Sử dụng hợp lý các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể

Theo Cục Di sản Văn hóa [Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch], năm 2001, lần đầu tiên loại hình di sản văn hóa phi vật thể chính thức được quy định trong Luật Di sản văn hóa, tạo bước chuyển biến lớn trong nhận thức của toàn xã hội về di sản văn hóa phi vật thể. Thực hiện Luật Di sản văn hóa, cả nước có trên 410 di sản được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia, một số di sản được UNESCO ghi danh.

Một buổi sinh hoạt của CLB Đờn ca tài tử xã Hiệp Thành, TP. Bạc Liêu trong vườn nhãn trăm tuổi ở Bạc Liêu. Ảnh tư liệu: Minh Đức/TTXVN

Tạo sức sống mới cho di sản

Tại khu vực Nam Bộ, quá trình khai phá và định cư ở vùng đất phương Nam, các bậc tiền nhân đã để lại kho tàng di sản văn hóa, trong đó có nhiều di sản văn hóa phi vật thể, in đậm dấu ấn tự nhiên và lịch sử của vùng đất.

Di sản văn hóa phi vật thể ở các địa phương khu vực phía Nam gồm nhiều loại hình từ tiếng nói, chữ viết, ngữ văn dân gian, lễ hội truyền thống, nghệ thuật trình diễn dân gian, nghề thủ công truyền thống đến phong tục, tập quán xã hội và tín ngưỡng, tri thức dân gian. Tiêu biểu là các di sản: Đờn ca tài tử Nam Bộ -Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Lễ hội vía Bà Chúa Xứ ở tỉnh An Giang, Lễ hội truyền thống Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở Kiên Giang, nghề làm sơn mài Tương Bình Hiệp, Bình Dương, nghề đóng xuồng ghe ở huyện Lai Vung, Đồng Tháp hay văn hóa Chợ nổi Cái Răng, thành phố Cần Thơ, nghề gác kèo ong, muối ba khía ở Cà Mau.

Tại các địa phương, nhiều di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích lịch sử, văn hóa đã trở thành sản phẩm du lịch thu hút khách trong và ngoài nước, tạo nên thương hiệu, dấu ấn riêng của địa phương có di sản như: Lễ hội Đua ghe ngo Sóc Trăng, Lễ hội Bà Chúa Xứ An Giang, Lễ hội Ook om bok Trà Vinh, Lễ hội Kate hay Gốm Chăm ở Bàu Trúc ở Ninh Thuận.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chính quyền các địa phương đã quan tâm công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể, góp phần nhận diện giá trị của kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, nhờ nhận diện được hiện trạng, sức sống của di sản để triển khai kịp thời đề án, dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã ngăn chặn nguy cơ mai một, thất truyền, góp phần tích cực trong bảo vệ bản sắc văn hóa tộc người. Các di sản văn hóa phi vật thể được sưu tầm nghiên cứu, phục dựng, trao truyền, tổ chức trình diễn thời gian qua đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở và phát triển kinh tế-xã hội địa phương.

Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Tháp Nguyễn Ngọc Thương cho biết, địa phương hiện có trên 20 di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình nghề thủ công truyền thống, lễ hội, trình diễn dân gian và ngữ văn dân gian, trong đó có một số di sản được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia là Nghề dệt chiếu ở các xã Định An, Định Yên [huyện Lấp Vò], nghề đóng xuồng, ghe ở xã Long Hậu, huyện Lai Vung và nghệ thuật trình diễn dân gian hò Đồng Tháp. Cùng với các tỉnh, thành phía Nam, Đồng Tháp còn có nghệ thuật đờn ca tài tử - Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Bảo tồn gắn với tạo sức sống mới cho di sản, lan tỏa việc thực hành di sản trong cộng đồng, Đồng Tháp đã triển khai nhiều hoạt động nhằm phát huy giá trị nghệ thuật đờn ca tài tử và hò Đồng Tháp. Tỉnh nhân rộng mô hình các câu lạc bộ đờn ca tài tử, hò Đồng Tháp, thường xuyên tổ chức liên hoan, trình diễn, từng bước đưa hai loại hình nghệ thuật này vào chương trình giáo dục trong hệ thống trường Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông, Cao đẳng và Đại học trên địa bàn tỉnh. Đồng Tháp phát động sáng tác lời mới cho 20 bản tổ của Nhạc tài tử Nam Bộ và hò Đồng Tháp, đồng thời xây dựng hai loại hình nghệ thuật này trở thành sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng. Tỉnh phấn đấu giai đoạn 2024-2025, có 50-70% xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành lập Câu lạc bộ đờn ca tài tử và hò Đồng Tháp cấp xã.

Đại diện Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Kiên Giang cho biết, tỉnh có hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể khá phong phú. Tỉnh quan tâm xây dựng nhiều đề án bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể phục vụ các hoạt động mang lại lợi ích kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân và đối ngoại văn hóa. Tỉnh đã kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Kinh, Khmer và Hoa tại 139 xã, phường, thị trấn thuộc 15 huyện, thành phố trong tỉnh. Hiện nay, Kiên Giang có di sản phi vật thể thuộc các loại hình là lễ hội truyền thống, nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán xã hội, tiếng nói, chữ viết các dân tộc, ngữ văn dân gian, tri thức dân gian và nghề thủ công truyền thống. Trong đó, ngoài di sản nghệ thuật đờn ca tài tử cùng sở hữu với các tỉnh, thành khu vực Nam Bộ, Kiên Giang có di sản nghề làm nước mắm Phú Quốc được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia, Lễ hội đình thần Nguyễn Trung Trực - thành phố Rạch Giá đang được lập hồ sơ đề nghị công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia.

Kiên Giang triển khai Đề án bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ tỉnh, giai đoạn 2018-2020, tiếp tục thực hiện Đề án giai đoạn 2021-2025 với trên 150 câu lạc bộ đờn ca tài tử, nhiều tổ, nhóm nhỏ, thường xuyên sinh hoạt. Mới đây nhất, tại Liên hoan nghệ thuật đờn ca tài tử quốc gia năm 2022 diễn ra vào cuối tháng 4/2022, tại thành phố Cần Thơ, hoạt động trưng bày và trình diễn không gian đờn ca tài tử của đoàn nghệ nhân tỉnh Kiên Giang đã giành được Huy chương Vàng.

Cần tháo gỡ khó khăn

Giải đua ghe Ngo và tuần lễ hội Óc Om Bóc - Đua ghe Ngo của đồng bào Khmer năm 2020.

Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương, hiện nay, thách thức lớn nhất mà hầu hết các di sản văn hóa phi vật thể đều phải đối diện đó là có một bộ phận giới trẻ chưa cảm nhận hết giá trị của di sản do bị ảnh hưởng bởi các trào lưu mới nên ít tìm thấy sự say mê để theo học, thực hành. Trong khi đó, các nghệ nhân cao tuổi ngày càng già yếu, nhiều người đã mất, chưa kịp truyền thụ cho thế hệ trẻ. Một số địa phương, do điều kiện còn hạn chế, nên chưa có chính sách đãi ngộ mức độ cao đối với nghệ nhân để họ yên tâm thực hành nghề.

Từ thực tế ở địa phương, Nhạc sỹ Phạm Đắc Hiến, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Bình Dương chia sẻ, một trong những khó khăn cơ bản nhất đối với việc bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống nói chung, di sản văn hóa phi vật thể đờn ca tài tử nói riêng là đội ngũ những người đam mê, am hiểu nghệ thuật truyền thống ngày càng lớn tuổi, tức là lớp “tre” đã già nhưng lớp “măng” quá ít hoặc chưa có. Do đó, cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc đến giới trẻ để ngày càng nhiều người trẻ yêu các loại hình nghệ thuật dân tộc...

Đại diện Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Kiên Giang cho hay, di sản văn hóa phi vật thể là loại hình văn hóa được trao truyền chủ yếu bằng hình thức truyền miệng nên việc sưu tầm và thực hành di sản ở cơ sở còn gặp nhiều khó khăn. Một số địa phương chưa có kế hoạch cụ thể trong công tác bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Đội ngũ cán bộ, công chức văn hóa cơ sở phải kiêm nhiệm và phụ trách nhiều lĩnh vực cùng lúc nên việc nghiên cứu các văn bản quản lý Nhà nước nói chung và quy định của Luật Di sản văn hóa nói riêng chưa sâu sát.

Hiện nay, mô hình quản lý văn hóa cấp xã, phường còn thiếu sự thống nhất về chức năng, chế độ, chính sách, nội dung và kinh phí hoạt động cho công tác này do đó gặp nhiều khó khăn.

Trước thực tế này, tỉnh Kiên Giang kiến nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng kế hoạch hỗ trợ các tỉnh, thành phố đào tạo, bồi dưỡng, từng bước chuẩn hóa trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người tham gia hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của từng loại thiết chế văn hóa, thể thao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; tổ chức lớp bồi dưỡng, chuyên môn cho công chức phụ trách công tác quản lý nhà nước về hoạt động di sản văn hóa ở địa phương. Các cấp, ngành liên quan xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn để kêu gọi đầu tư, khai thác các giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn với đầu tư phát triển du lịch, làm cơ sở pháp lý cho địa phương áp dụng thực hiện đạt hiệu quả cao hơn, qua đó góp phần phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn.

Theo TTXVN

Trong hàng chục nghìn di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh của nước ta, đã có 85 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, 3.329 di tích xếp hạng di tích quốc gia và 9.857 di tích cấp tỉnh. Cho đến nay, đã có tám di sản vật thể và danh thắng được công nhận Di sản thế giới là: Quần thể di tích Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Khu di tích Mỹ Sơn, Khu phố cổ Hội An, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành Nhà Hồ, Khu danh thắng Tràng An. Kho tàng di sản văn hóa Việt Nam còn bao gồm các di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu như các phong tục, tập quán, lễ hội, nghệ thuật diễn xướng, các ngành nghề thủ công truyền thống, những giá trị nổi trội về y dược cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam... Đã có 11 di sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Lễ hội Đền Gióng, Hát Xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Đàn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh, Kéo co, Tín ngưỡng thờ Tam Phủ.

Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể Việt Nam đã trở thành nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng quý giá để phát triển du lịch bền vững khi Nhà nước chủ trương phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong những năm qua, di sản văn hóa luôn luôn có vai trò tích cực trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa và giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Tiềm năng của các di sản văn hóa đã và đang phát huy mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Doanh thu du lịch thông qua bán vé các loại hình dịch vụ tại các điểm du lịch có Di sản văn hóa thế giới ngày càng tăng, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân. Theo thông tin từ Cục Di sản văn hóa [Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch] quần thể di tích Cố đô Huế có doanh thu từ năm 2012 đến 2015 tăng gấp đôi, từ 104 tỷ đồng lên 207 tỷ đồng. Trong khi đó, ở quần thể danh thắng Tràng An, doanh thu từ 355 tỷ đồng năm 2012 đã tăng lên 410 tỷ đồng trong năm 2015... Hiện tại, hầu hết các địa phương đều xác định thế mạnh của các di sản văn hóa để xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng và nhiều nơi đã tạo thành những thương hiệu nổi tiếng: Khu vực miền trung có thương hiệu “Con đường di sản”; các tỉnh Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam có thương hiệu sản phẩm du lịch “Tinh hoa Việt Nam” hội tụ các sản phẩm du lịch đặc sắc nhất tại khu vực, bao gồm lịch sử văn hóa, các di sản, thiên nhiên, biển đảo và thành phố; Quảng Nam xây dựng hình ảnh “Quảng Nam - Điểm đến hai di sản thế giới”. Thành phố Hội An có thương hiệu gắn với làng nghề thông qua Lễ hội đèn lồng; Thừa Thiên - Huế có sản phẩm du lịch “Festival Huế” từ nhiều năm nay; Quảng Ninh có lễ hội đường phố Các-na-van Hạ Long; Hải Phòng có Lễ hội hoa phượng đỏ... Các tua, tuyến du lịch lên các tỉnh vùng cao Tây Bắc, Việt Bắc cũng ngày càng phát triển.

Việc xác định và xây dựng thương hiệu du lịch các địa phương từ di sản văn hóa đã thật sự tạo nên sự khác biệt hấp dẫn cho từng địa phương. Năm 2016, nước ta đã đón mười triệu lượt khách du lịch quốc tế và hàng chục triệu lượt khách du lịch trong nước, trong đó lượng khách du lịch tham quan di tích và dự các lễ hội di sản chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên, việc khai thác các giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch bền vững vẫn còn nhiều hạn chế. Những hạn chế chung thường gặp của du lịch Việt Nam là cơ sở hạ tầng du lịch yếu kém, tình trạng xâm hại cảnh quan; môi trường sinh thái và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa bảo đảm; chất lượng nguồn nhân lực du lịch, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên còn yếu; việc khai thác thế mạnh, tiềm năng di sản chưa đạt hiệu quả cao. Sản phẩm du lịch di sản còn thiếu tính đặc sắc, đơn điệu, chủ yếu mới phát huy những yếu tố lợi thế sẵn có, ít tính sáng tạo, do vậy giá trị còn thấp.

Trong lúc thiếu sự đầu tư, sáng tạo để phát huy giá trị của di sản phục vụ du lịch thì một vấn đề cấp bách đang đặt ra là phải bảo vệ, giữ gìn kho tàng di sản văn hóa trước tác động của thiên nhiên và con người. Hà Nội có 5.847 di tích thì đã có 2.000 di tích xuống cấp, trong đó có hơn 200 di tích xuống cấp nghiêm trọng. Ngay cả quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, song vẫn còn khoảng 400 di tích đang ở trong tình trạng hư hỏng, đổ nát. Biểu tượng văn hóa lâu đời của phố cổ Hội An là chùa Cầu hiện có nhiều vết nứt, các lớp vữa trên mố cầu bong tróc và hằng ngày vẫn phải đón hàng nghìn người dân và du khách qua lại. Trong khi đó, nhiều công trình xây mới đã phá vỡ cảnh quan, môi trường di sản, thậm chí có cả những vi phạm ở chùa Hương, Yên Tử... Lễ hội truyền thống dân tộc dịp đầu Xuân thu hút rất đông khách đã khiến các di tích quá tải và chịu tác động tiêu cực.

Trước thực trạng đó, ngành du lịch phải có trách nhiệm phối hợp các cơ quan chức năng, các địa phương góp sức vào việc bảo tồn di sản văn hóa, đưa vào khai thác những nguồn tài nguyên du lịch nhân văn quý giá một cách hợp lý, không tận thu tài nguyên, gây xâm hại di tích.

Video liên quan

Chủ Đề