Hiện nay Chính phủ đã xác nhập lại bảo nhiều ngân hàng

Tiếp tục đèo bòng chữa trị sẽ tốn kém, còn để phá sản thì câu chuyện với người gửi tiền không dễ trả lời. 

GIỮ AN TOÀN CHO HỆ THỐNG, TRÁNH SỤP ĐỔ DOMINO

Ở lần thứ nhất, giai đoạn sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, công cuộc tái cơ cấu ngân hàng kéo dài từ năm 1998 đến năm 2003. Ngày 29/10/1999, Thủ tướng có Quyết định số 212/1999/QĐ-TTg về Đề án “Chấn chỉnh và sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam”.

Kết thúc lần một, toàn hệ thống đã sắp xếp, chấn chỉnh 14 ngân hàng thương mại. Trong đó, đã đóng cửa, rút giấy phép 1 ngân hàng, sáp nhập 7 ngân hàng, cho ngân hàng khác mua lại 1 ngân hàng, hợp nhất 1 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với 1 công ty tài chính cổ phần.

Đồng thời, chuyển 4 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Cũng trong giai đoạn này, nợ xấu đã giảm từ 13% giai đoạn 1996-1998 xuống 5% năm 2003.

Lần thứ hai, giai đoạn Việt Nam bắt đầu gia nhập Tổ chức thương mại thế giới 2005-2008, ngành ngân hàng lại bước vào công cuộc tái cơ cấu theo Đề án cơ cấu lại ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn theo Quyết định số 1577/QĐ-NHNN ngày 9/8/2006, chuyển nhiều ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị.

Kết thúc quá trình tái cơ cấu lần hai này, đã có tổng cộng 12 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, quy mô tài sản toàn hệ thống năm 2010 tăng 10 lần so với 2001. Lợi nhuận chung năm 2010 của hệ thống ngân hàng tăng hơn 20 lần so với 2001, nợ xấu năm 2010 là 2,16%.

Ở lần tái cơ cấu thứ 4, có ba ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá "0 đồng" là Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng Việt Nam [CBBank], Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí Toàn Cầu [GP Bank], Ngân hàng TNHH MTV Đại Dương [Ocean Bank].

Lần thứ ba, giai đoạn từ 2011 – 2015, đây cũng là cuộc “đại phẫu” được các chuyên gia đánh giá sóng gió nhất. Theo đó, tháng 10/2011, Trung ương Đảng quyết định tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có điểm ngắm là hệ thống ngân hàng. Chín ngân hàng thương mại cổ phần yếu được xác định và khoanh vùng gồm SCB, Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Habubank, Tienphongbank, GP Bank, Navibank, TrustBank và Western Bank.

Đến ngày 1/3/2012, Chính phủ ban hành Quyết định 254/QĐ-TTg  về Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 và Quyết định 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 ban hành Đề án xử lý nợ xấu.

Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại được thực hiện thông qua “mua bán”, sáp nhập các ngân hàng thương mại yếu kém. Đã có ba ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng là Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng Việt Nam [CBBank], Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí Toàn Cầu [GP Bank], Ngân hàng TNHH MTV Đại Dương [Ocean Bank].

Vietcombank được giao quản trị - điều hành CBBank; Vietinbank quản trị - điều hành Ocean Bank và GP Bank. Hiện nay, cả ba ngân hàng được mua lại với giá 0 đồng đã hoạt động bình thường trở lại, kết quả kinh doanh được cải thiện đáng kể.

Ngoài ra, còn 9 ngân hàng thương mại khác [Tín Nghĩa, Đệ Nhất, Habubank, Western Bank, DaiABank, MDBank, MHBank, Southern Bank, TrustBank] cũng được sáp nhập vào các ngân hàng khác có tình hình tài chính lành mạnh và kết quả kinh doanh ổn định hơn.

Với cuộc “đại phẫu” lần thứ ba đầy khó khăn, sức khoẻ của toàn hệ thống ngân hàng dù đã được cải thiện nhưng chưa thể hồi phục hoàn toàn. Sau một thời gian hoạt động, hệ thống luôn tồn tại những bất cập và tồn đọng, điển hình như những vẫn đề liên quan đến nợ xấu, năng lực quản trị của ngân hàng yếu kém, tình trạng sở hữu chéo...

Thực tế này đặt ra, cần phải có liều thuốc bổ cùng với phác đồ điều trị mới để chữa trị giúp hệ thống thực sự khoẻ mạnh. Đó cũng là lý do mà Chính phủ quyết định ban hành Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.

Nhìn chung, trong cả bốn  lần tái cơ cấu, Chính phủ đều dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống để tránh sụp đổ domino.

"LUẬT CHƠI" CẦN SÒNG PHẲNG VÀ CÔNG BẰNG

Như hai mặt của đồng xu, khi tránh được đổ vỡ, bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền, Chính phủ phải tự gánh trọng trách, nền kinh tế cũng buộc phải chịu tổn thất lớn.

Khi đó, cả hệ thống chính trị đều phải vào cuộc gây tốn kém chi phí, ở chỗ: ngân sách phải bỏ ra để vận hành bộ máy xử lý nợ xấu: thanh kiểm tra các tổ chức tín dụng trong diện kiểm soát đặc biệt; nguồn tiền từ nghiệp vụ từ ngân hàng nhà nước và/hoặc tới đây là từ Bảo hiểm tiền gửi,Ngân hàng Hợp tác xã [theo dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 01/2018/TT-NHNN], đáng lẽ sử dụng vào mục đích hiệu quả kinh tế hơn thì lại cho vay các tổ chức tín dụng yếu kém.

Chưa kể, việc các ngân hàng yếu kém phải trích lập dự phòng cao, đội chi phí hoạt động rất lớn, dẫn đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước giảm đi. 

Chưa kể, việc các ngân hàng yếu kém phải trích lập dự phòng cao, đội chi phí hoạt động rất lớn, dẫn đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước giảm đi.

Gần đây nhất, có vẻ như Ngân hàng Nhà nước muốn luật chơi sòng phẳng và minh bạch hơn nên ban hành dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 01/2018/TT-NHNN quy định về “cho vay đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt” và thêm điều khoản về tài sản đảm bảo.

Sau động thái của nhà điều hành, có nhiều ý kiến cho rằng, giải pháp bơm tiền để các ngân hàng yếu kém duy trì hoạt động với hy vọng các ngân hàng sẽ duy trì được tình hình là biện pháp tốn kém và khó giải quyết được gốc rễ vấn đề. Ở khía cạnh khác, đây là nguyên nhân trực tiếp khiến nợ xấu tăng cao, để càng lâu nền kinh tế càng chịu thiệt.

Vì vậy, các chuyên gia cho rằng, siết cho vay và các điều kiện khác là chưa đủ, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành luật chơi và thực hiện thanh kiểm tra sâu sát, những ngân hàng yếu kém, không thể cứu vãn thì đề xuất Chính phủ cho phá sản theo luật.

Như vậy, Chính phủ không phải tốn kém nguồn lực mà lại tạo sự công bằng như mọi loại hình doanh nghiệp khác, cũng như có tính răn đe các ông chủ ngân hàng lấy tiền gửi của dân tài trợ các dự án của mình.


Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú: Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2022 khó dự báo, đặt ra những khó khăn, thách thức mà ngành ngân hàng phải đối mặt. Ảnh: VGP

Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2022 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [NHNN] tổ chức chiều ngày 29/12 tại Hà Nội, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đã chỉ ra một số khó khăn, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với điều hành chính sách tiền tệ [CSTT] và hoạt động ngân hàng năm 2022.

Nhận diện rủi ro

Thứ nhất, nguy cơ rủi ro lạm phát do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và ngoài nước, tác động của chính sách thương mại, chính sách thắt chặt tiền tệ, sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư của một số nước lớn… Trong khi đó, kinh tế dự kiến phục hồi trong năm 2022 khiến nhu cầu tiêu dùng, đầu tư gia tăng, gây sức ép lên giá cả. Điều này sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành CSTT, nhất là trong điều kiện CSTT đã được nới lỏng kéo dài trong mấy năm qua.

Thứ hai, dịch bệnh kéo dài trong suốt 2 năm và vẫn còn đang diễn biến phức tạp đã, đang và sẽ mang lại nhiều hệ lụy cho nền kinh tế. Những khó khăn như vòng quay vốn chậm, dòng tiền đứt gãy, doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, gia tăng rủi ro về thu hồi nợ... đến năm 2022 sẽ tác động mạnh hơn đến hoạt động ngân hàng do có độ trễ [nếu tính cả dư nợ của khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01 có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỉ lệ nợ xấu sẽ tăng ở mức 7,31%].

Thứ ba, việc mở rộng quy mô tín dụng và thái quá các chính sách hỗ trợ thông qua các chương trình, các gói tín dụng ưu đãi [cả về vốn và lãi suất] nếu không được nhận diện đầy đủ, kịp thời và sự hỗ trợ từ chính sách tài khóa thì sẽ ảnh hưởng đến an toàn hệ thống trong trung-dài hạn…

Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2022 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức chiều ngày 29/12 tại Hà Nội. Ảnh: VGP

Thứ tư, dù thị trường chứng khoán có bước phát triển nhưng việc cung ứng vốn cho nền kinh tế [đặc biệt vốn trung dài hạn] vẫn chủ yếu từ hệ thống ngân hàng, từ đó làm gia tăng rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản [huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn], kéo theo sức ép và rủi ro lên hệ thống tổ chức tín dụng [TCTD]. Ngoài ra, việc kéo dài thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ [thực chất đã biến các khoản cho vay ngắn hạn thành trung dài hạn cũng như tạm thời không ghi nhận mức độ rủi ro thực tế của khách hàng] cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống ngân hàng trong trung hạn.

Thứ năm, dịch bệnh diễn biến phức tạp, kéo dài làm cho năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút, ảnh hưởng khả năng trả nợ đúng hạn. Bên cạnh đó, việc thẩm định, giải ngân tín dụng, thực hiện thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, thủ tục xử lý nợ và việc trả nợ ngân hàng của khách hàng cũng gặp khó khăn khi thực hiện phong tỏa, giãn cách xã hội, kể cả giãn cách cục bộ.

Thứ sáu, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng đã được chú trọng và hoàn thiện nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhiều quy định tại các văn bản quy phạm, kể cả luật có nhiều bất cập, chồng chéo, nhất là chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng, đủ thẩm quyền trong việc cơ cấu lại các TCTD…

Bên cạnh đó, nguồn lực cho các ngân hàng thương mại nhà nước [NHTMNN] còn bất cập với vai trò và trách nhiệm thực hiện chính sách, cũng như việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ. Mặt khác, vốn điều lệ các NHTMNN tăng không tương xứng với vai trò, vị thế đã hạn chế năng lực của các ngân hàng này trong việc mở rộng tín dụng, tham gia vào các dự án lớn, các công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia…

Ngoài ra, chuyển đổi số đang đặt ra cho ngành ngân hàng nhiều thách thức, đòi hỏi sự đồng bộ và phù hợp của các quy định và hành lang pháp lý hiện hành để theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ và các ứng dụng chuyển đổi số...

Giải pháp đồng bộ thích ứng diễn biến mới

Để vượt qua những thách thức trong bối cảnh mới, Phó Thống đốc Đào Minh Tú đã nêu ra một số phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022. Đại diện ngành ngân hàng khẳng định tiếp tục bám sát chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và các đánh giá, nhận định về tình hình kinh tế vĩ mô, tiền tệ để triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm năm 2022.

Thứ nhất, điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu năm 2022 bình quân khoảng 4%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Năm 2022, định hướng tín dụng tăng khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để thực hiện tốt chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau khi được Quốc hội phê chuẩn…

Thứ hai, điều hành linh hoạt các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô, tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và thiên tai.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng theo “Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong đó tập trung xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém; phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.

Thứ tư, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu; ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Phấn đấu duy trì tỉ lệ nợ xấu nội bảng ở mức an toàn [dưới 3%].

Thứ năm, tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho chuyển đổi số ngành ngân hàng, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, ngân hàng số, thanh toán số. Tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và chuyển đổi số.

Thứ sáu, NHNN cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng phù hợp với thực tiễn nhằm tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi sau dịch COVID-19. Trong đó trọng tâm là xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền [sửa đổi]; hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; hoàn thiện việc đề xuất gia hạn Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD...

Thứ bảy, NHNN thực hiện quyết liệt, hiệu quả cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, duy trì chỉ số chiều sâu và nâng cao độ phủ thông tin tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch. Tiếp tục đổi mới việc tổ chức cơ chế một cửa, số hóa, điện tử hóa trong giải quyết thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, góp phần xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số.

Ngoài ra, NHNN đẩy mạnh truyền thông theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đối với hoạt động thông tin của NHNN và các cam kết quốc tế từ trước, trong và sau khi ban hành chính sách nhằm tạo sự đồng thuận của dư luận.

Để tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ trọng tâm và đạt được các mục tiêu đã đề ra, lãnh đạo NHNN đề nghị các đơn vị trong toàn ngành bám sát Nghị quyết 01 và các nghị quyết khác của Chính phủ, Chỉ thị 01 của Thống đốc NHNN, tập trung xây dựng kế hoạch với lộ trình, sản phẩm cụ thể; đồng thời tổ chức quán triệt đến từng cán bộ trong đơn vị để triển khai nghiêm túc, quyết liệt ngay từ đầu năm.

Anh Minh


Video liên quan

Chủ Đề