Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản theo họ chỉ minh

Chủ nghĩa cộng sản Vs. Chủ nghĩa xã hội

Trong cả chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội, nhân dân làm chủ các yếu tố sản xuất kinh tế. Sự khác biệt chính là dưới chế độ cộng sản, hầu hết tài sản và nguồn lực kinh tế đều do nhà nước sở hữu và kiểm soát [thay vì các công dân cá nhân]; dưới chủ nghĩa xã hội, mọi công dân đều được chia sẻ bình đẳng về các nguồn lực kinh tế do một chính phủ được bầu cử dân chủ phân bổ. Sự khác biệt này và những thứ khác được nêu trong bảng dưới đây.

Chủ nghĩa cộng sản so với Chủ nghĩa xã hội
Thuộc tínhChủ nghĩa cộng sảnChủ nghĩa xã hội
Triết học cơ bảnTừ từng cái theo khả năng của mình, đến từng cái theo nhu cầu của mình.Từ từng cái theo khả năng của mình, đến từng cái theo sự đóng góp của mình.
Kinh tế lập kế hoạch bởiChính quyền trung ươngChính quyền trung ương
Quyền sở hữu các nguồn kinh tếTất cả các nguồn lực kinh tế đều thuộc sở hữu công khai và do chính phủ kiểm soát. Cá nhân không giữ tài sản cá nhân hoặc tài sản.Các cá nhân sở hữu tài sản riêng nhưng tất cả năng lực sản xuất và công nghiệp thuộc sở hữu của cộng đồng và được quản lý bởi một chính phủ được bầu cử dân chủ.
Phân phối sản xuất kinh tếSản xuất nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cơ bản của con người và được phân phối miễn phí cho người dân.Sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân và xã hội và được phân phối theo khả năng và sự đóng góp của cá nhân.
Phân biệt giai cấpGiai cấp bị xóa bỏ. Khả năng kiếm được nhiều hơn những người lao động khác gần như không có.Các lớp học tồn tại nhưng sự khác biệt ngày càng giảm. Một số người có thể kiếm được nhiều tiền hơn những người khác.
Tôn giáoTôn giáo bị xóa bỏ một cách hiệu quả.Được phép tự do tôn giáo.

Điểm tương đồng chính

Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội đều xuất phát từ sự phản đối cơ sở đối với việc bóc lột công nhân của các doanh nghiệp giàu có trong cuộc Cách mạng Công nghiệp . Cả hai đều giả định rằng tất cả hàng hóa và dịch vụ sẽ được sản xuất bởi các tổ chức hoặc tổ chức tập thể do chính phủ kiểm soát chứ không phải bởi các doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, chính quyền trung ương chịu trách nhiệm chính về tất cả các khía cạnh của kế hoạch kinh tế, bao gồm cả vấn đề cung và cầu .

Sự khác biệt chính

Dưới chế độ cộng sản, người dân được bồi thường hoặc cung cấp dựa trên nhu cầu của họ. Trong một xã hội cộng sản thuần túy, chính phủ cung cấp hầu hết hoặc tất cả thực phẩm, quần áo, nhà ở và các nhu cầu thiết yếu khác dựa trên những gì họ coi là nhu cầu của người dân. Chủ nghĩa xã hội dựa trên tiền đề người dân sẽ được bồi thường dựa trên mức độ đóng góp của từng cá nhân vào nền kinh tế. Vì vậy, nỗ lực và đổi mới được đền đáp dưới chủ nghĩa xã hội.

Điểm tương đồng của chủ nghĩa Xã Hội mà Chủ nghĩa Cộng sản

Chủ nghĩa xã hội [Socialism] và Chủ nghĩa cộng sản [Communism] đều bắt nguồn từ việc phản đối việc bóc lột, chế độ tư hữu của các địa chủ, các chủ doanh nghiệp giàu có trong cuộc cách mạng Công nghiệp. Chế độ ra đời nhằm phản ánh tình trạng làm việc quá sức, hết sức bóc lột người lao động thời đó, khi mà họ phải làm việc từ 12 đến 14h/1 ngày và 6 ngày/1 tuần.

Không những thường xuyên phải làm việc trong môi trường nghèo nàn mà người lao động khi đó còn làm việc trong điều kiện tệ hại như: không có các bữa trưa, thiếu sánh áng, điều kiện làm việc không an toàn, không có hệ thống thông gió, máy sưởi, máy móc thường xuyên bị hư hại,….

Để chống lại các vấn đề hết sức bóc lột của chủ nghĩa Tư bản, lý thuyết gia người Đức Karl MaxFriedrich Engels đã cho ra đời hình thái kinh tế xã hội và hệ thống tư tưởng chính trị mới: Chủ nghĩa Cộng sản.

Marx và Engels lên án, chỉ trích chế độ tư hữu, lạm dụng sức lao động của Chủ nghĩa tư bản khi đó và đưa ra giả thuyết rằng tầng lớp lao động [vô sản] cần đứng lên cầm quyền thay cho giới tư bản nhằm thiết lập trật tự xã hội mới, không còn một tư liệu sản xuất [ví dụ như: nhà máy, đất đai, máy móc…] nào là tư hữu. Tất cả đều là của chung, của cải vật chất làm ra sẽ được chia đều cho mọi người, hướng đến thiết lập một xã hội tự do, không có sự phân chia giai cấp, chủng tộc trong cộng đồng, hệ thống chính trị.

Nhà xưởng, máy móc không được tư hữu trong chế độ Cộng sản

Chủ nghĩa xã hội về lý thuyết thì giống với Chủ nghĩa Cộng sản trên vài phương diện, Chủ nghĩa Xã Hội hướng đến bình đẳng giai cấp trong xã hội, tạo ra một xã hội trật tự và thường nhấn mạnh các giá trị cơ bản như bình đẳng, công bằng, đoàn kết.

Khác nhau nổi bật giữa Chủ nghĩa Xã Hội và Chủ nghĩa Cộng sản

Cả hai hệ thống tư tưởng chính trị đều hướng đến không có sự phân chia giai cấp, tuy nhiên thì cả hai đều khác nhau trong những vấn đề cơ bản. Chủ nghĩa xã hội ít thiên tả hơn – quyền lực ít tập trung vào Chính phủ.

Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản luôn tồn tại những đặc trưng cơ bản khác biệt

Với Chủ nghĩa Cộng sản thì Chính phủ sẽ kiểm soát hoàn toàn tư liệu sản xuất và chia đều cho mọi người thì Chủ nghĩa Xã hội cho phép các hợp tác xã của công nhân được quyền quản lý máy móc, nhà xưởng. Lí do có sự khác biệt này là Chủ nghĩa Cộng sản thì chia đều của cải cho mọi người, trong khi đó thì Chủ nghĩa xã hội phân chia của cải dựa trên đóng góp, công sức của mỗi cá nhân vào trong xã hội.

Chủ nghĩa Cộng sản hướng đến tất cả nguồn lực kinh tế đều thuộc sở hữu công khai và do Chính phủ kiểm soát toàn bộ, không một ai được quyền tư hữu tài sản cá nhân, tất cả mọi người đều bình đẳng. Trong khi đó thì trong một Xã hội chủ nghĩa thì các cá nhân được quyền sở hữu tài sản riêng, nhưng tất cả các năng lực sản xuất [con người, cơ sở vật chất và quá trình quản lý, tổ chức sản xuất] thì thuộc sở hữu của cộng đồng và được quản lý bởi một Chính phủ được bầu ra một cách dân chủ.

Trong thực tế, việc hướng đến một Chủ nghĩa Cộng sản gần như là không tưởng, khi mà Chủ nghĩa Cộng sản thuần túy vẽ nên một bức tranh thiên đường nơi mà nguồn cung, tài nguyên, sản phẩm và phương thức sản xuất dồi dào, tiến bộ đến mức con người có quyền làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.

Cực kì khó để một xã hội đạt đến mức đó vì Chủ nghĩa Cộng sản đã bỏ qua những yếu tố tâm lý, sự lười biếng, lòng tham của con người. Đặt ví dụ như 100 người trong 1 xã hội và 99 người muốn hưởng thụ gấp đôi người khác, trong khi chỉ có 1 người lao động, không những tài nguyên không thể đáp ứng mà cả phương thức sản xuất tối tân cũng khó lòng đáp ứng được điều đó, dẫn đến không thể nào sản xuất ra được của cải, vật chất đáp ứng được nhu cầu của cả 100 người.

Sau cùng thì trong xã hội cộng sản các nhà quản lý sẽ lấy sản phẩm, thành quả chia đều cho mọi người một cách tùy tiện bất kể người lao động bỏ ra nhiều hay ít công sức, nhiều tầng lớp công nhân, lao động nhận ra điều đó và họ dần buông bỏ. Ngược lại thì Chủ nghĩa xã hội dựa trên tiền đề người dân sẽ được chia của cải dựa trên mức độ đóng góp của từng cá nhân vào nền kinh tế. Vì vậy, nỗ lực đóng góp, sự đổi mới của các cá nhân sẽ được hưởng thụ đúng với công sức họ góp vào nền kinh tế.

Chủ nghĩa Xã hội khuyến khích các cá nhân đóng góp công sức vào phát triển kinh tế

Ngày nay trên thế giới chỉ còn hai quốc gia duy nhất theo đuổi chủ nghĩa cộng sản là Bắc Hàn và Cuba. Trung Quốc và Việt Nam đã thực hiện nền kinh tế tư bản, tuy nhiên thì vẫn giữ trật tự chính trị theo Cộng sản. Một số nước tiên tiến đã áp dụng được đường lối của chủ nghĩa xã hội kết hợp với chủ nghĩa tư bản nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản và các phúc lợi của của chủ nghĩa xã hội như: Pháp, Anh, Thụy Điển,… giúp tạo động lực phát triển kinh tế, an tâm cho người dân.

Mục lục

  • 1 Từ nguyên
  • 2 Nguyên lý cơ bản
    • 2.1 Sở hữu
    • 2.2 Phân phối
    • 2.3 Giai cấp
    • 2.4 Nhà nước
  • 3 Lịch sử phong trào cộng sản
    • 3.1 Phong trào cộng sản ra đời
    • 3.2 Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra đời
    • 3.3 Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ
  • 4 Các trường phái lý luận cộng sản
    • 4.1 Chủ nghĩa Marx
      • 4.1.1 Nội dung
      • 4.1.2 Trong thực tiễn
    • 4.2 Chủ nghĩa Lenin
    • 4.3 Chủ nghĩa Stalin
    • 4.4 Chủ nghĩa Mao
    • 4.5 Chủ nghĩa cộng sản châu Âu
    • 4.6 Chủ nghĩa cộng sản Thiên chúa giáo
  • 5 Các đảng cộng sản tiêu biểu
  • 6 Đánh giá
    • 6.1 Tích cực
    • 6.2 Phê bình
  • 7 Thư mục
  • 8 Xem thêm
  • 9 Tham khảo
  • 10 Liên kết ngoài

Từ nguyên

Thuật ngữ "chủ nghĩa cộng sản" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung "共產主義 cộng sản chủ nghĩa". Thuật ngữ "cộng sản chủ nghĩa" trong tiếng Trung được vay mượn từ tiếng Nhật. Trong tiếng Nhật chủ nghĩa cộng sản được gọi là "kyōsan-shugi" [âm đọc được ghi bằng Rōmaji], khi viết được ghi lại bằng bốn chữ Hán là "共產主義" [âm Hán Việt: cộng sản chủ nghĩa, xem bài Kanji để biết thêm thông tin về việc dùng chữ Hán trong tiếng Nhật]. "共產主義" là từ người Nhật đặt ra để dịch từ tiếng Anh "communism".[5] Ý của hai chữ "共產 cộng sản" là "共有財產 cộng hữu tài sản" [tài sản thuộc về sở hữu chung].[6] Tiếng Trung Quốc vay mượn "共產主義" của tiếng Nhật nhưng không đọc bốn chữ Hán đó theo âm đọc của chúng trong tiếng Nhật mà đọc theo âm đọc của chúng trong tiếng Trung Quốc.[5]

Từ chủ nghĩa cộng sản trong tiếng Anh "communism" bắt nguồn từ tiếng Pháp "communisme" [trong tiếng Pháp có nghĩa là chủ nghĩa cộng sản].[7]

Nguyên lý cơ bản

Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý luận chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với các phong trào xã hội, phong trào chính trị rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ XIX, nở rộ và thoái trào trong thế kỷ XX - nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" không có biên giới quốc gia khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau. Tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra dồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Trong xã hội cộng sản, mỗi cá nhân được tự do phát huy mọi khả năng của mình theo triết lý "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người", tự do làm những điều không ảnh hưởng đến lợi ích và quyền tự do của người khác trên cơ sở tư liệu sản xuất chung để đảm bảo quyền tự do của tất cả mọi người. Các ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản đã có trước Marx từ rất lâu tại các nền văn minh khác nhau và được nhiều nhà tư tưởng đề cập đến. Có thể tìm thấy các ý tưởng này trong Công giáo, Đạo giáo, Nho giáo và nhiều tôn giáo khác. Marx là người đưa ra khả năng hiện thực hóa các ý tưởng đó trong tương lai dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra và xem đó như một sự tiến hóa của xã hội loài người.

Theo chủ nghĩa Marx thì trong lịch sử loài người đã và sẽ tuần tự xuất hiện 05 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao [các phân tích dưới đây dựa trên lịch sử châu Âu, ở các châu lục khác thì có thể sai biệt về niên đại hoặc thiếu hẳn 1 giai đoạn nào đó]:

  • Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản nguyên thủy [công xã nguyên thủy]: thời nguyên thủy lực lượng sản xuất rất thô sơ, lạc hậu, chủ yếu là săn bắt, hái lượm. Của cải vật chất thu được ít, bấp bênh, người kiếm được người thì không, do đó của cải đều là của chung và phải được phân chia đều giữa các thành viên bộ lạc để đảm bảo bộ lạc có thể duy trì sự tồn tại [đó chính là "cộng sản" thời nguyên thủy]. Quan hệ sản xuất đặc trưng: hợp tác sản xuất, công hữu tài sản trong mỗi bộ lạc.
  • Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ: với sự ra đời của nông nghiệp và chăn nuôi thời kỳ đầu [khoảng 6.000 năm trước], bắt đầu có của cải dôi dư. Bắt đầu xuất hiện một nhóm người muốn chiếm lấy phần dôi dư đó, từ đó hình thành tư hữu và quý tộc. Các bộ lạc cũng bắt đầu gây chiến với nhau để tranh giành của cải và nhân lực, kẻ thua bị bắt phải trồng trọt, chăn nuôi cho kẻ thắng, từ đó hình thành chiếm hữu nô lệ. Quan hệ sản xuất đặc trưng: Chủ nô - nô lệ phục vụ không công cho chủ nô.
  • Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến: trình độ nông nghiệp và chăn nuôi phát triển hơn, đến cách đây khoảng 1800 năm, hình thức chiếm hữu nô lệ không đảm bảo năng suất cao như hình thức địa chủ - nông nô [do nông nô được giữ lại một phần sản phẩm cho mình nên sẽ có động lực lao động cao hơn nô lệ], đồng thời nô lệ bị áp bức mạnh hơn nên cũng dễ nổi loạn hơn nông nô. Chế độ chiếm hữu nô lệ dần biến mất, thay vào đó là phong kiến với các lãnh chúa cai quản nông dân. Quan hệ sản xuất đặc trưng: Địa chủ, lãnh chúa - nông dân canh tác và nộp địa tô cho địa chủ, lãnh chúa.
  • Hình thái kinh tế-xã hội chủ nghĩa tư bản: với sự ra đời của công nghiệp [từ thế kỷ XVI], của cải vật chất làm ra dần vượt xa nông nghiệp và chăn nuôi. Nhờ tích lũy được của cải, thế lực của các chủ xưởng công nghiệp ngày càng cao, dần lấn át cả địa chủ và vua chúa phong kiến. Giai cấp tư bản dần dần không chịu quy phục các lãnh chúa phong kiến, họ tiến hành các cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, thay thế vào đó là hình thái tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất đặc trưng: Chủ tư bản - công nhân làm thuê cho chủ tư bản.
  • Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa: hình thái này chưa tồn tại. Theo Marx, khi lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển, tất yếu dẫn tới nền sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa do nó đòi hỏi sự hợp tác của nhiều người khiến tư hữu mất vai trò đối với lực lượng sản xuất, thay vào đó lực lượng sản xuất cần được quản lý vì lợi ích xã hội. Theo Marx: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên"[8] Quan hệ sản xuất đặc trưng: quan hệ hợp tác sản xuất bình đẳng với nhau, lực lượng sản xuất được quản lý vì lợi ích của xã hội.

Ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa tự do với mục tiêu giải phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân đạo của nó, học thuyết này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của thế giới trong thế kỷ XX, tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc đấu tranh của nó là một nhân tố chủ đạo trong lịch sử loài người trong thế kỷ XX.[9] Tuy vậy, xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn nhà nước, quân đội, tư hữu, giai cấp, tôn giáo, xóa bỏ các mâu thuẫn sắc tộc đến nay vẫn chỉ là lý tưởng đẹp, chưa trở thành hiện thực.

Theo Marx, một con người sống ở thời đại của một hình thái kinh tế-xã hội cũ sẽ rất khó hình dung hình thái kinh tế-xã hội mới sẽ ra sao, họ thường không tin xã hội loài người sẽ biến chuyển sâu sắc như vậy [ví dụ: một người sống ở thời phong kiến thế kỷ XVI sẽ cho rằng một xã hội không có vua chúa chỉ là chuyện hoang đường, nhưng 400 năm sau điều đó đã trở thành sự thực ở đa số các nước trên thế giới]. Cũng như vậy, vào thời của Marx, người ta chưa thể mường tượng một xã hội không có các ông chủ tư bản sẽ tổ chức sản xuất ra sao, và làm thế nào mà mọi công dân đều có thể hưởng các phúc lợi xã hội [giáo dục, y tế, nhà ở, ăn mặc...] một cách miễn phí. Nhiều người nghĩ mô hình do Marx tiên đoán chỉ là viển vông. Nhưng đến đầu thế kỷ XXI thì những yếu tố ban đầu đã có thể nhận thấy: các công ty cổ phần ngày càng chiếm ưu thế so với công ty một chủ sở hữu, các công nghệ mới như robot, tin học, nano, lượng tử... bắt đầu hình thành. Khi được nghiên cứu hoàn chỉnh, các công nghệ mới sẽ đẩy khả năng sản xuất lên rất cao, vượt xa nền sản xuất công nghiệp truyền thống trong khi chi phí sản xuất sẽ rất rẻ [Ví dụ: chỉ cần 1 nhóm vài người, với sự trợ giúp của robot tự động có thể làm ra lượng sản phẩm tương đương hàng vạn công nhân hiện nay; hoặc một lít nước có thể tạo ra năng lượng bằng hàng triệu tấn than thông qua phản ứng hợp hạch nhân tạo]. Do sản lượng rất lớn và chi phí ngày càng thấp, các mặt hàng cơ bản sẽ được giảm giá tới mức chúng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng thu nhập của người lao động. Khi đó một người lao động không cần bỏ nhiều công sức cũng có thể nuôi sống cả gia đình ở mức sung túc.

Bên cạnh đó người lao động cũng có thể sở hữu cổ phần của chính công ty mình đang làm việc. Đồng thời hoạt động quản trị công ty cổ phần cũng bị tách ra khỏi quyền sở hữu của cổ đông. Đó chính là bằng chứng cho thấy tư bản ngày càng mang tính xã hội, do đó cần được quản trị chuyên nghiệp khiến nhà tư bản mất khả năng kiểm soát đối với lực lượng sản xuất. Đó là quá trình "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa" mà Marx tiên đoán. Tuy nhiên sự tách rời giữa sở hữu và quản trị cũng tạo ra xung đột lợi ích giữa ban quản trị và cổ đông được gọi là vấn đề ông chủ và người đại diện [agency problem] ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong mô hình kinh tế Stalinist, các công ty nhà nước cũng gặp vấn đề này khi nhà nước là chủ sở hữu tư liệu sản xuất còn những người trực tiếp quản lý không sở hữu tư liệu sản xuất do đó có lợi ích khác với nhà nước. Giải pháp cho vấn đề này là tăng cường giám sát thông tin, chủ sở hữu nắm quyền kiểm soát và tăng quyền lợi cho ban quản trị.

Sở hữu

Trong xã hội cộng sản không còn sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, không còn sự phân phối thu nhập xã hội dựa trên lao động, không còn sự tha hóa của lao động là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Con người được giải phóng khỏi phân công lao động do nền sản xuất công nghiệp tạo ra để phát huy hết sở trường của mình. Đặc điểm khác biệt của chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội chỉ đạt mục đích tư liệu sản xuất thuộc về toàn dân thông qua Nhà nước quản lý, [hay hình thức sở hữu tập thể, hợp tác, công xã hoặc sở hữu xã hội hóa - quản lý kiểu vô chính phủ], còn không hướng đến sự xóa bỏ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xóa bỏ sự phân phối thu nhập xã hội theo lao động.

Phân phối

Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa nền sản xuất chưa phát triển đến mức đủ sức thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi thành viên trong xã hội nên nguyên tắc phân phối của cải trong chủ nghĩa xã hội là "Làm theo năng lực, hưởng theo lao động"[10] có nghĩa là làm đúng với khả năng, và được hưởng theo đúng đóng góp cho xã hội. Do có sự chênh lệch kỹ năng, trí tuệ, thể lực giữa các thành viên trong xã hội nên sẽ có sự bất bình đẳng trong phân phối của cải xã hội. Sự bất bình đẳng của cải sẽ được xóa bỏ khi lực lượng sản xuất phát triển cao đủ sức thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi người. Việc phân phối thu nhập xã hội theo lao động bị thay thế bằng phân phối theo nhu cầu. Theo Marx "Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng đang chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.[11]".

Giai cấp

Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa, vẫn còn có sự phân công lao động do đó vẫn tồn tại giai cấp theo phân công lao động là công nhân và nông dân, và tầng lớp trí thức. Sự phát triển của trình độ sản xuất sẽ dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất, đưa đến sự xóa nhòa giai cấp, và xóa nhòa ranh giới lao động trí óc - chân tay. Sau khi giành được chính quyền, quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất, giai cấp vô sản công nông tự tổ chức xã hội mới, xây dựng con người mới có đủ trình độ, ý thức để làm chủ xã hội, có trách nhiệm với xã hội, với cộng đồng trên tình thân ái, giúp đỡ lẫn nhau, với tư liệu sản xuất chung, dần xóa nhòa ranh giới giàu - nghèo trên tinh thần cộng đồng, bác ái, bằng lao động chân chính [chứ không phải người nghèo "nhận bố thí" của người giàu trong các mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu an sinh hay thiện nguyện]. Cách mạng xây dựng xã hội mới thông qua lao động mà Lenin cho rằng "Đó là bước đầu của một cuộc cách mạng khó khăn hơn, căn bản hơn, triệt để hơn, quyết liệt hơn là việc lật đổ giai cấp tư sản, vì đó là một thắng lợi đối với bệnh thủ cựu của chúng ta, đối với tình trạng lơi lỏng của chúng ta, đối với bệnh ích kỷ tiểu tư sản của chúng ta, đối với những tập quán của chủ nghĩa tư bản tệ hại đã để lại cho công nhân và nông dân[12]".

Nhà nước

Theo phương pháp luận của Marx [duy vật lịch sử] thì khi xóa bỏ giai cấp và tư hữu, thì Nhà nước tự diệt vong, vì cơ sở tồn tại của nó là tư hữu và giai cấp không còn nữa. Lúc đó chế độ cộng sản được xây dựng dựa trên nền tảng sở hữu công cộng và làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Lenin cũng cho rằng "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được."[13] Chính vì thế theo Lenin "Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo lực, nói chung, đối với con người. Chúng ta không mong có một chế độ xã hội mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số sẽ không được tuân theo. Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói chung sẽ không còn cần thiết phải dùng bạo lực đối với con người, không cần thiết phải buộc người này phục tùng người khác, bộ phận dân cư này phục tùng bộ phận dân cư khác, vì người ta sẽ quen tuân theo những điều kiện thông thường của đời sống tập thể, mà không cần có bạo lực và không cần có phục tùng".[13]

Lenin quan niệm chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản, là giai đoạn chuyển tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản mà ở đó vẫn còn nhà nước để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Vai trò nhà nước và pháp luật mờ dần đi khi nhân dân tự gánh vác các công việc xã hội, điều hòa lợi ích, giảm thiểu mâu thuẫn, trên cơ sở tư liệu sản xuất chung, phân phối công bằng và đầy đủ, thỏa mãn. Giai cấp vô sản giành quyền lực trên toàn thế giới, giai cấp vô sản các nước tiên tiến hơn giúp đỡ giai cấp vô sản các nước lạc hậu hơn tiến kịp. Như vậy cùng với sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cộng sản trong mỗi nước, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới là sự nghiệp chung của vô sản toàn nhân loại. Khi các nước hoàn thành xây dựng chủ nghĩa cộng sản, toàn bộ Nhà nước và hệ thống pháp luật trên toàn thế giới không còn cần thiết nữa, các quốc gia biến mất. Chủ nghĩa đại đồng cũng là để bảo đảm công bằng chiếm hữu tài nguyên của các dân tộc khác nhau trên toàn thế giới, và triệt tiêu chủ nghĩa đế quốc.

NộI Dung:

Có một số hệ thống chính trị phổ biến ở các quốc gia khác nhau trên thế giới. Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là hai hệ thống kinh tế như vậy, thường được nhân dân đặt cạnh nhau. Trong khi chủ nghĩa cộng sản được mô tả như một hệ thống tổ chức xã hội, nơi cộng đồng sở hữu tài sản và mỗi cá nhân đóng góp và nhận của cải theo nhu cầu và khả năng của họ.

Mặt khác, Chủ nghĩa xã hội là một lý thuyết kinh tế, trong đó các phương tiện sản xuất, phân phối và trao đổi thuộc sở hữu và kiểm soát của toàn xã hội. Phân phối của cải trong chủ nghĩa xã hội được thực hiện dựa trên những nỗ lực và đóng góp. Ở đây bạn nên biết rằng Chủ nghĩa cộng sản là một tập hợp con của chủ nghĩa xã hội. Chỉ cần đọc bài báo này để biết những khác biệt quan trọng giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội.

Chỉ cần đọc bài báo này để biết những khác biệt quan trọng giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội.


Bàn luận về bản chất của chủ nghĩa xã hội qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

[ĐCSVN] - Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có tầm khái quát cao về lý luận, thực tiễn và những định hướng đặt ra cần bổ sung, phát triển tiếp tục làm rõ lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ngày 16 tháng 5 năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết của Tổng Bí thư có kết cấu, cách tiếp cận nội dung rất cơ bản, hệ thống và khoa học, đã đặt ra và giải đáp một số nội dung: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? Tôi rất tâm đắc với các nội dung thể hiện trong bài viết có tầm khái quát cao về lý luận, thực tiễn và những định hướng đặt ra cần bổ sung, phát triển tiếp tục làm rõ lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở phạm vi bài viết của mình chỉ góp phần tập trung bàn luận về bản chất của chủ nghĩa xã hội qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua. Ảnh minh họa. Ảnh: Việt Hà

Thứ nhất, bài viết sử dụng phương pháp so sánh bản chất giữa chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa với chủ nghĩa xã hội. Theo đó chỉ rõ, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, những bất công xã hội và đời sống của đa số dân cư lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa chỉ là vì lợi nhuận của giai cấp tư sản. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Tổng Bí thư đã phân tích, khẳng định các cuộc khủng hoảng hiện nay chỉ làm trầm trọng thêm mâu thuẫn vốn có và không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa. Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa.

Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đó là yếu tố bản chất nhất để so sánh sự khác nhau giữa chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Hệ thống quyền lực ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn chủ yếu thuộc về giai cấp tư sản [thiểu số giàu có] và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của Nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản và quyền lực của Nhân dân lao động chỉ là lý thuyết.

Thứ hai, khẳng định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Tổng Bí thư đã khẳng định bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xây dựng dựa trên học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự vì lợi ích của Nhân dân lao động.

Thứ ba, bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ. Tổng Bí thư cho rằng đó là “sự sáng tạo của Đảng ta”, vì kinh tế thị trường là giá trị chung của nhân loại, chứ không phải là giá trị riêng của giai cấp tư sản và chủ nghĩa xã hội kế thừa giá trị nhân loại để phát triển hơn là hợp quy luật khách quan.

Thứ tư, về bản chất chính trị của xã hội XHCN mà Việt Nam xây dựng là xã hội của dân, do dân, vì dân và quyền lực thuộc về Nhân dân. Tổng Bí thư khẳng định: “Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân là chủ”. Hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản là: “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân”. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Thứ năm, về bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội phát triển hài hòa, tiến bộ, công bằng vì con người. Trong bài viết Tổng Bí thư đã khẳng định ở những nước tư bản thường diễn ra: Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội… Còn ở nước ta thường xuyên đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa cho Nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Sự khác biệt rất cơ bản giữa bản chất xã hội của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với chủ nghĩa tư bản là: chúng ta không chạy theo kinh tế đơn thuần và bằng mọi giá mà luôn luôn gắn kết hài hòa với yếu tố xã hội, bảo đảm lợi ích chân chính của Nhân dân lao động. Sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Việt Nam chưa phải là nước giàu, đang ở giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng thu hẹp, bình đẳng và công bằng xã hội ngày càng được tăng cường. Hiện tượng cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm được xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Mỗi chính sách kinh tế của Đảng là gắn với chính sách xã hội, coi trọng và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vì một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn và vì khuyến khích Nhân dân làm giàu.

Trong xã hội con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Phát triển giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Chúng ta luôn luôn chăm lo thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam…

Thứ sáu, thực tiễn chứng minh bản chất ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng. Trong bài viết Tổng Bí thư đã đưa ra dẫn chứng thực tế, với kết quả “Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó đáng chú ý: Về kinh tế, trước Đổi mới [năm 1986], Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Sau chiến tranh, Mỹ và các nước phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong gần 20 năm… Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đôla Mỹ [USD], trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Về xã hội, hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của Nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều [tiêu chí cao hơn trước].

Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng.

Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người [HDI] của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được Nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống Nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

Cuối bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đã nhận định: Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Đảng ta đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi…

Thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện tập trung ở giải trình bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Tổng Bí thư trong bài viết. Đó là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của Nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kiên định với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực, uy tín để tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thành tựu mà đất nước đạt được trong 35 năm đổi mới đã chứng minh đường lối lãnh đạo của Đảng ta là đúng đắn, không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, tiếp tục chỉ đạo nhiệm vụ quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong đời sống. Những nội dung cơ bản của bài viết cần tiếp tục được nghiên cứu, luận giải, làm cơ sở cho quá trình quán triệt, tổ chức thực hiện. Đường lối, quan điểm của Đảng chỉ trở thành lực lượng vật chất khi được thâm nhập, quán triệt sâu sắc và tổ chức trong hoạt động thực tiễn ở mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Chúng ta tin tưởng rằng, với trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo công cuộc đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng; khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hùng cường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của Nhân dân sẽ trở thành hiện thực.

Đại tá, PGS TS Lưu Ngọc Khải, VKHXH&NVQS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề