiệm trong đấu tranh chống suy thoái đạo đức, lối sống; tăng cường biểu dương các nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Mặt khác, cần đề cao vai trò giáo dục, cảm hóa của văn học nghệ thuật, hướng con người đến chân - thiện - mỹ…

Về mặt giáo dục, bồi dưỡng trí tuệ cần triển khai có hiệu quả chương trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức, sự phát triển của khoa học, công nghệ; phối hợp giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường; ứng dụng công nghệ mới, các phương pháp giáo dục phù hợp.

Đối với việc nâng cao thể chất, cần thực hiện tốt chương trình tổng thể nâng cao thể lực, tầm vóc người Việt Nam đến năm 2030; phát động các phong trào tập luyện thể thao, phát huy các thiết chế thể thao ở cơ sở nhằm nâng cao thể chất, tăng tuổi thọ, lành mạnh hóa lối sống của nhân dân. Đặc biệt cần có sự liên kết giữa các ngành chức năng nằm gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống.

Đặc biệt, về nâng cao năng lực thẩm mỹ, các ngành chức năng cần triển khai chương trình giáo dục nghệ thuật nhằm nâng cao năng lực cảm thụ, trình độ thẩm mỹ cho người dân, nhất là thế hệ trẻ. Các văn nghệ sỹ cần sáng tạo thêm nhiều tác phẩm nghệ thuật chất lượng cao, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm con người; thực hiện tốt chương trình sân khấu học đường; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Bên cạnh các giải pháp hành chính, pháp luật, giáo dục, văn hóa… cần chú trọng việc cải thiện đời sống vật chất của người dân như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, đảm bảo an sinh xã hội, thu hút nhân tài, bổ nhiệm theo năng lực và phẩm chất cá nhân…

Bài 2: Hình thành lớp công dân hiểu biết, trí tuệ

Thanh Giang [TTXVN]
Lan tỏa những hình ảnh đẹp và chất lượng về đất nước, con người Việt Nam

Ngày 15/10, tại Hà Nội, Báo Ảnh Việt Nam [Thông tấn xã Việt Nam] tổ chức Lễ kỷ niệm 65 năm ngày ra số báo đầu tiên.

Chia sẻ:
Từ khóa:

Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cho mục tiêu phát triển bền vững đất nước

Sự phát triển bền vững của đất nước bao gồm các trụ cột cơ bản là bền vững về kinh tế, bền vững về chính trị - xã hội, bền vững về môi trường và bền vững về văn hóa.

Văn hóa giữ vị trí đặc biệt và vai trò quan trọng trong sự điều tiết, vận động mọi mặt của xã hội; là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội; kích thích sự sáng tạo và đánh thức những năng lực tiềm ẩn của con người.

Văn hóa chính là những dấu ấn của một cộng đồng người, một dân tộc được ghi lại, trao truyền cho các thế hệ kế tiếp trong phong tục, tập quán, thói quen, nghi lễ, tôn giáo; trong cách thức ứng xử, giao lưu, quan hệ xã hội; trong luật pháp cũng như trong các công trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật.

Để xây dựngcon người Việt Nam phát triển toàn diện,PGS, TS. Nguyễn Thị Phương Châm,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nêu 5 vấn đề:

Thứ nhất,ưu tiên tối đa các nguồn lực để xây dựng con người Việt Nam toàn diện ở các phương diện thể lực, trí lực, kĩ năng sống, đạo đức, nhân cách, lối sống, tâm hồn, năng lực làm việc, tôn trọng pháp luật. Bồi dưỡng nhân cách con người luôn là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài nên cần có sự kiên nhẫn, nỗ lực hợp tác giữa các cá nhân, các cấp, ngành quản lý, các cơ sở đào tạo và cả xã hội.

Bảo tồn bản sắc văn hóa trong xây dựng nông thôn mới

Thứ hai,nhận diện rõ và khắc phục tối đa tình trạng suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, tha hóa về lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, lấy lại niềm tin trong xã hội. Cần phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm liên quan đến tha hóa đạo đức, lối sống, gây hậu quả cho xã hội để răn đe và làm trong sạch đời sống xã hội.

Thứ ba,tiếp tục đổi mới giáo dục ở tất cả các cấp học và các môi trường giáo dục khác nhau. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo dục kiến thức khoa học với giáo dục tư tưởng, nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn, lối sống cho người học, minh bạch trong việc dạy và học, chống lại các tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục trong sạch, lành mạnh. Công tác giáo dục, nhất là trau dồi, bồi dưỡng về văn hóa cần được xác định không phải là nhiệm vụ của riêng ngành giáo dục hay ngành văn hóa mà là trách nhiệm của cả xã hội. Giảm dần sự chênh lệch trong giáo dục, chăm lo sức khỏe, trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, các tộc người. Tránh các gánh nặng về giáo dục, y tế cho các khu vực đô thị, trung tâm. Thực hiện đẩy mạnh xã hội hóa về giáo dục.

Thứ tư,làm rõ hệ giá trị con người Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử khác nhau và hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay. Nhận diện rõ các xu hướng biến đổi văn hóa trong xã hội để kịp thời có định hướng hợp lý, tránh chiều hướng tiêu cực, hoang mang, thậm chí mất phương hướng của một bộ phận người dân. Các bài học về giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị văn hóa cần được chuyển tải một cách sinh động, thiết thực hằng ngày để lan tỏa sâu rộng và thường xuyên trong xã hội. Tạo dựng giá trị văn hóa, bồi đắp tính nhân văn cho con người trên cơ sở nhìn nhận con người cần có sự hài hòa giữa ba mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, với chính bản thânvà vận hành các mối quan hệ này trên nền tảng nhân văn. Xây dựng cơ chế để lan tỏa những giá trị, những hành vi tốt đẹp, những gương người tốt, việc tốt để nêu gương và trau dồi văn hóa ứng xử của mọi người dân, đưa văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, hướng con người tới mục đích nhân văn và sự phát triển toàn diện.

Thứ năm,phát triển con người cần gắn với chăm lo và đề cao văn hóa gia đình, bởi gia đình là môi trường quan trọng tạo dựng và bồi dưỡng nhân cách, đạo đức, lối sống, thể lực, trí lực cho con người. Tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách cải cách tiền lương và bảo hiểm cho công chức, viên chức, người lao động, gia tăng nguồn lực đầu tư và đẩy mạnh hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội để chăm lo tốt hơn cho con người.

Hằng Nga

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề