Loại chữ cổ nhất của người Trung Quốc là gì?

Chữ viết của người Trung Quốc thường được gọi là Hán Tự hay chữ Hán, người Việt ta hay gọi là chữ Nho. Các nhà nghiên cứu chữ Hán cho rằng chữ viết của người Trung Quốc bắt đầu hình thành tờ thời Phục Hy [hay Bào Hy], một nhân vật truyền thuyết trong lịch sử Trung Quốc. Theo truyền thuyết ông là người sáng tạo ra hệ thống Bát Quái bằng một nét liền [-] đại diện cho Dương và một nét đứt [--] đại diện cho Âm. Kết hợp hai nét lại để ghi nhận và truyền lại các hiện tượng trong trời đất. Đến thời họ Thần Nông người ta dùng dây thừng thắt nút gọi là “kết thằng” để ghi nhớ sự việc và cai trị thiên hạ. Kiểu kết thằng này được xem là một hệ thống chữ viết thô sơ tiếp theo sau hệ thống Bát Quái của Phục Hy.

Đến thời Hoàng Đế  [2697 – 2598 TCN] người ta cho rằng vị sử quan Thương Hiệt đã bắt chướt hình dạng của dấu chân chim mà sáng tạo ra chữ viết. Hình thể của chữ viết đó ra sao thì ngày nay vẫn chưa tìm thấy dấu tích nhưng người ta gọi hệ thống chữ viết này là Chữ Khoa Đẩu. 

Đầu thế kỷ X các nhà khảo cổ phát hiện hệ thống chữ viết xưa trên xương cốt, mai rùa mà nội dung của nói liên quan đến việc bói toán [bốc] có niên đại thuộc nhà Thương [sau đổi tên thành nhà Ân] chữ viết lên xương cốt gọi là Giáp Cốt Văn. Các nhà khảo cổ còn phát hiện các chữ viết được viết trên các chuông vạc bằng đồng thời nhà Chu gọi là Chung Đỉnh Văn.

Ban đầu chữ viết chỉ dùng để mô tả hình tượng nên gọi là Văn, tức là hình thức bề ngoài. Về sau bổ sung thêm hình thức ghi nhận thanh [thanh điệu] trong chữ viết nên gọi là Tự. Chữ viết từ đó sinh ra nhiều từ mới và phát triển bằng hệ thống hình thanh. Chữ viết lúc bấy giờ được viết lên thẻ tre, lụa gọi là Thư.

Thời Chu hệ thống chữ viết của người Trung Quốc đã phát triển hoàn thiện nhưng số lượng từ vựng không nhiều quá 2.500 chữ. Ngày nay số từ vựng đã có vài chục ngàn.

Đời Chu người ta viết chữ lên gỗ hoặc thẻ tre [簡書 giản thư], giai đoạn Xuân Thu hệ thống chữ Khoa Đẩu đã phát triển toàn diện thành chữ Triện hay Đại Triện [cũng gọi là triện thư ]. Tương truyền chữ Triện do thái sư Trự đặt ra vào thời Chu Tuyên Vương [827 – 782] nên còn gọi là Trụ Văn hay Trự Thư.

Sang thời Chiến quốc người Trung Quốc  dùng sơn viết lên vải lụa mà hình thành chữ Lệ hay còn gọi là chữa Đãi [Đãi thư ]. Cũng có người cho rằng chữ Lệ do Trịnh Mạc [程邈] đời Tần Thủy Hoàng đặt ra.

Đến khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, tương tuyền Tần Thủy Hoàng [246 đến  210 TCN] sai Thừa Tướng Lý Tư thống nhất chữ viết dựa trên chữ Triện của nhà Chu [Đại Triện 大篆] mà thành chữ triện của nhà Tần [gọi là tiểu triện 小篆] Nhưng cũng có người nói rằng chữ Tiểu Triện đã có trước khi có nhà Tần. Thuyết thứ hai phù hợp hơn vì triều Tần kéo dài không lâu [chỉ có  36 năm] nên không thể tạo ra một kiểu chữ viết và dùng rộng rãi cho toàn một nước rộng lớn như Trung Quốc được.

Sang thời Hán bút lông ra đời, chữ viết bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Từ chữ Lệ thành chữ Khải [khải thư ] được dùng phổ biết nhất đến ngày nay. Vì vậy mà chữ viết của người Trung Quốc ngày nay còn gọi là Hán Tự.

Vào thời Tam Quốc, Thái Ung đặt ra chữ Bát Phân [8 phần Lệ, 2 phần Chân]

Đến thời Hậu Hán, Trương Chi sáng tạo ra Thảo Thư 草書 để viết tháo, viết nhanh. Lưu Bá Thăng sáng tạo ra lối hành thư 行書 nửa chân, nửa thảo. Chữ viết của hai hình thức này không còn ngay ngắn như chữ Khải nữa.

Chữ Khải là loại chữ được viết một cách ngay ngắn, rõ ràng theo khuôn phép [khải: khuôn phép, mẫu] và đặc biệt nó trở thành một nghệ thuật hội họa bằng chữ viết gọi là Thư Pháp. Chữ khải còn có tên gọi khác là chân thư hay chữ chân phương.

Vì có những chữ Hán phức tạp nên ngày nay người Trung Quốc dựa vào chữ Hành và Chữ Thảo để đơn giản hóa các nét của chữ Khải. Vì vậy chữ Khải có hai hình thức là Giản thể [chữ khải đã được tinh giảm một số nét, hay Giản thể tự 簡體字] và Phồn thể [tức chữ khải truyền thống hay Chính thể tự 正體字].

Bộ Thủ

Người Trung Quốc sắp xếp tất cả các chữ viết của họ ra thành từng nhóm. Mỗi nhóm đại diện bởi một ký hiệu gọi là bộ thủ. Có những bộ thủ mà bản thân nó có một nghĩa riêng nhưng cũng nhiều bộ thủ chỉ là đầu mối để sắp xếp các chữ mà nó không có nghĩa thực. Theo chữ viết truyền thống [chữ phồn thể] thì chữ Hán có 214 bộ thủ. Để tiện việc tra cứu từ điển người ta lại sắp xếp chúng theo số lượng nét. Có tất cả là 17 nhóm tương ứng với các bộ thủ có từ 1 đến 17 nét trong một bộ thủ.

Nhằm mục đích tập viết các nét chữ và thuận tiện cho việc học bộ thủ trong tài liệu này bộ thủ được nhóm theo từng loại nét và từng loại kết cấu, từ đơn giản đến phức tạp.

Hán tự Chữ viết Thuộc tính Biến thể Cải cách Đồng tự khác nghĩa Sử dụng trong các chữ viết cụ thể
Kiểu chữ in
  • Trước khi có chữ viết

  • Giáp cốt văn
  • Kim văn

    • Triện thư [Điểu trùng triện
    • Đại triện
    • Tiểu triện]

  • Lệ thư
  • Khải thư

  • Hành thư
  • Thảo thư
  • Tất thư

  • Phỏng Tống thể
  • Minh thể
  • Sans-serif

  • Nét bút [thứ tự]

  • Bộ thủ
  • Phân loại

Theo dạng kí tự Theo cách sử dụng tự vị Tiêu chuẩn trước đây
    • Khang Hi tự điển
    • Tân tự hình

  • Bảng Hán tự quy phạm thông dụng [Đại lục]

  • Danh sách tự vị chữ Hán thông dụng [Hồng Kông]

  • Kiểu chữ Hán tiêu chuẩn quốc gia [Đài Loan]

  • Biến thể về tự vị
  • Bảng Hán tự quy phạm thông dụng [Đại lục]
  • Jōyō kanji [Nhật Bản]
  • Các ký tự thông dụng [Đại lục]
  • Các ký tự thường dùng [Đại lục]
  • Tōyō kanji [Nhật Bản]
Trung Quốc Nhật Bản Trung-Nhật Triều Tiên Singapore
  • Phồn thể
  • Giản thể

    • [Lần một
    • Lần hai]

  • Tranh luận

  • [Kyūjitai]
  • Mới [Shinjitai]

  • Ryakuji
  • Khác biệt giữa Shinjitai và chữ Hán giản thể
  • Yakja
  • Giản thể tự biểu
  • Văn độc và bạch độc
  • Trung văn
  • Tắc Thiên văn tự

  • Nữ thư
  • Kanji [Kokuji]
  • Kana [Man'yōgana]
  • Idu
  • Hanja [Gukja]
  • Chữ Nôm
  • Sawndip

  • x
  • t
  • s

Giáp cốt văn [tiếng Trung: 甲骨文] hay chữ giáp cốt là một loại văn tự cổ đại của Trung Quốc thời nhà Thương, được coi là hình thái đầu tiên của chữ Hán, cũng được coi là một thể của chữ Hán. Giáp cốt văn mỗi giai đoạn đều có sự khác nhau, giáp cốt văn thời Vũ Đinh được xem như hoàn chỉnh nhất, và cũng có số lượng lớn nhất được phát hiện.

Sơ lược

Giáp cốt văn chỉ hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh, được phát triển và sử dụng vào cuối đời Thương [thế kỷ 14-11 TCN], dùng để ghi chép lại nội dung chiêm bốc của Hoàng thất lên trên yếm rùa hoặc xương thú. Sau khi lật đổ nhà Thương, nhà Chu vẫn tiếp tục sử dụng thể chữ này. Cho đến nay, đây được xem là thể chữ cổ xưa nhất và là nguồn gốc hình thành chữ Hán hiện đại.[1]

Giáp cốt văn có nghĩa là chữ viết [văn] được khắc trên yếm rùa [giáp] và xương thú [cốt]. Giáp cốt văn được phát hiện tại khu vực làng Tiểu Đốn, huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xác định niên đại cách đây khoảng 3000 năm, được chia làm hai loại là giáp văn và cốt văn. Giáp văn được khắc trên yếm của rùa, một số ít được khắc trên mai, cốt văn được khắc trên xương trâu.

Năm Quang Tự thứ 24 triều nhà Thanh [năm 1898], một số nông dân phát hiện ra những mảnh xương thú khắc văn tự, nhưng tưởng là "long cốt" có thể chữa bệnh nên đã bán cho các hiệu thuốc. Nhà kim thạch học Vương Ý Vinh [王懿荣] và học trò là Triệu Quân [赵军] vô tình phát hiện ra trên những "long cốt" đó là một loại văn tự cổ. Qua khảo sát phát hiện ra nơi có "long cốt" chính là kinh đô cũ của nhà Ân, tức Ân Khư [殷墟]. Ban đầu các học giả không hề biết điều này, bởi vì các nhà buôn cố ý nói dối nơi tìm được "long cốt".[2]

Hiện tại người ta khai quật được khoảng hơn 15 vạn mảnh xương như thế, có khoảng hơn 5.000 chữ, đã đọc được khoảng 1.500 chữ. Trung Quốc đã treo thưởng 15.000 USD cho bất kỳ 1 chữ nào được giải nghĩa [ví dụ nếu ai giải nghĩa được 10 chữ thì sẽ được thưởng 150.000 USD].

Chữ giáp cốt sử dụng các phương pháp tượng hình, chỉ sự, hội ý để cấu tạo chữ. Về mặt dụng tự pháp ta cũng bắt gặp phương pháp giả tá. Nội dung giáp cốt văn chủ yếu nói về thiên văn, khí tượng, địa lý, tôn giáo... phục vụ nhu cầu tâm linh của vua chúa quý tộc. Vì thế mà giáp cốt văn còn được gọi là chiêm bốc văn tự, chiêm bốc nghĩa là bói toán.[3]

Tên gọi

Ngoài tên gọi phổ biến là "giáp cốt văn", nó còn được gọi bằng nhiều tên khác:[4]

  • "Khế văn" 契文, "Ân khế"殷契 xuất phát từ việc dùng dao để khắc nét.
  • "Giáp cốt bốc từ" 甲骨卜辞, "Trinh bốc văn tự" 贞卜文字 xuất phát từ nội dung ghi chép là về việc chiêm bốc
  • "Quy giáp thú cốt văn'龟甲兽骨文, "Quy giáp văn tự" 龟甲文字, "Quy bản văn" 龟版文 xuất phát từ vật liệu ghi chép là yếm rùa và xương thú.

Ngày 25-12-1921, nhà sử học Trung Quốc Lục Mậu Đức 陆懋德 ở Bắc Kinh phát biểu trong "Thần Báo Phụ Khan" bài " Sự phát hiện và giá trị của Giáp cốt văn" lần đầu sử dụng tên gọi Giáp cốt văn. Từ đó, nhiều nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục sử dụng tên gọi này, và dần dần trở nên phổ biến trong giới nghiên cứu và nhân dân.[4]

Đặc điểm của Giáp cốt văn

Xét về mặt số lượng cũng như kết cấu chữ, giáp cốt văn đã phát triển thành hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh, đã có sự thể hiện cách cấu thành chữ theo lối "lục thư" chữ Hán, tuy nhiên chữ vẫn chưa thoát khỏi những hình vẽ nguyên thủy.[5]

Về mặt cấu tạo, một số chữ tương hình mang tính khắc họa đặc trưng của vật thực, chưa thống nhất về số nét, cách viết, bố cục chữ.

Các chữ tượng ý của giáp cốt văn chỉ yêu cầu sự tổ hợp của các thành phần để tạo nên hàm ý của chữ, chưa chú ý sắp xếp. Do đó, chữ dị thể của giáp cốt văn rất nhiều, có chữ có hơn 10 cách viết.

Vì chữ giáp cốt chú trọng miêu tả vật thật, do đó kích thước chữ không thống nhất. Chữ dài, ngắn khác nhau, một số chữ có thể to bằng vài chữ.

Cách tạo chữ bao gồm tượng hình, tượng sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú, giả tá,... mang dáng dấp của cách tạo chữ "lục thư" chữ Hán, cho thấy sự thành thục và mức phát triển cao của loại chữ viết này. Cách khắc chữ dù chưa thống nhất, nhưng cũng có tính thống nhất nhất định. Chữ hoặc được khắc từ trên xuống, hoặc từ dưới lên, từ trái qua, từ phải lại, thường nét ngang trước nét dọc. Do khắc bằng dao, nên các nét mảnh và thẳng. Lại do vật liệu [xương cứng, mềm], dụng cụ [dao cùn, bén] mà nét chữ  khắc lên thô mảnh không đồng nhất. Độ dài ngắn nét không nhất định. Có chữ ngoằn ngoèo, bắt chéo, lại có chữ phân bố tầng lớp một cách trang trọng, thể hiện sự sáng tạo phong phú và cảm hứng thẫm mỹ của người xưa.[6][7]

Mặc dù vậy, giáp cốt văn vẫn giữ được sự đối xứng và bố cục tương đối ổn định. Do đó có người cho rằng thư pháp Trung Quốc bắt đầu từ chữ giáp cốt, vì nó đã mang 3 đặc tính của thư pháp: dụng bút, kết tự, chương pháp.[8]

Quá trình khai quật

Năm Quang Tự thứ 25 [1899] giáp cốt văn bắt đầu được các nhà kim thạch học cất giữ. Từ năm 1928 đến năm 1937 Sở nghiên cứu lịch sử và ngôn ngữ thuộc viện Nghiên cứu Trung ương Trung Quốc đã khai quật được khoảng 25.000 mảnh xương ở Ân Khư. Năm 1937 tại An Dương, Hà Nam, Trung Quốc đã có khoảng hơn 4.000 mảnh xương được khai quật. Từ năm 1954, viện Nghiên cứu Trung ương cũng tìm được khoảng 300 mảnh xương tại Sơn Tây, Bắc Kinh, di chỉ Chu Nguyên.

Tình trạng bảo tồn

Hiện đã khai quật được khoảng 154.000 mảnh xương, trong đó Trung Quốc đại lục giữ hơn 100.000, Đài Loan hơn 30.000, Hồng Kông hơn 100, 12 quốc gia khác như Nhật Bản, Anh, Thụy Điển... giữ khoảng 27.000 mảnh nữa.

Một số ví dụ

  • Một cái bảng với chữ giáp cốt [bảng đó còn chưa xong] với thầy bói yêu cầu nhà vua Thương nếu có một điều hơn 10 ngày

  • Một yếm rùa với thầy bói bản khắc từ thời cai trị vua Vũ Đinh

  • Giáp cốt văn từ một thầy bói

  • Giáp cốt văn có câu hỏi về mùa mưa bởi thầy bói: Kim nhật, Kỳ vũ? [Hôm nay, nó có mưa không?]

  • Giáp cốt văn có câu hỏi về mùa mưa [được chú giải]

  • Giáp cốt văn cho mùa xuân

  • Giáp cốt văn cho mùa thu

  • Giáp cốt văn cho mùa đông

  • Chữ "豕" [thỉ: lợn]

  • Chữ 犬 [khuyển: chó]

  • Chữ số giáp cốt văn thời nhà Thương [thế kỷ 14 TCN].

Tham khảo

  1. ^ Li, Xueqin [2002]. "The Xia-Shang-Zhou Chronology Project: Methodology and Results". Journal of East Asian Archaeology. 4: 321–333. doi:10.1163/156852302322454585.
  2. ^ Nylan, Michael [2001]. The five "Confucian" classics, p. 217
  3. ^ Qiu 2000, p.63
  4. ^ a b Wilkinson [2015], p. 681
  5. ^ Qiu 2000, p.68
  6. ^ Identification of these graphs is based on consultation of Zhao Cheng [趙誠, 1988], Liu Xinglong [劉興隆, 1997], Wu, Teresa L. [1990], Keightley, David N. [1978 & 2000], and Qiu Xigui [2000].
  7. ^ Keightley 1978, p.50
  8. ^ Keightley 1978, p.67

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giáp cốt văn.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giáp_cốt_văn&oldid=68274273”

Video liên quan

Chủ Đề