Các tiêu chí đánh giá năng lực người học
1. Nguyên tắc đánh giá năng lựcTrong dạy học theo định hướng phát triển năng lực, đánh giá kết quả học tập của người học không tập trung vào kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học mà phải đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng vào trong thực tiễn. Vì vậy, khi đánh giá cần chú ý các nguyên tắc sau [2]: đảm bảo độ tin cậy, đảm bảo tính giá trị, đảm bảo tính linh hoạt, đảm bảo tính công bằng, đảm bảo tính hệ thống, đảm bảo tính toàn diện, phát triển người học, đánh giá trong bối cảnh thực tiễn. Show ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP THEO NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI HỌC
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.57 KB, 9 trang ) ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP THEO NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI HỌC những nội dung nào chưa tốt, nội dung nào cần học thêm, học cải thiện, học lại v.v Đánh giá kết quả học tập theo năng lực của sinh viên được tiến hành tốt giúp cho họ có cơ hội để củng cố tri thức, phát triển trí tuệ. Giúp hình thành cho họ nhu cầu thói quen tự đánh giá, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý chí vươn lên trong học tập và rèn luyện. Đánh giá có tác động tới phương pháp dạy và tới phương pháp học, yêu cầu về nội dung kiểm tra đánh giá đòi hỏi giảng viên và sinh viên phải phải thay đổi cách học để thể hiện được được kết quả học tập thực sự. Đánh giá kết quả học tập giúp cho các nhà quản lý đi đến những quyết định để cải tiến và hoàn thiện nội dung hay chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học. Trong quá trình dạy học, vấn đề sử dụng tài liệu nào, phương pháp, phương tiện nào là thích hợp, tất cả những điều đó phải được thực thi và có những kết quả, kết quả này thông qua đánh giá để đi đến quyết định là nên được tiếp tục hay cần thay đổi, chính quá trình đánh giá sẽ cung cấp cơ sở cho sự phán xét này. 2. Chức năng của đánh giá kết quả học tập theo năng lực người học Chức năng cơ bản trong đánh giá kết quả học tập theo năng lực của sinh viên đại học là chức năng xác nhận và chức năng điều chỉnh. - Với chức năng xác nhận mục đích là nhằm xác định mức độ mà sinh viên đạt được các mục tiêu học tập, nó cung cấp những số liệu để thừa nhận hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành môn học hay khoá học, để đi đến quyết định. Quyết định đó là tiếp tục học lên hoặc cấp chứng chỉ, cấp bằng.v.v hoặc nhằm xếp loại sinh viên theo mục đích nào đó, thường tiến hành sau một giai đoạn học tập. Chức năng này có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, đặc biệt là về ý nghĩa xã hội của nó, thể hiện tính hiệu quả của một hệ thống đào tạo. Việc đánh giá này đòi hỏi phải thiết lập một ngưỡng trình độ tối thiểu và xác định đúng vị trí kết quả của người học với ngưỡng này. - Với chức năng chẩn đoán, đánh giá nhằm hỗ trợ việc học tập bởi vì học tập diễn ra trong một thời gian khá dài, sinh viên thường khó bảo toàn tất cả kiến thức đã thu được, đó là tình trạng rơi rụng kiến thức thường thấy và nó ngày càng tăng do khối lượng kiến thức tăng lên. Đánh giá chẩn đoán nhằm hỗ trợ việc học tập của sinh viên, cung cấp cho sinh viên những tín hiệu từ việc học tập của họ, từ đó giúp họ khắc phục những thiếu sót, điều chỉnh cách học cho phù hợp. Đánh giá chẩn đoán được tiến hành thường xuyên, đặt sinh viên trước trình độ học lực của họ, đồng thời tạo điều kiện giúp đỡ cho họ để cải thiện nâng cao về số lượng và chất lượng, do vậy nó có tính chất thúc đẩy, củng cố, mở rộng và nâng cao chất lượng tri thức. 3. Một số phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả theo năng lực người học 3.1. Phương pháp kiểm tra viết dạng tự luận Phương pháp kiểm tra viết bài tự luận là phương pháp sử dụng hình thức bài viết tự luận để thu thập thông tin phản hồi nhằm đánh giá kết quả học tập của học sinh, chúng đòi hỏi sử dụng nhận xét, phán xét và diễn giải của người chấm trong việc cho điểm, gồm các loại câu hỏi kiểm tra trả lời mở rộng hay có cấu trúc. Loại bài tự luận có ưu điểm sau : - Khả năng lập luận, sắp đặt hay phác hoa; - Khả năng thẩm định, bình luận - Khả năng chọn lựa các kiến thức, ý tưởng quan trọng và tìm mối quan hệ giữa các kiến thức ý tưởng ấy; - Khả năng thể hiện hay diễn đạt các ý tưởng sáng tạo. Phương pháp kiểm tra viết bằng tự luận có các hạn chế sau : - Không có khả năng đo lường tri thức về sự kiện hoặc kỹ năng hành động một cách hữu hiêu. - Các câu trả lời thường dài, tốn thời gian trình bày, diễn đạt bằng văn viết. Học sinh dễ quay cóp và có thể khéo léo tránh đề cập những điểm không hiểu rõ. - Việc chấm điểm thường mất nhiều thời gian. Kết quả phụ thuộc vào người chấm. Yêu cầu đối với phương pháp kiểm tra viết dạng bài tự luận: - Câu hỏi kiểm tra cần được diễn đạt một cách rõ ràng, chú ý đến cấu trúc về ngữ pháp. Từ ngữ lựa chọn phải chính xác. - Cần xác định được thời gian cần cho việc trả lời câu hỏi, đối với những câu trả lời giới hạn, có thể dễ ước lượng thời gian trả lời cho mỗi câu, còn đối với những câu trả lời mở rộng, khó hơn trong việc ước lượng thời gian cần thiết, do đó câu hỏi cần đảm bảo cho học sinh viết chậm cũng có thể hoàn thành được bài viết. - Một trong những cách có thể cải tiến câu tự luận để nâng cao độ tin cậy là tăng số câu hỏi trong bài kiểm tra, giảm độ dài ở phần trả lời của mỗi câu, những câu quá dài và tổng quát có thể phân ra làm nhiều câu hỏi ngắn, có giới hạn độ dài của mỗi câu. - Khi tổ chức cho sinh viên làm bài cần phải có những biện pháp để tránh được các yếu tố gây nhiễu từ bên ngoài. (tiếng ồn, ánh sáng và các yếu tố gây nhiễu khác). - Cần xác định thang điểm một cách chuẩn xác và chi tiết, trong đó đưa ra những câu trả lời có thể chấp nhận được và trọng số cho từng câu trả lời. Cần phải có một bảng hướng dẫn nêu rõ những khái niệm, những ý tưởng, những lập luận, khối lượng dài ngắn và một số vấn đề khác tạo nên một bài trả lời chấp nhận được. Mặt khác, cần có dự kiến đưa ra một số vấn đề có thể xuất hiện trong bài làm, để có cách xử lí và cho điểm. 3.2. Phương pháp trắc nghiệm khách quan Một bài trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu thường được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản, hay một từ, một cụm từ, do đó có nhiều câu hỏi trong một bài trắc nghiệm. Trong lĩnh vực giáo dục có nhiều cách phân loại trắc nghiệm, mỗi cách phân loại đều dựa trên những cơ sở nhất định. Theo dạng thức của bài trắc nghiệm có trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận. * Các loại câu trắc nghiệm khách quan: Câu nhiều lựa chọn; Loại câu đúng - sai; Câu trả lời ngắn; Câu điền vào chỗ trống; Câu ghép đôi Mỗi loại câu ở trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, trong quá trình kiểm tra, đánh giá cần xem xét chúng trong hoàn cảnh cụ thể để lựa chọn và sử dụng cho phù phợp với các mục tiêu đo lường và đánh giá. Sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong đánh giá kết quả học tập có khả năng đo được các mức độ của nhận thức (biết, hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá). Một trong những ưu điểm nổi bật của phương pháp trắc nghiệm khách quan là điểm số có độ tin cậy cao. Bài trắc nghiệm bao quát được phạm vi kiến thức rộng nên đại diện được cho nội dung cần đánh giá. Tuy nhiên phương pháp trắc nghiệm khách quan cũng có một vài hạn chế, dùng bài trắc nghiệm khách quan sẽ khó khăn trong việc đo lường khả năng diễn đạt, sắp xếp, trình bày và đưa ra ý tưởng mới. Quá trình chuẩn bị câu hỏi trắc nghiệm là khó khăn và mất nhiều thời gian, đồng thời việc tiến hành xây dựng câu hỏi cần tuân theo những bước chặt chẽ hơn so với câu tự luận. * Yêu cầu khi sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan Lựa chọn phương pháp trắc nghiệm khách quan cần căn cứ vào mục đích đánh giá, đối tượng đánh giá và các điều kiện cụ thể, cũng như khả năng mà trắc nghiệm có thể đo lường và đánh giá được các mục tiêu đã xác định. Có một hệ thống ngân hàng câu trắc nghiệm đảm bảo được yêu cầu về các chỉ số của câu trắc nghiệm. Hệ thống ngân hàng câu trắc nghiệm cần được xây dựng một cách cẩn thận, quản lý một cách khoa học. Các câu trắc nghiệm khi thiết kế vào bài trắc nghiệm phải đại diện được cho nội dung cần đánh giá, sắp xếp câu trắc nghiệm theo từng chủ đề và từ dễ cho đến khó. Hướng dẫn chu đáo về cách thức làm bài trắc nghiệm trước khi tiến hành làm trắc nghiệm. Đối với các kỳ thi triển khai trên một diện rộng, việc chấm điểm bài trắc nghiệm được thực hiện bằng máy chấm theo một qui trình chặt chẽ. 3.3. Phương pháp vấn đáp Vấn đáp là một phương pháp kiểm tra - đánh giá sử dụng các câu hỏi trực tiếp (hỏi- đáp) để thu nhận các thông tin phản hồi về các đặc khả năng, thái độ, nhân thức của người trả lời. Ưu điểm : - Cho thông tin phản hồi trực tiếp và nhanh chóng. Loai hình câu hỏi đa dạng và có khả năng sử dụng linh hoạt trong các tình huóng khác nhau - Vừa định tính vừa định lượng đươc cả kiến thức, kỹ năng và thái độ - Có độ chính xác tương đối cao, có giá trị giáo dục nhiều mặt, bổ sung kiến thức, ít tốn thời gian - Rèn luyện năng lực tư duy và khả năng phản ứng, lập luận diễn giải bằng lời tức thời của học sinh . Nhược điểm: - Thông tin trả lời mang nặng tính chất, suy nghĩ chủ quan của người trả lời - Dễ bị sai lệch bản chất. - Chịu ảnh hưởng của môi trường, ngoại cảnh và thái độ của người hỏi và tâm thế của người trả lời. Không hỏi được nhiều người trong một lúc. - Khó lưu giữ thông tin trả lời. Chỉ hỏi được từng khía cạnh của vấn đề - Tốn thời gian nếu số lượng học sinh đông Yêu cầu khi sử dụng phương pháp vấn đáp Câu hỏi phải chính xác, rõ ràng, sát với trình độ của người học, diễn đạt câu đúng ngữ pháp, gọn gàng sáng sủa, câu hỏi phải có tác dụng kích thích tích cực, độc lập tư duy. Nên có từ 2 người trở lên tham gia để đảm bảo tính khách quan 3.4. Phương pháp quan sát Quan sát là một phương pháp kiểm tra -đánh giá sử dụng tri giác (trực tiếp hoặc gián tiếp) để thu nhận các thông tin phản hồi về các đặc điểm, tính chất, trạng thái. của các đối tượng cần đánh giá. Phương pháp này thường sử dụng để quan sát kỹ năng, sản phẩm, thái độ. Ưu điểm của phương pháp này là : - Cho thấy hình ảnh cụ thể của đối tượng cần đánh giá ( hành vi, hoạt động, trạng thái ) - Có thông tin trực tiếp , trung thực và nhanh chóng - Có khả năng tìm hiểu được nhiều khía cạnh của đối tượng quan sát. Rất tốt cho kiểm tra thực hành Tuy nhiên quan sát có một số nhược điểm sau : - Thông tin phản hồi mang nặng tính chất định tính, bề ngoài, hình thức khó thấy bản chất. - Chịu ảnh hưởng của môi trường, ngoại cảnh và thái độ của người quan sát - Khó quan sát khi đối tượng đông và có nhiều hoạt động phức tạp - Tốn thời gian khi cần đánh giá quá trình. * Yêu cầu khi sử dụng phương pháp này là Để tiến hành quan sát, trước hết cần xác định được mục tiêu và hệ thống hành vi liên quan đến mục tiêu cũng như các mức độ của hành vi. - Cần có kế hoạch trước cho việc quan sát, và phải chuẩn bị một danh mục cần quan sát cái gì, tức là phải định ra trước một loạt hành vi sẽ được quan sát, việc quyết định này giống như việc quyết định là nội dung gì sẽ được đưa vào bài kiểm tra đánh giá kết quả học tập. - Khi quan sát chỉ nên tập trung vào một hoặc hai đặc điểm để cho các số liệu tin cậy hơn, bởi vì người quan sát khó tập trung vào nhiều đặc điểm cùng một lúc. - Số lượng quan sát phải nhiều và thời gian quan sát diễn ra liên tục thì thì độ tin cậy của quan sát sẽ lớn hơn. - Quan sát được tiến hành đồng thời với hoạt động và giảng dạy và giáo dục của giảng viên. - Quan sát cần mang tính lựa chọn, tức là nếu quan sát trong một tập thể mang tính bao quát, tuy nhiên cũng cần được tập trung tới một vài cá nhân đặc biệt, chẳng hạn như những học sinh chậm chạp hoặc tách biệt, khép kín, hoặc quá hiếu động, chúng cần có sự giúp đỡ đặc biệt. - Nên ghi lại một cách cẩn thận và tóm tắt ngay sau khi nó xảy ra, tuy nhiên không nên đồng thời đưa ra những giải thích kết luận ngay về thái độ, điều này sẽ gây trở ngại đến tính khách quan trong quá trình thu thập thông tin quan sát. - Có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật vào quá trình quan sát. 4. Xu hướng về kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo năng lực người học hiện nay 4.1. Xu hướng đổi mới kiểm tra đánh giá Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo năng lực người học phải dựa vào các bằng chứng được thu thập từ nhiều hoạt động khác nhau, các phương pháp đánh giá rất đa dạng như kiểm tra tự luận, trắc nghiệm khách quan, vấn đáp, thực hành.v.v Các phương pháp phải được lựa chọn, sử dụng phù hợp với mục tiêu dạy học và tuân thủ những nguyên tắc nhất định, nó phải là bộ phận khăng khít của quá trình dạy học. Ngày nay, xu hướng của đánh giá kết quả học tập là: - Chuyển dần trọng tâm từ việc đánh giá kết quả cuối cùng sang đánh giá cả quá trình, đảm bảo cho việc đánh giá toàn diện hơn, đầy đủ hơn nội dung môn học, giúp họ có nhiều cơ hội hơn để thể hiện mình và giảm bớt sức ép từ việc kiểm tra đánh giá; - Từ đánh giá các kỹ năng riêng lẻ, các sự kiện sang các kỹ năng tổng hợp, không phải chỉ là đánh giá khả năng nhớ và hiểu mà còn đánh giá khả năng hiểu sâu, lập luận, đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức, nhấn mạnh đến kỹ năng tư duy, kỹ năng làm việc theo nhóm. - Từ đánh giá dựa trên ít thông tin sang đánh giá dựa trên nhiều thông tin đa dạng, người học tự đánh giá và đánh giá từ các chủ thể khác nhau; - Chuyển từ xem xét đánh giá như là một hoạt động độc lập với quá trình dạy học sang là một bộ phận tích hợp của quá trình dạy học, chúng được tiến hành liên tục trong quá trình giảng dạy nhằm giúp cho giảng viên có những quyết định phù hợp trong các thời điểm giảng dạy, giúp sinh viên tích cực hơn trong học tập; - Kiểm tra đánh giá chuyển từ việc giữ kín tiêu chuẩn, tiêu chí sang công khai các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá; 4.2. Đánh giá trên cơ sở thực hiện Để đánh giá thực sự năng lực người học, đánh giá mức độ mà sinh viên áp dụng được những gì đã học vào các tình huống thực tiễn thì không chỉ đánh giá xem sinh viên hiểu công việc đó làm như thế nào mà cần phải đánh giá xem sinh viên đã làm nó như thế nào, tức là đánh giá cái mà họ đã làm được, thể hiện ở kỹ năng, ở sản phẩm mà sinh viên tạo ra, do đó việc đánh giá cần phải đặt ra những yêu cầu đề sinh viên giải quyết tình huống. Đánh giá trên cơ sở thực hiện là thuật ngữ sử dụng trong lĩnh vực đánh giá kết quả học tập theo năng lực người học, có một số cách gọi khác như “đánh giá việc thực hiện”, “đánh giá thực”, đánh giá này đòi hỏi phải xem xét sinh viên đã sử dụng kiến thức thu được để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra như thế nào, các nhiệm vụ thể hiện ở nhiều dạng khác nhau tùy theo tính chất của từng chuyên ngành đào tạo và tính chất của môn học, thường thể hiện ở đánh giá các mục tiêu về kỹ năng và sản phẩm. Kỹ năng thể hiện ở kỹ năng lập luận, đòi hỏi sinh viên phải giải quyết một nhiệm vụ hoặc đưa ra quyết định của mình dựa trên cơ sở của những thông tin cho trước; kỹ năng vận động tâm lý bao gồm vận động từ đơn giản đến phức tạp. Đánh giá kỹ năng nghề nghiệp nhấn mạnh xem người học làm được gì, vận dụng kiến thức đã học vào lĩnh vực nghề nghiệp như thế nào, chúng thường được tích hợp trong các hoạt động dạy học, thông qua các hình thức thuyết trình, làm dự án, thảo luận, bài viết. Đánh giá sản phẩm thường dựa trên kết quả thực hiện một bài làm hoàn chỉnh. Đánh giá trên cơ sở thực hiện thường thể hiện ở một số dạng như: yêu cầu sinh viên vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết vấn đề (thí nghiệm và phân tích kết quả, chuẩn bị cho thảo luận theo chủ đề và trình bày báo cáo); Nêu vấn đề để sinh viên giải thích, tính toán, dự báo; đề xuất giải pháp, lập sơ đồ, bảng số liệu, vẽ tranh, sáng tác… Đánh giá trên cơ sở thực hiện có một số đặc điểm như: - Sinh viên thể hiện được sự vận dụng kiến thức hoặc đưa ra được sản phẩm. - Đánh giá được các kỹ năng hiểu sâu và lập luận. - Yêu cầu sinh viên giải thích, chứng minh và bảo vệ được ý kiến của mình. - Sản phẩm và quá trình thực hiện của sinh viên có thể quan sát được. - Các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá là đa dạng. - Không có một phương án đúng duy nhất, mà có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau. - Sự thực hiện được dựa trên những ngữ cảnh cụ thể của thực tiễn. Đánh giá trên cơ sở thực hiện đo lường tốt các mục về kỹ năng, về thực hiện qui trình về sản phẩm, nó cho biết những minh chứng cụ thể, trực tiếp về kết quả đạt được của sinh viên, chẳng hạn, dạy cho sinh viên sư phạm về kỹ năng trình bày bảng, thì không chỉ đánh giá họ về việc họ nêu lên được những yêu cầu khi trình bày bảng mà cần phải đánh giá việc họ đã trình bày bảng như thế nào, hoặc dạy cho họ về lập kế hoạch bài giảng, thì không phải xem họ nhắc lại cách làm mà phải đánh giá được kế hoạch bài giảng mà chính họ đã thiết lập cho tiết dạy cụ thể như thế nào, đó là sản phẩm mà họ đã tạo ra. Đánh giá trên cơ sở thực hiện tác động tích cực đến cách học của sinh viên, bởi nó không chỉ yêu cầu người học nhắc lại những thông tin đã thu nhận mà họ phải cấu trúc lại những gì đã học, lý giải, vận dụng chúng cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, những kết quả được thể hiện thông qua yêu cầu của đánh giá, do đó những tri thức thu được sẽ sâu sắc hơn. Qua đánh giá trên cơ sở thực hiện, sinh viên được đặt trong các tình huống để chứng minh sự vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, từ đó, sinh viên thu được những thông tin giúp họ điều chỉnh kỹ năng hành động và quá trình tạo sản phẩm, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn. Đánh giá trên cơ sở thực hiện cũng giúp cho sinh viên học tập năng động hơn, cuốn hút họ vào các hình thức học tập tích cực đa dạng, tạo nhiều cơ hội để việc học tập của sinh viên gắn với thực tiễn, thông qua giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, khuyến khích sinh viên thể hiện mình qua thực hiện các công việc mà nghề nghiệp đòi hỏi, do đó chuẩn bị cho sinh viên ra trường bước vào cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Để đánh giá trên cơ sở thực hiện tác động tích cực đến hoạt động học học của sinh viên đại học, giảng viên nên tạo ra những cơ hội thuận lợi để sinh viên tự theo dõi sự tiến bộ của mình thông qua các hoàn cảnh khác nhau (xemina, đặt ra các vấn đề cho sinh viên suy nghĩ có giải đáp, giải quyết tình huống, giao các nhiệm vụ để tự nghiên cứu, thực hiện dự án…), thiết kế các bài kiểm tra cần đòi hỏi sinh viên phải hiểu sâu, biết xử lý và vận dụng kiến thức. Đánh giá cần quan tâm tạo điều kiện cho việc hợp tác trong học tập của sinh viên qua đó, các ý kiến và kỹ năng khác nhau sẽ bổ sung cho nhau, đồng thời phát triển các kỹ năng giao tiếp, kích thích được tinh thần và động cơ học tập của họ. Tuy nhiên, đánh giá trên cơ sở thực hiện cũng như các phương pháp đánh giá khác, là không tránh khỏi những hạn chế nhất định của nó, đánh giá trên cơ sở thực hiện thường mất nhiều thời gian thực hiện, tiêu chí chấm điểm phức tạp, việc chấm điểm thường hay bị ảnh hưởng từ phía sinh viên khi diễn ra quá trình thực hiện. Khi sử dụng một phương pháp đánh giá nào đó đều có ảnh hưởng nhất định đến cách học của sinh viên. Vấn đề quan trọng ở đây là khi sinh viên biết trước rằng các phương pháp đánh giá được sử dụng sẽ đo lường mục tiêu nào, thì chắc chắn sinh viên sẽ phải nhằm vào thực hiện tối đa mục tiêu đó. Tóm lại, trong giáo dục đại học, tập trung đánh giá kết quả học tập theo năng lực của người học nhằm mục đích cao nhất là sự tiến bộ của sinh viên trong học tập, đồng thời cũng định hướng cho hoạt động giảng dạy của giảng viên có hiệu quả. Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinhCỡ chữ Màu chữ: 1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh. Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội) để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người. Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau: Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung (kiến thức, kĩ năng) và đánh giá tiếp cận năng lực
2. Quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kĩ năng và thái độ Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể. Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới. Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi. Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi. 3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau: (i) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình); (ii) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo; (iii) Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học; (iv) Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá. Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải: - Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học sinh của cấp học. - Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng. - Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này. - Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học. Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau: a) Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học. b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là: (i) Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,...); lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,...) căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,...); thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật (câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,...); tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học. (ii) Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,... được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành. (iii) Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với học sinh (lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…); thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan (Học sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…). Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,... Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra. Tài liệu tham khảo 1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014. 3. Website: https://tusach.thuvienkhoahoc.com. |