Ý nghĩa của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Đại thắng mùa xuân 1975 - Sự toàn thắng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

08/04/2021 15:42 Số lượt xem: 498

Cách đây gần nửa thế kỷ, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra một sự kiện chấn động thế giới về ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, đó là thắng lợi oanh liệt của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Thắng lợi đó đã đi vào lịch sử như một chiến công hiển hách, biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, khí phách, trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh Việt Nam. Đó cũng là kết quả của 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, bắt đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945.

Nét độc đáo, tuyệt vời của Đảng là dùng chiến tranh cách mạng làm phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mục tiêu cách mạng cũng là mục đích chính trị của chiến tranh, lực lượng cách mạng là lực lượng tiến hành chiến tranh, bằng phương pháp cách mạng bạo lực.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam không chỉ có những quy luật của chiến tranh mà còn có những quy luật cách mạng, nó tác động biện chứng và chi phối lẫn nhau. Đảng ta đã nắm vững hai quy luật đó và gắn đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng tạo thành sức mạnh tổng hợp vô địch, sức mạnh không kẻ thù nào lường hết được.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự toàn thắng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước đưa đến sự toàn vẹn thống nhất nước nhà.

Lịch sử có sự trùng hợp thú vị, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ với 56 ngày đêm và cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với thời gian tương tự.

Lịch sử cũng có sự trớ trêu, nghịch cảnh. Một dân tộc tha thiết yêu chuộng hòa bình như dân tộc Việt Nam lại phải chịu đựng hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược và rất nhiều lần phải cầm vũ khí “phê phán” bọn xâm lăng trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Hơn một thế kỷ qua, chủ nghĩa thực dân cũ hay mới đều coi bạo lực phản cách mạng, lấy chiến tranh làm phương tiện chủ yếu để áp đặt ách thống trị của chúng đối với nhân dân ta. Vì thế buộc dân tộc Việt Nam phải đoàn kết đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng. Kinh nghiệm cho thấy muốn giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, nhất thiết phải bằng con đường đấu tranh bạo lực cách mạng.

Với quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng ta về cách mạng bạo lực, cách mạng và chiến tranh, Đảng ta đã huy động đến mức độ tối đa sức mạnh vô tận của quần chúng để áp đảo quân thù. Sức mạnh đó được tạo nên bởi hai lực lượng cơ bản là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng; nó được thực hiện bằng 2 hình thức là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự. Bước phát triển cao nhất của hai hình thức đấu tranh là cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử chính là một cuộc tổng tiến công kết hợp với nổi dậy như vậy. Một trận tổng hợp sức mạnh tất thắng và tài thao lược Việt Nam, sự phối kết hợp tuyệt đẹp về quân sự, chính trị, binh địch vận, thể hiện sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thể hiện ý chí kiên trì, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do và CNXH, coi mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên CNXH là mục tiêu chính trị nhất quán bất biến của chiến tranh cách mạng.

Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã thực hiện một sách lược mẫu mực, có khi sử dụng những biện pháp đau đớn, có khi phải nhân nhượng tạm thời, trì hoãn chiến tranh để có thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Khi thì tiến hành đấu tranh ngoại giao kiên trì nhiều năm vừa cương, vừa nhu, thực hiện những bước đi quá độ đẩy lùi từng bước, đánh thắng địch từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Kể từ khi Đảng ra đời đến Đại thắng mùa xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã phải tiến hành một cuộc tổng khởi nghĩa và hai cuộc kháng chiến mới hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước. Điều đó chứng minh rằng độc lập dân tộc cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân, giang sơn thu về một mối là ý chí sắt đá, là nguyện vọng thiêng liêng, cháy bỏng của nhân dân Việt Nam, cho dù phải đốt cháy dãy trường sơn cũng quyết tâm đạt cho kỳ được.

Mọi người đều biết, Đường cách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là cốt lõi, nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, đó cũng là con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên của độc lập tự do và CNXH. Và khi ở nước ta giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo thì thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ quá độ lên CNXH.

Tất cả điều đó đã cho thấy một bài học lớn, cơ bản, xuyên suốt là cách mạng nước ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam đã chứng minh chân lý rằng trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác -Lê nin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là nước đế quốc mạnh nhất. Về ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đại hội IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[1]./.

Nguyễn Đăng Lâm,

Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật – H1977 – T5-6.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

[ĐCSVN] - Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là minh chứng cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc mà còn là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Đây là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho thành công của cách mạng Việt Nam.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển từ cơ sở lý luận, thực tiễn của mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam và trên thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Từ khi thực dân Pháp xâm lược [1858] và đặt ách thống trị ở nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, các ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã liên tục dấy lên. Nhân dân ta đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng, song tất cả đã bị đàn áp đẫm máu và thất bại. Bởi lẽ lãnh đạo các cuộc kháng chiến là các sỹ phu, văn thân mang nặng ý thức hệ phong kiến hoặc ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, đường lối cứu nước không rõ ràng. Thực tiễn lịch sử các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đến đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ rằng, không thể giải quyết vấn đề dân tộc, giành độc lập dân tộc dựa trên những quan điểm phong kiến, hay tư sản.

Lịch sử dân tộc đặt ra một đòi hỏi cần có một lực lượng lãnh đạo đất nước với một con đường cứu nước mới, có khả năng tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân tộc để đưa dân tộc ta đến độc lập tự do thực sự. Trong điều kiện lịch sử ấy, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Điểm xuất phát và là động lực tinh thần của sự ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc là để luôn nhắc nhở bản thân và cổ vũ đồng bào mình. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đã nghiên cứu khảo sát nhiều cuộc cách mạng trên thế giới. Nghiên cứu cuộc đấu tranh giành độc lập của nước Mỹ 1776, cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, Người đã chỉ ra rằng, mặc dù cách mạng tư sản đã thành công, chủ nghĩa tư bản đã xây dựng và phát triển hàng trăm năm ở những nước này, nhưng “công nông vẫn cực khổ”, vì tính chất không triệt để của cách mạng tư sản, trong thì “tước lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa”.

Nghiên cứu Cách mạng Nga và Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, Người dã rút ra kết luận quan trọng: Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như thực dân Pháp khoe khoang bên An Nam. Người rút ra kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”[1]. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản”[2].

Tư tưởng này của Người đã chỉ ra rằng, ở Việt Nam cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa địa chủ với nông dân, giữa giai cấp vô sản với tư sản, giữa toàn dân tộc với thực dân đế quốc xâm lược phải theo lập trường của giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng đó phải dựa vào lực lượng của toàn dân tộc, của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng. Xuất phát từ quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cho sự ra đời chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam. Sau nhiều năm chuẩn bị, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng vào mùa xuân 1930. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã khẳng định tư tưởng con đường cứu nước đúng đắn là phải gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và xã hội. Đường lối chiến lược đó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc và phù hợp với xu thế thời đại.

Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng hy sinh, phấn đấu vì độc lập thống nhất Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng hết lòng phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Với những thắng lợi mà nhân dân ta đã giành được, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế ngày càng rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và thế giới. Những thắng lợi đó có được là nhờ nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu. Đây chính là minh chứng hùng hồn về sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”[3].

Vậy mà hiện nay, một trong những ngón đòn tấn công phá hoại nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc. Các thế lực thù địch cố chứng minh rằng, mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một nước nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối; rằng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc; rằng Hồ Chí Minh du nhập học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin đã dẫn đến cảnh “nồi da nấu thịt”.

Theo họ ở nước ta hiện nay chỉ nên đề ra giải quyết vấn đề dân tộc còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Thực chất của những luận điệu xuyên tạc lừa mị ấy là phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam; tiến tới loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp tư sản. Những quan điểm ấy đã bị cả lý luận và thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua bác bỏ.

2. Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, là tiền đề để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đặt cách mạng dân chủ nhân dân trong phạm trù của cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội chính là tính toàn diện, triệt để của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ thực tế xã hội Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh chỉ rõ mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật cấp bách cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai bán nước. Vì vậy, ở giai đoạn đầu của cách mạng cần đặt vấn đề dân tộc lên trên hết. Từ đó, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam là giành độc lập dân tộc.

Đây là quan điểm mà Hồ Chí Minh kiên trì và nhất quán từ khi Người tìm ra con đường cách mạng Việt Nam. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã triệu tập và chủ trì hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tám của Đảng [5-1941]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.

Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[4]. Ở đây, rõ ràng vấn đề giai cấp được Hồ Chí Minh đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với lợi ích quốc gia dân tộc, vấn đề dân tộc được giải quyết theo lập trường của giai cấp công nhân, chứ đâu phải là sự “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người đã cố tình xuyên tạc. Thực tiễn cho thấy, mục tiêu độc lập dân tộc được đặt ra và giải quyết theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thông qua đội tiền phong của của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam đã thức tỉnh cổ vũ động viên cả dân tộc Việt Nam đấu tranh chống thực dân, đế quốc.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám 1945 đã minh chứng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau cách mạng Tháng tám năm 1945, độc lập dân tộc đứng trước thủ thách mới, bảo vệ độc lập dân tộc lúc này là sự sống còn đối với đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Thời kỳ đất nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1954 -1975], Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cùng với tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước. Như vậy, với Hồ Chí Minh để đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề cần giải quyết trước tiên là phải có độc lập dân tộc. Giành độc lập dân tộc mới có điều kiện xây dựng, phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc và triệt để. Đó phải là một nền độc lập thật sự, các quyền dân tộc cơ bản được bảo đảm, độc lập, dân chủ phải trên nguyên tắc nước Việt Nam của người Việt Nam; độc lập phải gắn với quyền tự quyết dân tộc.

3. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để, bảo đảm cho nền độc lập dân tộc được giữ vững, nhân dân có đời sống ấm no, tự do hạnh phúc.

Theo Hồ Chí Minh, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”[5]. Đây là sự khẳng định một hướng đi mới phù hợp với xu thế của thời đại, khác về căn bản so với các lãnh tụ của phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Giải thích vì sao cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống ấm no cho nhân dân ta. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là cuộc cách mạng gay go, phức tạp và khó khăn nhất”[6]. Từ bản chất của nó, chủ nghĩa xã hội, tạo ra các khả năng điều kiện phát triển bền vững của dân tộc, loại bỏ được ách thống trị nô dịch dân tộc. Với ý nghĩa ấy cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở bảo đảm cho nền độc lập dân tộc được giữ vững.

Hồ Chí Minh là người đầu tiên xác định cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta có khả năng tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Theo Người, sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đế quốc đã thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị áp bức: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi”; và Người chỉ ra các khả năng, điều kiện để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; Xây dựng củng cố tăng cường khối liên minh công nông trí thức làm hạt nhân xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; Phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng vô sản ở chính quốc [cách mạng vô sản Pháp]. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng ở các nước thuộc địa có thể và cần phải nổ ra trước cách mạng vô sản ở chính quốc là hoàn toàn đúng đắn sáng tạo.

Xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lừa mị rằng, ở Việt Nam hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ theo chủ nghĩa dân tộc Hồ Chí Minh, nên gác định hướng xã hội chủ nghĩa lại. Từ đó họ đòi đổi tên nước, đổi tên Đảng. Ý đồ xấu xa, nham hiểm của các thủ đoạn xuyên tạc, lừa mị đó là bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa đất nước ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong 25 năm đất nước đổi mới đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là cái bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

[1] .Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập1, tr.416.

[2] . Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập10, tr.9.

[3] . Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập10, tr.128.

[4] . Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113.

[5] . Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập12, tr.305.

[6] .Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập9, tr.156.

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Đăng lúc: 09/03/2021 [GMT+7]
100%

CHƯƠNG V

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Với chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ [7- 5- 1954] miền Bắc hoàn toàn giải phóng bước vào xây dựng CNXH. Nhưng ở miền Nam đế quốc Mỹ đã nhảy vào đặt ách cai trị bằng chủ nghĩa thực dân mới nhằm uy hiếp CamPuChia và

khống chế Lào.

Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: Dân tộc Việt Nam đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong suốt 9 năm kháng chiến [1945 - 1954], Thanh Hoá là vùng hậu phương vững chắc chi viện cao nhất,nhiều nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Sau hoà bình lập lại dưới sự lãnh đạo của Đàng bộ tỉnh các tầng lớp nhân dân trong tỉnh phấn khởi tự hào và khẩn trương triền khai thực hiện Nghị quyết 6 và 7 của Trung ương Đảng về việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chù, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế văn hoá, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà.

Song vào thời kỳ này cũng như các địa phương khác trong cả nước, tỉnh Thanh phải đối mặt với những khó khăn phức tạp do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH của nhân dân miền Bắc, trong đóThanh Hoá là một trọng điểm.

Tại miền Tây Thanh Hoá, địch đã cho máy bay lén lút tiếp tế vũ khí, lương thực, thực phẩm và quân trang cho bọn gián điệp, thổ phỉ ở vùng Tam Chung, Quang Chiểu [Quan Hoá], tăng cường tuyên truyền xuyên tạc với các luận điệu : “ Đầu năm hoà bình, cuối năm chiến tranh”, “ chế độmiền Bắc sưu cao, thuế nặng", “bên Lào hàng hoá rẻ và dễ mua” nhằm làm giảm niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Chính phủ, hạ thấp ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bằng biện pháp kíchđộng, lung lạc, hăm doạ, cưỡng ép, chúng đã đưa một số đồng bào các dân tộc di cư sang Lào, phá hoại sự đoàn kết chiến đấu của hai dân tộc Việt - Lào.

Ở một số vùng có dân cư theo đạo Thiên chúa, trước khi rút khỏi miền Bắc, bọn địch đã cài cắm gián điệp nhằm tạo cơ sở phá hoại lâu dài. Dựa vào Điểu 14D của Hiệp định Giơnevơ, bọn phản động đã tung ra luận điệu “miền Bắc sẽ chết đói”, “miền Bắc không được tự do tín ngưỡng”, “chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc”. Bằng những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp và sự cưỡng ép tàn bạo của địch, hàng ngàn giáodân đã lìa bỏ quê hương di cư vào Nam. Ởhuyện Nga Sơn, Tĩnh Gia, bọn phản động lợi dụng tôn giáo tập hợp bọn côn đồ chống đối, vu cáochính quyền cách mạng. Ở các huyện Quảng Xương, Nông Cống, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá, bọn phản động đã len lỏi vào nhà thờ vào các khu vực tập trung dân theo đạo Thiên chúa để tuyên truyền, kích động và tổ chức di cư....

Cùng với khó khăn phức tạp do địch gây ra là những khó khăn về sự nghèo nàn lạc hậu vốn có của nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc lại bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề. Tuyến đê sông Mã, Sông Chu bị vỡ, mất mùa xẩy ra liên tiếp, năm 1954 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn toàn tỉnh, các loại dịch bệnh đồng thời phát sinh.

Đứng trước tình hình khó khăn đó, Đảng bộ Thanh Hoá vẫn bình tĩnh sáng suốt, kịp thời đề ra chủ trương biện pháp đúng đắn, tổ chức lãnh đạo toàn dân khắc phục khó khăn, trở ngại đưa sự nghiệp cách mạng tỉnh nhà tiến lên cùng cách mạng cả nước.

Là một huyện trọng điểm của tinh, sau ngày giải phóng Thọ Xuân cũng phải đối mặt trực tiếp vài những khó khăn phức tạp do địch và thiên tai gây ra.

Tại các nhà thờ và khu vực tập trung dân cư theo đạo Thiên chúa, bọn phản động đội lốt tôn giáo đã ráo riết hoạt động, tung tin bịa đặt, tuyên truyền kích động tập hợp dân chuẩn bị di cư.

Tháng 9 - 1954, mưa lớn kéo dài nước từ thượng nguổn đổ về dữ dội, mực nước sông Chu dâng cao, một số đoạn đê ở Liên Phô [xã Thọ Nguyên] bị vỡ gây ra ngập úng hàng ngàn ha lúa sắp đến ngày thu hoạch. Đặc biệt ở các xã Thọ Thế, Thọ Tân, Thọ Dân, Thọ Cường, Xuân Thịnh, Xuân Lộc... có vùng nhân dân phải lên mái nhà ngồi, nước rút chậm, mùa màng hầu như mất trắng, bệnh tật phát sinh, nạn đói diễn biến gay gắt.

Bên tả đoạn đê Căng Hạ [Thọ Trường] vừa bị vỡ, vừa bị nước sông Cầu Chày dâng cao, các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Minh [cũ], Thọ Trường [cũ] đều bị ngập lụt. Cả huyện gần hàng ngàn ha lúa màu bị ngập úng.

Cuối năm 1954 đầu năm 1955 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn huyện, hàng trăm người bị đói lả, rải rác ở các làng đã có người bị chết đói, dịch bệnh diễn ra. Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân toàn huyện bình tĩnh sáng suốt phát huy truyền thống cách mạng giải quyết khó khăn đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

I- HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH VÀ THIÊN TAI KHÔI PHỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ [1954-1960]

Chống âm mưu, thủ đoạn thâm độc của địch cưỡng ép đổng bào giáo dân di cư vào Nam, sang Lào. Ngay sau khi nhận được chỉ thị của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Thọ Xuân đã có những biện pháp chỉ đạo sát thực kịp thời, tăng cường một số đồng chí huyện uỷ viên và cán bô Dân vận về vùng giáo ởxứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú], tứ xứ Hữu Lê [Thọ Xương], xứ đạo Bích Phương, Ngọc Lạp [Xuân Sơn] cùng với bộ phận bám sát nắm tình hình từng gia đình, ngõ xóm, vận động quần chúng không mắc mưu địch.Với tinh thần: Chúa có ở khắp mọi nơi, mọi nhà, chỉ cần kính chúa yêu nước, đồng bào hãy yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Huyện Đoàn Thọ Xuân chịu trách nhiệm trước Đảng bộ tổ chức thanh thiếu niên cắm trại, liên hoan văn nghệ, lấy lại không khí đầm ấm phấn khởi đến từng gia đình.Đảng bộ còn mở các lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở nhằm triển khai chỉthị của Liên khu uỷ IV, của Tỉnh ủy Thanh Hoá vận động giáo dân đấu tranh đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của dịch và tranh thủ các linh mục thuyết phục đồng bào ở lại quê hương, cử cán bộ cơ sở bám làng, bám dân giải thích giác ngộcho mọi người hiểu và thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Chính phủ, vạch trần âm mưu, hành động phản cách mạng của địch.

Nhờ làm tốt chính sách tuyên truyền vận động nên đã kịp thời làm cho những người có ý định di cư quay trở lại quê nhà. Một số giáo dân do được giác ngộ đã viết đơn thư gửi Uỷ ban Quốc tế tố cáo bọn phản động tay sai đế quốc, vi phạm Hiệp định Giơnevơ, cưỡng ép họ và gia đình di cư vào Nam, làm cho nhiều gia đình ly tán khốn khổ, họ kiến nghị Ủy ban Quốc tế giám sát can thiệp để gia đình được đoàn tụ.

Khi nhận được đơn, thưTổ chức Quốc tế giám sát thi hành Hiệp định Giơnevơ ở Việt Nam đã đến vùng giáo xã Quảng Phú [Thọ Xuân] kiểm tra sự thật. Tại đây đồng bào đã vạch trần sự bịa đặt xuyên tạc của bọn phản động vu khống chính quyền địa phương ngăn cản việc tự do chọn nơi cư trú của giáo dân theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, làm thất bại âm mưu nham hiểm của địch.

Tại xã Xuân Bái [Thọ Xuân], khi Tổ chức Quốc tế vào chùa Bái Thượng gặp sư Tráng, nhà sư đã tố cáo việc ném bom, bắn phá vào chùa của thực dânPháp cho đến nay vẫn còn gây tâm lý hoang mang lo lắng trong giáo dân.

Qua đợt kiểm tra tra của Tổ chức Quốc tế tại các vùng giáo dân [Thọ Xuân] đã làm cho tình hình chính trị trở lại ổn định. Đông đảo giáo dân tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Cùng với ngăn chặn sự quấy phá của các tổ chức phản động, Đảng bộ, Chính quyền chỉ đạo nhân dân tiến hành các biện pháp chống đói.

Huyện chủ trương bước đầu động viên từng xã, từng làng giúp đỡ tương trợ nhau nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá rách. Các vùng gặp khó khăn ít giúp các vùng khó khăn nặng hàng tấn gạo, ngô, khoai, sắn và hàng trăm ngàn đồng.

Do nạn đói kéo dài, số người đói ngày càng tăng. Đứng trước tình hình cấp bách đó, Huyện uỷ chỉ đạo thành lập “Ban cứu đói” do đồng chí Trịnh Ngọc Bích, Chủ tịch UBHC huyện làm Trưởng ban. Ban vận động đã cùng kết hợp cán bộ chủ chốt của các xã kiểm tra thực tế tình hình ờ từng làng, báo cáo với Ban chỉ đạo cứu đói cấp tỉnh bàn biện pháp hỗ trợ, Huyện uỷ - UBHC phát động phong trào toàn dân đoàn kết tương trợ cứu đói tại chỗ, phòng chống dịch bệnh, tích cực trồng rau xanh ngắn ngày. Thau giếng, khôi phục nguồn nước sinh hoạt, dọn vệ sinh ở từng giađình, thôn xóm, làng xã. Huyện đã huy động hàng ngàn lượt người đem theo trâu, bò và các loại giống đến các vùng bị đói để giúp nhân dân phục hồi sản xuất.

Ban chỉ đạo cứu đói huyện đã báo cáo kịp thời, Tỉnh đã trợ cấp nhân dân bị đói 800 tấn gạo [chia làm 3 đợi].

Nhờ sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo huyện và nhân dân, giữa năm 1955 nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân trở lại bình thường và được ổn định dần.

Ngay sau khi hoà bình vừa lập lại, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Uỷ ban hành chính tỉnh lập kế hoạch sửa chữa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sôngChu để trình Chính phủ. Được Chính phủ phê duyệt, Tỉnh uỷ quyết định mở công trường tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu và ra quyết định thành lập Ban chỉ đạodo đồng chí Phó Chủ tịch tỉnh trực tiếp phụ trách. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh quyết định huy động 22 ngàn dân công ở các huyện, một trung đoàn bộ đội, 700 thợ kỹ thuật và công nhân cùng hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, các loại nguyên vật liệu cần thiêt phục vụ công trường.

Để cung cấp đá, tỉnh thành lập 2 công trường khai thác đá ở Mục Sơn và Hang Ma. Thành lập đội xe thồ và huy động dân công vận chuyển nguyên liệu, lương thực, thực phẩm. Các huyện miền núi cung cấp gỗ, luồng.... Với tinh thần chuẩn bị khẩn trương, ngày 1 - 9-1954 việc khởi công tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu được tiến hành. Việc tu sửa đập Bái Thượng được chia ra nhiều công đoạn. Vào thời điểm này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên cổ vũ mọi người trên công trường. Bác viết: “Các cô, các chú phải làm mau, làm tốt và đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chúc các cô, các chú lập nhiểu thành tích”

Cùng với Đảng bộ Thanh Hoá và nhân dân trong tỉnh. Đảng bộ huyện Thọ Xuân đã vận động nhân dân địa phương đóng góp sức người, sức của cho công trường sửa chữa đập Bái Thượng. Huyện đã huy động hơn 5.000 lượt dân công tham gia công trường. Nhân dân các xã Xuân Bái, Thọ Xương, Thọ Thanh, Xuân Dương đã trực tiếp ủng hộ công nhân công trường nhiều tấn thịt lợn, gà, cá, rau, cùng vật liệu làm lán trại, bố trí nơi ăn ở cho cán bộ, công nhân xây dựng đập. Thời gian hàn khẩu đê quai sanh cả công trường tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công. Nhiều tấm gương điển hình xuất hiện. Chị Mai Thị Hược thôn Xá Lê [Xuân Minh] đã vác tảng đá 70 kg đầu tiên đặt lên đập quai sanh được bầu là Chiến sỹ thi đua.

Sau 3 tháng khẩn trương thi công, ngày 19 - 12-1954 nước từ hộ thông nông giang sông Chu [Thọ Xuân] đã bắt đầu chảy về các cánh đồng, phục vụ sản xuấtvụ chiêm xuân năm 1955. Trung tuần tháng 3 - 1955 toàn bộ hộ thống nông giang sông Chu đã được khôi phục, 50.000 ha ruộng đất của 6 huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Triệu Sơn, Nông Cống, Quảng Xương được tưới nước cả 2 vụ.

Cùng với việc vận động nhân dân tham gia sữa chữa đập Bái Thượng, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các huyện, nâng cấp, tu bổ hệ thống đê điều đẩy mạnh công tác thuỷ lợi và tích cực khai hoang phục hoá mở rộng diện tích canh tác.Tỉnh chủ trương miễn thuế cho tất cả các loại ruộng đất khai hoang phục hoá để phát triển sản xuất và quy định các huyện nhỏ như Vĩnh Lộc, Hậu Lộc phải đạt 250 mẫu ruộng đất canh tác, các huyện lớn như Thọ Xuân, Nông Cống phải đạt 1.000 mẫu. Phong trào khai hoang phục hoá diễn ra sôi động, rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Bộ đội dân quân được huy động vào việc tháo gỡ bom mìn, đảm bảo an toàn chonhân dân sản xuất. Trong 2 năm 1955 - 1956 toàn huyện đã khai hoang 1.000 ha ruộng đất để trồng cây rau màu và câylương thực. Nhờ đó, nông nghiệp phát triển thêm một bước, khó khăn về lương thực giảm dần.

Sau chiến tranh, việc khôi phục và phát triển giao thông vận tải phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá là yêu cầu cần thiết. Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Ty Giao thông và các huyện trong tỉnh sửa chữa và mở rộng đường sá, cầu cống, mở rộng giao lưu giữa các miền trong tỉnh và với các tỉnh bạn, theo phương châm: phát huy sử dụng năng lực sẵn có của địa phương, tranh thủ sự chỉ đạo kỹ thuật và cấp vốn của Trung ương, vừa kiến thiết khôi phục, vừa bảo dưỡng thường xuyên.

Nhân dân Thọ Xuân đã tích cực tham gia tu sửa nâng cấp các tuyến đường huyện, xã và mở đường: Mục Sơn - Vạn Mai, Bái Thượng - Cửa Đạt, huy động dân công tham gia mở đường 217 A.

Hàng trăm công nhân là lực lượng lao động của huyện đã tham gia sản xuất công nghiệp và thủcông nghiệp ở Nhà máy giấyLam Son, ở các cơ sở sản xuất đồ gỗ, đan lát. Góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

Cùng với việc khôi phục phát triển kinh tế, các mặt văn hoá, giáo dục, y tế và các hoạt động xã hội được cấp uỷ quan tâm chỉ đạo.

Ngay sau khi hoà bình lập lại, Thọ Xuân đã sắp xếp lại hệ thống trường lớp, hoàn thành việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân lao động.

Theo chủ trương của Bộ Giáo dục, huyện Thọ Xuân bỏ chương trình giáo dục 9 năm, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 10 năm .

Năm 1955 các trường học ở Thọ Xuân có thêm học kỳ 3, các trường cấp 2 ở một số nơi dồn về huyên lỵ Thọ Xuân thành lập trường cấp II Thọ Xuân.

Thực hiện Chỉ thị số 57 của Tỉnh uỷ về tăng cường công tác y tế, huyện củng cố, phát triển mở rộng các bệnh xá huyện, trạm xá xã, các tổ đông y, hộ sản, các tổ y tế lưu động phòng trừ các bệnh sốt rét, đau mắt hột và một số bệnh xã hội khác.

Toàn huyên tích cực hưởng ứng phong trào “Sạch làng, tốt ruộng, sạch bản, tốt nưong” do Ty Y tế phát động.

Phong trào văn hoá, văn nghê, thể thao được đông đảo nhân dân tham gia nhiệt tình, phàn ánh khí thế sôi nổi của toàn dân trong sản xuất và xây dựng, góp phần vạch trần tội ác của Mỹ ngụyở miền Nam.

Ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ [7 - 5-1954] thực hiên đường lối nhân đạo của Đảng, Thọ Xuân được tỉnh giao nhiệm vụ quản lý nuôi giữ 5.000 tù binh Pháp, một tiểu đoàn ngụy quân, 3 đại đội Tây trắng, lập thành các trại ở Thịnh Mỹ [Thọ Diên], Quần Kênh [Xuân Giang], làng Hón [Thọ Hải]... Cơ quan Huyên đội đã cùng lực lượng quản giáo tuyên truyền giáo dục giác ngộ nhiều tù binh, giúp họ nhận rõ lỗi lầm cải tạo thành người tốt.

Sau khi tiến hành trao trả tù binh Pháp, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá tiếp tục tổ chức đón tiếp cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam tập kết tại Sầm Sơn.

Huyện Thọ Xuân đã cùng với các huyện Quảng Xương, Nga Sơn, Đông Sơn, Hoàng Hoá, Nông Công, Thiệu Hoá, Yên Định cung cấp hàng ngàn con trâu, bò, lợn, hàng vạn gà vịt, hàng chục ngàn bộ quần ấo, màn, chăn, áo âm đảm bảo cho đồng bào, chiến sĩ, cán bộ miổn Nam có điều kiện sinh hoạt bình thường.

Tiếp tục hoàn thành triệt để nhiệm vụ dân chủ, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng “, Thọ Xuân thực hiện Luật cải cách ruộng đất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban bố ngày 4 - 12-1953.

Cải cách ruộng đất ở Thọ Xuân được tiến hành 2 đợt. Đợt đầu [đợt thí điểm] được tiến hành ở 7 xã: Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Thọ Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong, Thọ Lộc [3 xã vùng tả ngạn, 4 xã vùng hữu ngạn sông Chu]. Dưới sự chỉ đạo của Đoàn uỷ cải cách ruộng đất, các đội cải cách ruộng đất phụ trách các xã, đã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nông dân, tiến hành ôn nghèo kể khổ, xây dựng rễ chuỗi phátđộng nông dân vạch mặt bọn địa chủ cường hào gian ác. Với phương châm dựa hẳn vào bần - cố nông, đoàn kết với trung nông, liên kết với phú nông đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến tịch thu. trưng thu, trưng mua ruộng đất tài sản chia cho nông dân lao động... Đợt đầu đã quy 350 địa chủ, tịch thu 12.000 mẫu ruộng, 3.000 trâu bò, 55.000 công cụ sản xuất và nhiều tài sản khác chia cho bần, cố, trung nông [đợt đầu cải cách ruộng đấtở Thọ Xuân nằm trong đợt 3 toàn tỉnh].

Đợt 2 cải cách ruộng đất được tiến hành ở các xã còn lại trên địa bàn toàn huyện [đợt này nằm trong cải cách ruộng đất đợt 4 toàn tỉnh]. Hai đợt cải cách ruộng đất, Thọ Xuân đã xoá bỏ triệt đểquan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất, đem lại quyền lợi cho nông dân lao động, mở đường cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Nhưng cải cách ruộng đất kết hợp chỉnh đốn tổ chức đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Doquy định 5% tổng số hộ nông dân là địa chủ nênhàng loạt gia đình không đủ tiêu chuẩn cũng bịquy lên địa chủ. Nhiều gia đình cán bộ, đảng viên có công với cách mạng cũng bị quy lên địa chủ cường hào gian ác. Nhiều cán bộ chủ chốt trong huyện bị tình nghi là phản động, nhiều người bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt tù đầy... Tình hình đó đã ảnh hưởng đến khối đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân. Quân thù lợi dụng vào những sai lầm đó tuyên truyền xuyên tạc ảnh hưởng uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng...

Trước tình hình nghiêm trọng đó Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát hiện sai lầm, đề ra chính sách sửa sai, Đảng bộ và quần chúng được tổ chức học tập Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch - thực hiện cuộc vận động sửa saitrong cải cách ruộng đất.Công việc tuy phức tạp nhưng được sự chỉ đạo chặt chẽ Tỉnh uỷ, Đảng bộThọ Xuân đã tiến hành sửa sai đạt kết quả tốt. Toàn huyện có 1.338 gia đình quy lên địa chủ, trong sửa sai còn lại 597 địa chủ. Hơn 60% giađình bị quy sai được trảlại ruộng đất, tài sản. Cánbộ, đảng viên bị quy sai được trả lại chức vụ vàĐảng tịch, khối đoàn kết toàn dân được củng cố, an ninh chính trị xã hội ổn định.

Sau khi hoàn thành công tác cải cách ruộng đất, khắc phục được một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các Đảng bộ cơ sở tiến hành chỉnh đốn tổ chức Đảng.

Đối với Đảng bộ Thọ Xuân, Tỉnh uỷ triệu tập đại biểu của các cơ sở Đảng về Hậu Hiền [xã Thiệu Tâm] để chỉnh huấn chính trị, kiện toàn tổ chức, Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 đồng chí và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Lê Văn Lữ được bầu làm Bí thư Huyện uỷ, đồng chí Nguyên Thị Nhẫn làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện.

Hội nghị xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm của huyện là: Phát huy thắng lợi của cải cách ruộng đất, động viên nông dân làm chủ ruộng đồng, hăng hái tăng gia lao động sản xuất, phục hóa tăng vụ, mở rộng diện tích phát triển kinh tế, phát động toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ và tham gia các lớp học bổ túc văn hoá trong toàn huyện. Phátđộng phong tràobồi đắp đê sông Chu, phòng chống lụt bão và mở các chi giang, tiểu câu, mương máng, đưa nước về đồng...

Tiếp đến tháng 10 năm 1956, hội nghị Huyện ủy mở rộng được tổ chức tại xã Thọ Ngọc [thuộc Triệu Sơn hiên nay], đồng chí Trịnh Ngọc Điệt Phó Bí thư Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo. Hội nghị xácđịnh nhiệm vụ chính của thời kỳ này là: Thực hiên Nghị quyết 10 của Trung ương Đảng và Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc vận động sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Động viên chính trị tư tưởng, minh oan cho những cán bộ bị quy sai thành phần, hoàn trả lại tài sản, bố trí lại chức danh lãnh đạo, nhanh chóng ổn định lại tình hình, ổn định tổ chức, đồng thời phát động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế,hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục đẩy mạnh công tác tu bổ đê điều phòng chống lụt bão, làmthuỷ lợi, chống hạn, mở rộng diện tích cấy lúa, nông dân vào các tổ đổi công, củng cố xây dựng cơ sở giáo dục, y tế , văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng tin tưởng và thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 17 đồng chí chính thức và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được bầu làm Bí thư Huyên uỷ. Đồng chí Phạm Tường, Phó Bí thư làm Chủ tịch UBHC huyện.

Sau hội nghị, Huyện đã phát động chiến dịch “Toàn dân ra quân đắp đê”. Hàng ngày có từ 3.500 đến 5.000 người, đợt cao điểm có tới 10.000 lao động trên công trường. Ngoài lực lượng thanh niên, dân công, còn có các cụ trên 60 tuổi cũng xung phong tham gia đắp đê, nhiều phụ nữ trực tiếp gánh đất đắp đê, hoặc phục vụ công trường. Các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Lai, Xuân Khánh, Xuân Thành, Hạnh Phúc, Thọ Hải... đã ủng hộ hàng ngàn tấn gạo, thịt cho dân công. Các lực lượng quân đội [Sư đoàn 330] đóng trên địa bàn huyện cũng tích cực tham gia đắp đê.

Sau hơn một năm, tuyến đê sông Chu với chiều dài 20 km được bồi trúcvà nâng cao, hai bờ tả ngạn [từ Thọ Lập đến xã Thọ Trường], hữu ngạn [từ Thọ Diên xuống đến Xuân Khánh] thành đê to, vững chắc được kè hàng triệu mét khối đất đá, những nơi xung yếu hay sạt lở được xử lý triệt để. Nhờ làm tốt công tác đắp đê, hàng chục trận lụt lớn xảy ra, tính mạng, tài sản, mùa màng của nhân dân vẫn được bảo vệ an toàn.

Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Thọ Xuân đã xây dựng hàng trăm tổ đổicông. Những năm hoà bình lập lại việc xây dựng tổ đổi công đã trở thành phong trào rộng khắp trong toàn huyện. Nông dân đã đoàn kết sản xuất, áp dụng kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất cây trồng, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất. Những năm 1957 - 1958, phong trào xây dựng tổ đổi công lan rộng; toàn huyện đã xây dựng được 1.987 tổ đổi công, chiếm 80% tổng số hộ gia đình nông dân tham gia. Tổ đổi công Trịnh Xuân Bái, xã Xuân Thành có nhiều thành tích thâm canh, tăng vụ nâng caonăng suất, sản lượng lúa và hoa màu. Ông Trịnh Xuân Bái được tham dự Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vào năm 1958.

Trên cơ sở nền móng các tổ đổi công, một số nơi chuyển lên xây dựng hợp tác nông nghiêp. Năm 1958 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] ở Thọ Xuân được xây dựng để rút kinh nghiệm nhân rộng ra các điểm khác. Đây là HTX nông nghiệp đầu tiên ở Thọ Xuân.

Đi đôi với việc thành lập HTX nông nghiệp, HTX mua bán, tín dụng cũng được xác lập ở một số cơ sở.

Năm 1957 do yêu cầu của phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, HTX mua bán huyện được hình thành ở ba khu vực trung tâm: thị trấn Thọ Xuân, Tứ Trụ, Neo do hàng ngàn hộ nông dân đóng góp cổ phần.

Sự nghiệp giáo dục cũng được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1958 giáo viên cấp I tập trung về tỉnh, giáo viên cấp II, III tập trung vềHà Nội học tập chủ trương xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Quyết tâm của Huyện uỷ, UBHC huyện là đẩy manh công tác xoá mù, mở rộng Bình dân học vụ trong toàn huyện. Nhiều xã trong huyện đã làm tốt. Xã Xuân Thành, Xuân Minh, Xuân Bái được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động về thành tích chống mù chữ. Toàn huyện có 108 cán bộ xã, 2.480 giáo viên được tặng Huy hiệu chiến sỹ Bình dân học vụ.

Để nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tỉnh tăng cường cho huyện Thọ Xuân 70 giáo viên chuyên trách Bổ túc văn hoá. Ban đầu tập trung mở lớp ở các xã Xuân Thành, Thọ Nguyên, Bắc Lương, Xuân Lai, Xuân Minh, Xuân Vinh. Đến năm 1958 huyện mở trường Văn hoá tập trung tại xã Nam Giang, sau này chuyển vềHạnh Phúc. Trường đã đào tạo hàng trăm cán bộ chủ chốt cho huyện và xã.

Tháng 5 - 1958 Đại hội đại biểuĐảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ V được tổ chức tại đình làng Thôn A, xã Xuân Quang, đồng chí Ngô Đức, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã biểu dương những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện giành được, tâp trung bàn định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ trong nhiêm kỳ là: cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và thợ thủ công, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẻ đi dần vào tổ đổi công, rồi tiến lên HTX nông nghiệp bậc thấp, tiến lên HTX nông nghiệp bậc cao, hợp tác hoá phải gắn liền với cơ giới hoá và thủy lợi hoá.

Đối với thương nghiệp, Đảng bộ đề ra chủ trương thành lập các HTX mua bán và HTX tín dụng, thành lập các HTX tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho thợ thủ công.

Đại hội xác định nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chính trị là : Đảng bộ phải tập trung xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể và đội ngũ cánbộ,đảng viên vững mạnh, Đại hội đãbầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá V, gồm 19 đồng chí, đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Hồ Sĩ Nhân làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBHC huyện.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp ở Thọ Xuân trở thành phong trào rộng lớn đều khắp. Từng xã tiến hành tổ chức cho nông dân học tập Điều lệ Hợp tác xã và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về hợp tác hoá nông nghiệp.

Huyện thành lập Ban chỉ đạo để tuyên truyền giáo dục hướng dẫn nông dân gia nhập HTX, chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] làm điểm chỉ đạo chính và 4 điểm phụ: Đông Phương Hồng [Thọ Hải], Đại Long [Xuân Quang], Hồng Kỳ [Xuân Thọ], Thu Đông [Xuân Thịnh].

Qua hai đợt phát động, đợt 1 từ cuối năm 1958 đến đầu năm 1959 ở 6 xã đã có 621 hộ nông dântự nguyện nộp đơn vào HTX. Đợt 2 vào cuối năm 1959 ở 12 xã có 4.281 hộ nông dân vào HTX.

Để thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hộì chủ nghĩa, từ ngày 5 đến ngày 15 - 4 -1959 Tỉnh uỷ tiến hành tổ chức Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ : tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, người buôn bán nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu Đảngbộ tỉnh, tháng 12 năm1959, Đại hội đại biểu Đảngbộ huyện lần thứ VI được khai mạc tại thôn Cộng
Hoà xã Thọ Ngọc [Triệu Sơn], đồng chí Lê ThếSơn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đề ra nhiệm vụ trọng tâm của huyện là: Tĩếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, phấn đấu đến năm 1960 - 1961 có từ 90% số hộ nông dân tự nguyên gia nhập HTX nông nghiệp.

Đại hội được nghe một số háo cáo điển hình vê xây dựng HTX của HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc], Thắng Lợi [Xuân Thành], Bát Căng [Thọ Nguyôn], Đại Long [Xuân Quang], HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] có phong trào sản xuất giỏi và các mặt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của quần chúng phát triển khá tốt, được nhiều đơn vị trong huyện và các huyện bạn đến tham quan học tập. Hợp tác xã Cộng Hoà đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đề cập vấn đề đẩy mạnh phát triển sản xuất, phục hóa tăng vụ, chú trọng công tác thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, cải tiến công cụ sản xuất, phát động nhân dân đóng góp cổ phần xây dựng hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế, văn hoá, văn nghệ, thể dục - thể thao...

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 Ủy viên chính thức và 2 Ủyviên dự khuyết.Đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch huyện.

Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng hộ huyện lần thứ VI, năm 1960 phong trào thi đua, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đã diễn ra sôi nổi trên địa bàn huyện.

Phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp phát triển rộng khắp ở 36 xã. 100% gia đình cán bộ, đảng viên tự nguyện làm đơn gia nhập HTX.

Trong cải tạo công thương nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo các ngành tập trung ở 3 khu vực: thị trấn Thọ Xuân, phố Đầm [Xuân Thiên], Bái Thượng [Xuân Bái] đưa gần 2.000 lao động tiểu thương nghèo vào HTX và thành lập 5 HTX thủ công nghiệp: HTX Tương Lai làm thảm xuất khẩu, HTX Nông cụ, HTX may Trường Xuân, HTX Đông Xuân làm mành xuất khẩu, HTX Minh Tiến [sau chia thành 2 HTX là Minh Thành và Quyết Thắng].

Năm 1960, 3 cơ sở Nông - Bắc - Dược được nhập thành HTX mua bán huyện. Với tổng số cán bộ, nhân viên là 280 người, đảm nhiệm việc thu mua nông - lâm sản - thực phẩm - rau đậu của nông dân ở các vùng và bán phân phối các mặt hàng thương nghiệp phục vụ sản xuất, tiêu dùng.

Sự nghiệp giáo dục ở Thọ Xuân trong những năm 1959 - 1960 phát triển mạnh. Toàn huyện đã thanh toán xong nạn mù chữ. Phong trào thi đua dạy tốt - học tốt, xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa, phong trào học tập và làm theo Bắc Lý diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là trường Phổ thông cấp II Bắc Lương có phong trào làm đồ dùng phục vụ tốt cho việc dạy và học, giáo viên có nhiều giờ dạy tốt, học sinh có phong trào "Hàng cây em nuôi" và "Đường làng em sạch ", trường Thọ Nguyên với phong trào" Đội học tốt làm tốt ", trường Xuân Thành nhiều năm liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến, trường cấp I Thọ Hải điển hình về vở sạch, chữ đẹp, về lao động thể dục - vệ sinh, thường xuyên nề nếp.

Thời kỳ này Phòng Giáo dục huyện Thọ Xuân được thành lập, có sự tổ chức quản lý chuyên ngành giáo dục phát triển lên những đỉnh cao mới.

Năm học 1960 - 1961 hầu hết các xã mở lớp học Bổ túc văn hóa cấp I, cấp II, có hàng ngàn học viên được theo học. Trong đó đa số là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên.

Cùng với học văn hóa , Đảng bộ chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ, đảng viên và quần chúng. Nâng cao nhận thức về Cách mạng xã hội chủ nghĩa, và xây dựng quyết tâm chống Mỹ cứu nước.

Đảng bộ đã tích cực đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc, triển khai thực hiện triệt để các cuộc vận động lớn của tỉnh như: “Ba xây - Ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp xã”, “Đẩy mạnh các biện pháp khoa học thủy lợi ".

Bằng sự Đàng sự nỗ lực phấn đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã thực hiện thắng lợi kế hoạch 3 năm lần thứ nhất và lần thứ hai [1955 - 1957, 1958 - 1960] hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, văn hoá, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Với thành tích đạt được, Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân vững bước chuyển sang thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

II- ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THI ĐUA THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT [1961 - 1965]

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 05 đến 10 - 9 - 1960, định ra đường lối Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đôi với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Muốn đạt được mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hoá, về khoa học kỹ thuật, biến nước ta thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến.

Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V [từ ngày 25-2 đến 5-3-1961]. Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch 3 năm [1958 - 1960], đề ra chủ trương biện pháp thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965] và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã khẳng định: Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân trong tỉnh đã căn bản hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra nhiều khả năng mới, các ngành kinh tế, văn hoá bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh và có chiều hướng ngày càng tiến bộ, khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố, chính quyền các cấp ngày càng được tăng cường, Đảng bộ được rèn luyện là yếu tố quyết định mọi thắng lợi.

Từ thực tế cách mạng trong tỉnh, Đại hội đã quán triệt sâu sắc đường lối Cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra. Chuyển hướng mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng Đảng bộ mạnh về chính trị - tư tưởng - tổ chức.

- Củng cố khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh giữa 2 con đường, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp trên cả 3 vùng, chú trọng khu vực miền núi, nâng cao tổng sản lượng lương thực, thực phẩm, tạo điều kiện để phát triển sản xuất công nghiệp, đảm bảo đủ hàng tiêu dùng cho nhân dân. Đồng thời tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, vãn hoá, xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

- Ra sức củng cố quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn thâm độc của Mỹ - Diệm, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V đã được triển khai kịp thời rộng khắp. Toàn tỉnh dấy lên phong trào thi đua sôi nổi mạnh mẽ nhằm thực hiện 3 cuộc cách mạng “Cách mạng về quan hệ sản xuất, Cách mạng khoa học kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng văn hoᔠtrong đó Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.

Ngày19-5-1961 Ban thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghị quyết phát động phong trào “Thi đua đuổi kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” nhằm thúc đẩy các HTX trong tỉnh tiến nhanh - mạnh trên mọi lĩnh vực.

Hưởng ứng phong trào thi đua sôi nổi của nhân dân trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyên Thọ Xuân đã cố gắng vượt bậc trong việc thực hiên hợp tác hoá nông nghiệp.

Cuối năm 1961, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức HTX bậc thấp ở Thọ Xuân đã căn bản hoàn thành, toàn huyện xây dựng được 293 HTX với 98,2% số hộ vào HTX. Đầu năm 1962 có 98,69% số hộ vào HTX, 96% đất đai đưa vào làm ăn tập thể, xây dựng 116 HTX từ bậc thấp lên bậc cao [tức là HTX liên xóm liên thôn]. Thực hiên công hữu hoá toàn diện trâu, bò, ruộng đất. Nhiều HTX đã công hữu vườn cây, ao cá, vườn chè, đồi luồng...

Việc xây dựng HTX bậc cao thực sự tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, xác lập quan hệ sản xuất và quan hê xã hội mới ở nông thôn. Tạo ra bướcchuyển biến tiến bộ trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Tại hội nghị sơ kết phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại Phong do UBHC tỉnh tổ chức ngày 16-10-1961, HTX Xuân Lai đã được công nhận là “ Lá cờ đầu” về cải tiến nông cụ, chứng tỏ sự trưởng thành và tiến bộ của nhân dân huyện nhà.

Cùng với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, nông dân Thọ Xuân hưởng ứng chủ trương của Đảng, hăng hái tham gia mua cổ phần gia nhập HTX mua bán và HTX vay mượn tín dụng đạt 90%.

Năm 1961, nhờ sự chuyển đổi nhiều mặt trong sản xuất nông nghiệp nên cả 3 vụ lúa [màu] đều được mùa, bình quân mức thu nhập lương thực của nông dân toàn huyện đạt trên 300 kg/đầu người, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện, diện hộ thiếu đói được thu hẹp, đời sống văn hoá, tinh thần đang dần được nâng cao. Quan hệ sảnxuất [mới] cơ bản được xác lập. Chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Tạo ra những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân.

Đặc biệt: Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Đảng bộ nhân dân Thọ xuân đã tạo ra sự biến đổi căn bản trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, thể dục thể thao.

Toàn huyện đã xây dựng mở rộng hệ thống trường lớp [mỗi xã xây dựng 1 trường cấp I, trường cấp II, toàn huyện xây dựng mở rộng trường cấp III] đảm bảo cho con em đồng bào các dân tộc học tập. Phong trào thi đua xây dựng trường lớp và giảng dạy học tập đạt chất lượng cao được tỉnh đánh giá là một trong những huyện dẫn đầu. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá trong huyện được đầu tư xây dựng mới, được trang bị thuốc men và phương tiện chữa bệnh chăm lo sức khoẻ cho toàn xã hội. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển rộng và chất lượng cao: toàn huyện xây dựng 6 đội bóng chân giày, 23 đội bóng chân đất, 18 đội bóng chuyền. Các đội bóng chân giày Thọ Xuân đã từng thi đấu với các đội bóng của tỉnh trình độ chiến kỹ thuật không thua kém.

Các môn điền kinh: chạy, bơi lội đã từng đoạt giải cao trong các kỳ hội thao do tỉnh tổ chức. Sự nghiệp văn hoá - xã hội phát triển đã góp phần đưa thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN.

Trong không khí phấn khởi của nhân dân huyện nhà, tháng 12-1962 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VII đã diễn ra. Đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đề ra nhiệm vụ trọng tâm những năm tiếp theo là: xây dựng củng cố tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, thành lập các Đảng uỷ xã và mở các lớp đối tượngkết nạp đảng viên 6/1 nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên...

Về nông nghiệp, Đại hội chỉ rõ: Củng cố HTX, phát triển toàn diện, vững chắc, chú trọng cải tiến quản lý HTX đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tích cực thâm canh tăng vụ nâng cao năng suất và tổng sản lượng lúa và cây trồng. Tổ chức làm ruộng thí điểm [cấy thẳng hàng], đưa giống lúa có năng suất cao [như Mộc Tuyền, Quyết Thắng, Quyết Tiến, Nam Ninh] vào gieo trồng... Đẩy mạnh phong trào thi đua làm phân bùn ao, phân bắc, phân xanh, bèo hoa dâu. Thực hiện “sạch làng tốt ruộng”. Tổ chức phong trào làm thuỷ lợi, đào đắp kênh mương tưới tiêu khoa học, chủ động chống úng chống hạn. Cải tiến công cụ sản xuất [cày cải tiến, cày 51, bừa trục, bừa cỏ Nghệ An, xe cải tiến]. Phát triển chăn nuôi bảo vệ đàn gia súc, đảm bảo sức kéo và sinh sản. Thành lập xưởng Công nông [nông cụ] có mộc, rèn, cơ khí, sản xuất công cụ cầm tay, xe cải tiến phục vụ sản xuất cho nông dân... Tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, văn hoá xã hội của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Về an ninh - quốc phòng: Nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố an ninh quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 19 đồng chí [có 2 đồng chí là Ủy viên dự khuyết], 9 đồng chí là uỷ viênThường vụ. Đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Đồng chí Lê Văn Lữ, Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBND huyện. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đã có tác dụng to lớn, thúc đẩy các phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 7 - 1963, Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ VI tiếp tục chỉ đạo toàn dân thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 11-1963, Thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghi quyết về “Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi”.

Triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ các cấp, Huyện ủy Thọ Xuân đã tổ chức chỉ đạo nhân dân toàn huyện tiến hành các phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự...

Từ đầu năm 1962 Huyện uỷ đã chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] làm đơn vị chỉ đạo điểm về cải tiến quản lý HTX nông nghiệp. Quá trình tiến hành HTX Thắng Lợi đã thực hiện cải tiến quản lý sản xuất, quản lý tài vụ, xác định đúng mức khoán, thực hiện phân phối sản phẩm theo lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công cụ sản xuất, đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, tưới tiêu chủ động khoa học, đẩy mạnh làm phân bón, nâng cao trình độ thâm canh tăng năng suất cây trồng và giải phóng đôi vai [bằng các xe cải tiến]. Do cải tiến quản lý, HTX Thắng Lợi đã trở thành đơn vị dẫn đầu toàn huyện và được Huyện uỷ đúc kếtkinh nghiệm chỉ đạo phong trào cải tiến quản lý HTX nông nghiệp trên địa hàn toàn huyện.

Giữa lúc phong trào thi đua sôi nổi đang diễn ra trên mọi lĩnh vực, tháng 6-1962 Đảng bộ và nhân dân huvện Thọ Xuân vinh dự được đón đồng chí Lê Duẩn về thăm. Đồng chí đến thăm đồng ruộng, làng xóm HTX Thắng Lợi [Xuân Thành], biểu dương thành tích trong lao động sản xuất và thực hiện cải tiến quản lý HTX. Đồng chí mong rằng Thọ Xuân sẽ có nhiều điểm sáng như Thắng Lợi [Xuân Thành] và phấn đấu đưa năng suất lúa, hoa màu cao hơn nữa...

Đáp ứng niềm mong muốn của đồng chí Lê Duẩn, những năm 1962 - 1965 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] đã phấn đấu đi lên toàn diện trở thành đơn vị Anh hùng Lao động.

Từ sau trận lụt lớn năm 1954 đến đầu năm 1960, Thọ Xuân đào đắp hàng triệu mét khối đất đá, tu sửa nâng cấp hoàn thiện các tuyến đê sông Chu, sông Cầu Chày và sông Hoàng. Nhân dân các địa phương, chuẩn bị đất dự trữ, phương tiện, lực lượngphòng chống lụt bão. Nhờ vậy, trận lụt lớn năm 1962 các tuyến đê không hề bị sụt lở, mùa màng, tài sản, tính mạng của nhân dân trong huyện được an toàn.

Cùng với đắp đê, phòng chống thiên tai, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân không ngừng tiến công mạnh mẽ trên mặt trận thuỷ lợi. Nhiều công trình thuỷ lợi trọng điểm được tập trung xây dựng, tu bổ, hàng trăm con mương tiểu câu được đào đắp đưa nước vào đồng ruộng. Trạm bơm Xuân Vinh xây dựng hoàn thành đã tưới nước cho các xã Thọ Trường, Xuân Vinh, Xuân Tân, Xuân Lập, Xuân Lai, Xuân Minh. Đào đắp hệ thống kênh mương [mới] dẫn nước tưới cho các xã Thọ Tân, Thọ Dân, Xuân Lộc, Xuân Thịnh. Xây dựng hệ thống thuỷ nông Cầu Nha phục vụ nước tưới cho các xã vùng tả ngạn [sông Chu]. Đào đắp hệ thống mương tiêu thuỷ chống úng, đào kênh Trường Giang ra đồng Ba Chạ. Đắp tiểu câu dẫn nước tưới cho vùng Thọ Xương. Xẻ tiểu câu đưa nước tưới cho vùng giáo Bích Phương, Ngọc Lạp.

Chỉ tính trong năm 1962, toàn huyện đã động viên 1.5 triệu ngày công, hoàn thành đào đắp 2 triệu mét khối đất đá trên các công trường nông giang, chi giang 6, đê sông Chu, sông Mực...

Do làm tốt công tác thuỷ lợi, Thọ Xuân đã chuyển được 1.000 ha đất hoa màu sang sản xuất lúa [2 vụ], chủ động tưới tiêu cho cây trồng.

Năm 1963 Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba về công tác thuỷ lợi.

Năm 1964 - 1965 Thọ Xuân tiếp tục huy động lực lượng lớn [với hàng ngàn lượt dân công, vật tư kỹ thuật, lực lượng cơ giới] tập trung vào đắp thêm 2 km đê bao quanh thị trấn Thọ Xuân phòng tránh lũ. Xây lắp cống ba cửa, cùng cống tiêu thuỷ, rút nước ngập úng từ cánh đồng Ba Chạ. Tuy phải hy sinh cục bộ một phần diện tích đất đai của xã Xuân Trường, Thọ Hải, thị trấn Thọ Xuân nhưng đã có tác dụng cứu úng cho hàng ngàn ha đồng ruộng của vùng Triệu Sơn

Nhờ làm tốt công tác đắp đê phòng chống lũ lut, xây dựng mở mang công trình thuỷ lợi, Tho Xuân đã giải quyết tốt việc chống úng, chống hạn, góp phần vào việc cải tạo đồng ruộng, nâng cao trình độ thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, bảo vệ an toàn mùa màng, tài sản, tính mạnh nhân dân. Góp phần đẩy lùi đói nghèo, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hôi.

Để tiếp tục chỉ đạo nhân dân toàn huyện phấn đấu hoàn thành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII được tiến hành trong 3 ngày: từ ngày 21 đến ngày 23-3-1963. Đồng chí Nguyễn Trong Vĩnh, Bí thư Tinh Uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã đánh giá các mặt thành công và hạn chế trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, trong xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị, đời sống xã hội... Công bố việc Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tăng trưởng, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển tiểu thủ công nghiệp, chuyển một số HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao, bồi dưỡng đội ngũ bộ phận sản xuất, cán bộ HTX, củng cố phong trào hợp tác sử dụng, thực hiện 3 khoán: Khoán cho nhóm, công việc, công ty điểm. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công việc thương mại, tài chính, ngân hàng.Nâng cao trình độ, dân trí, sức khỏe, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, vệ sinh, thể dục thể thao. Nâng cao giác ngộ chính trị cho bộ phận và nhân dân, mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, xây dựng lực lượng vững chắc, sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến.

Tăng cường giáo dục và nâng cao chất lượng, chú ý phát triển trẻ, xây dựng chi bộ Đảng ở nông thôn phát triển toàn diện và vững chắc.Nâng cấp đời sống nhân dân nhằm mục đích hoàn thành lợi ích của Đảng và Nhà nước trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội bầu Ban chấp hành đảng bộ gồm 21 ủy viên chính thức, 2 Ủy viên dự khuyết, 9 Ủy viên thường vụ, đồng chí Nghiêm Quý Ngãi được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Văn Lữ làm Phó Bí thư Chủ tịch huyện.

Trong những năm 1963 - 1964, cuộc vận động cải tiến công việc quản lý HTX,cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp bước vào giai đoạn củng cố và đưa HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao. Cải tiến hệ thống thủy lợi, tưới tiêu khoa học, đắp bờ vùng, bờ thửa, đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất [Nông nghiệp 8, Nông nghiệp 5, Khe nam lùn], thay vụ chiêm bằng vụ lúa xuân, thêm vụ màu, mở rộng dịch vụ, tích cực phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng. HTX Đông Phương Hồng là một trong những đơn vị có trình độ thâm canh tăng năng suất lúa đã được bác học Lương Đình Của chọn làm điểm chỉ đạo sản xuất các loại lúa mới để nhân rộng trên địa bàn nhiều tỉnh.

Nhờ áp dụng tốt các biện pháp khoa học kỳ thuật vào sản xuất, Thọ Xuân đã thành hình điển hình của tỉnh trong phong trào thi đua 5 tấn vàHTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Đông Phương Hồng [Thọ Hải] ngọn cờ tiêu biểu về thâm canh tăng năng suất lúa. Năm 1964 đạt 6,6 - 6,8 tấn thóc/ha.

Tại Thọ Xuân, trong 3 ngày [từ 15 đến 17-6-1964] Tỉnh ủy, UBHC tỉnh mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm thâm canh, tăng năng suất của HTX Đông Phương Hồng.Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương và các đại biểu tỉnh bạn, các nhà khoa học đã tham gia Hội nghị.

Tổng hội nghị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh khen ngợi Đông Phương Hồng có một chi bộ mạnh, với 24 đảng viên, tỷ lệ nữ khá [8 đồng chí] đội ngũ cán bộ hái nhiệt tình, có tinh thần cách mạng tiến công.Đồng ruộng của Đông Phương Hồng có hệ thống kênh mương máng hoàn chỉnh, chủ động tưới tiêu khoa học, bờ vùng, bờ thửa thẳng hàng vững chắc trông đẹp mắt.Từ kinh nghiệm thực tế sinh động sáng tạo này, mong rằng Đông Phương Hồng sẽ còn tiến mạnh hơn nữa ...

Từ sau hội nghị tổng kết tại Thọ Xuân, phong trào nhanh chóng và vượt qua Đông Phương Hồng đã trở thành phong trào thi đua sâu rộng trong toàn tỉnh.

Năm 1963 - 1965 thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về "Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi", năm 1962 Đảng bộ đã phát động nhân dân ở một số xã đi khai hoang xây dựng quê hương mới ở vùng trung du của huyện.

Ở Thọ Xuân có 54 xã với 293 HTX nông nghiệp, ruộng đất bình quân trên dưới 2 sào/khẩu. Một số xã dân số đông, đất sản xuất nông nghiệp ít nhưXuân Yên, Phú Yên, Tây Hồ, Xuân Thành, Xuân Khánh, Hạnh Phúc bình quân chỉ trên dưới 1 sào/khẩu.Vì thế nhiều vùng dân cư phải chợ búa ngược xuôi.Trong khi ở vùng trung du dân cư thưa thớt, đất đai màu mỡ, diện tích bỏ hoang nhiều.Vì thế tổ chức cho nhân dân một số xã mật độ dân số cao xây dựng vùng kinh tế mới là việc làm cần thiết để thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ.Với phương châm: Vừa tiến hành thực hiện vừa mở rộng diện tích sản xuất, bố trí lại dân cư, phân bổ lao động phù hợp giữa các vùng kinh tế trong huyện, vừa xây dựng quê hương mới, phát triển kinh tế - văn hóa vùng trung du của huyện và đi xây dựng kinh tế mới ở các huyện miền núi Thanh Hóa. The Thực hiện tốt chủ trương trên, Đảng bộ chỉ đạo các cấp, các tổ chức ngành cho nhân dân học tập, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc "khai hoang xây dựng phát triển vùng kinh tế mới"

Buớc đầu đưa ra thanh niên đi khai phá, sau đó đưa các hộ gia đình đến làm nhà cửa, tiếp tục khai phá đất đai tổ chức sản xuất.Thực hiện chính sách khuyến khích giúp đỡ đồng bào đi khai hoang, đồng thời phát động nhân dân ở địa phương đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn buổi đầu.

Đồng chí Chủ tịch xã Tây Hồ đã cùng gia đình và 20 hộ vào Đồng Cáo xã Thọ Bình khai hoang xây dựng HTX mới. Đồng chí Chủ tịch xã Xuân Yên cùng gia đình và 19 hộ gia đình ở làng Mác, làng Quảng [Thọ Bình] khai hoang thành lập HTX. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Phú Yên cùng gia đình và 25 hộ gia đình đến Đồng Chó xā Xuân Cẩm, Xuân Dương khai hoang thành lập làng mới. Đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy xã Xuân Thành cùng gia đình và 25 hộđến xã Ngọc Phụng khai hoang thành lập HTX [nay thuộc huyện Ngọc Lặc]. Đồng chí chủ nhiệm HTX Hồng Kỳ xã Xuân Bái tình nguyện đem 32 hộ sang Thường Xuân khaihoang thành lập HTX Tân Lập [trong đó có 8 hộ thương nghiệp ở Bái Thượng]. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Thọ Diên cùng 22 hộ đivề 2 xã Cao Thịnh và Thái Sơn [Ngọc Lặc] khai hoang phát triển kinh tế. Xã Thọ Nguyên đã tích cực vận động được 68 hộ = 237 nhân khẩu đi định cư khai hoang tại Thường Xuân và Ngọc Lặc.

Từ năm 1962 đến năm 1964, 18 xã đông dân cư như Xuân Yên, Phú Yên, Xuân Thiên, Xuân Khánh, Hạnh Phúc, Tây Hổ, Xuân Lai, Thọ Trường, Thọ Nguyên ... đã vận động gần 500 hộ, gồm 1.680 khẩu đi xây dựng quê hương mới tại các xã Phùng Giáo, Kiên Thọ [Ngọc Lặc], Khe Hạ, Xuân Cao, Xuân Cẩm [Thường Xuân], Thọ Bình, Thọ Sơn [Triệu Sơn], Xuân Thắng, Xuân Phú [Thọ Xuân]. Đã khai hoang đưa vào sản xuất 560 ha đất, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế khá tốt. Riêng xã Thọ Nguyên đã vận động 68 hộ gồm 237 khẩu đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới.

Các gia đình đi khai hoang xây dựng quê hươngmới tích cực phấn đấu được chính quyền và nhân dân địa phương giúp đỡ tận tình, nhờ đó đời sống kinh tế,văn hóa dần dần phát triển, nhiều khu vực khai hoang lập làng mới trở thành vùng kinh tế trù phú.Nhiều HTX khai hoang trở thành mô hình tốt về tổ chức sản xuất.

Năm 1961-1962 ngành Thương mại phát triển mạnh, Huyện chủ trương phân chia thành các cửa hàng ăn uống, thực phẩm, bách hóa và mua bán tập thể. Mở thêm một số quầy, cụm thu mua nông sản, thực phẩm làm đại lý cho Mậu dịch quốc doanh.

Năm 1963, nhân dân trong huyện đã bán cho Nhà nước trên 800 tấn nông sản các loại, cung cấp nguyên liệu cho một số nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện, xuất khẩu một số mặt hàng. Khai thác trên 9.000 mét khối gỗ và hơn 1,5 triệu cây luồng, nứa cung cấp cho các công ty trong huyện ...

Huyện chỉ đạo ngành Tài chính, Thương nghiệpthực hiện cuộc vận động “Ba xây, Ba chống”. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức cần kiệm, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động sản xuất và công tác. Kiên quyết định chống tham ô và lãng phí, quan liêu. Nâng cao quan điểm phục vụ. Khắc phục xu hướng kinh doanh đơn thuần, thiếu tính hợp tác xã hội chủ nghĩa.

Huyện chủ trương đào tạo tổ chức bố trí từ 25 đến 30% lao động trong các HTX nông nghiệp làm các ngành nghề tiểu thủ, hướng tới xây dựng các HTX tiểu thủ công nghiệp vào đầu năm 1970. Nhằm giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định xã hội.

Năm 1962 ngành Giáo dục Thọ Xuân được vinh dự đón Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên. Bộ trưởng đã đi thăm một số trường tiêu biểu: Thọ Hải, Thọ Nguyên, Thọ Lâm, Phú Yên, Xuân Minh, Xuân Hoà, Bắc Lương, và khen ngợi sự nghiệpgiáo dụcở Thọ Xuân đã xây dựng được nhiều trường tiên tiến, làm cho sự nghiệp giáo dục trở thành sự nghiệp chung của Đảng bộ, nhân dân toàn huyện. Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã đầu tư xây dựng mở rộng lớp hệ thống trường lớp, mua sắm trang thiết bị học tập đảm bảo cho thanh thiếu niên trong huyện có điều kiện học tập phát triển tài năng.Số lượng học sinh năm sau cao hơn năm trước.

Tính đến năm 1962, toàn huyện có 9.617 học sinh vỡ lòng, có 20.022 học sinh cấp I với 56 trường 482 lớp, có 2.011 học sinh cấp II với 7 trường 62 lớp, có 597 học sinh cấp III với 12 lớp. Bổ túc văn hóa cấp I có 5.371 học viên, cấp II có 1.709 học viên, cấp III có 180 học viên. Năm 1962, huyện thành lập thêm 3 trường phổ thông chức năng ở Xuân Lập, Thọ Hải, Xuân Thịnh. Học viên được học văn hóa hết cấp II, vừa học văn hóa, vừa thực hiện kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.

Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế, văn hóa, thể dục thể thao được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức các hoạt động.

Hệ thống bệnh viện huyện, tạm xá xã cung cấp đầy đủ thuốc men và phương tiện chữa bệnh. Đội ngũ thầy thuốc được tăng cường về số lượng và được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn; khả năng chữa bệnh. Trạm xá xã trồng 45 loại thuốc nam chữa bệnh thông thường và kết hợp đông - tây y trong chuẩn đoán và điều trị bệnh tật.

Huyện chỉ đạo xây dựng, cùng cố và đầu tư kinh phí hoạt động cho các đội văn nghệ, bóng đá, bóng chuyền. Nhờ đó phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng phát triển mạnh, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân tích cực xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên què hương thân yêu của mình.

Kiên quyết đập tan âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, dưới sự chỉ đạo của Huyện Ủy, quân và dânThọ Xuân đã kết hợp công an đập tan tổ chức phản động do Lường Mạnh Huân cầm đầu.

Lường Mạnh Huân quê xã Hoàng Lưu, huyện Hoằng Hóa.Trong kháng chiến chống Pháp, y tham gia tổ chức phản động "Liên tôn diệt cộng", cải cách ruộng đất bị quy thành phần địa chủ phản động, bị kết án 5 năm. Y đã trốn ra Hà Nội, lên Sơn La chui vào cơ quan Nhà nước, sau đó trở về Hoằng Hóa tiếp tục con đường chống phá cách mạng. Y đã liên hệ với phản động tổ chức cái gọi là “Đảng Cách mạng quốc gia Việt Nam” xây dựng chân rết tổ chức ở các huyện: Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Thường Xuân, Lang Chánh, Yên Định, Hoằng hóa, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc ...

Tại Thọ Xuân: Năm 1959, Huân đến xứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú] liên hệ với một số phần từ phản động gây dựng cơ sở. Sau đó sang khu Hữu Lễ liên lạc Lý Xuân xây dựng cơ sở ở khu vực đồng bào Mường thuộc các xã giáp ranh 2 huyện Thọ Xuân - Ngọc Lặc. Sau đó mở rộng các lớp nói trên.

Đến tháng 4 - 1962 tổ chức phản hồi Lường Mạnh Huân đã xây dựng được 1l chi bộ, gồm 157 cấp viên, sau đó phát triển lên 347 đảng viên và mở rộng hoạt động ở khu vực miền núi Thanh Hóa. Riêng Thọ Xuân và Ngọc Lặc tay chân của họ đã được bầu vào Ban chấp hành của huyện.

Chủ trương của chúng thời kỳ đầu không hoạt động vũ trang mà chỉ xây dựng tổ chức và tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, tìm cách mua chuộc, cưỡng ép, tha hoá cán bộ ... Chúng cấu kết Mỹ - ngụy ở Sài Gòn thông qua con đường liên hệ với quán sứ của Diệm ở Viên Chăn [Lào] xin vũ khí, phương tiện chiến tranh và người chỉ đạo.

Được nhân dân địa chỉ theo dõi phát hiện và trình báo,Ty Công an tỉnh đã điều tranắm bắ âm mưu thủ đoạn và hoạt động của chúng. Ngày 26-3-1962 quyết định thành lập chuyên án T 236 ", cử đồng chí Tống Xuân Nhuận, Phó ty trực tiếp chỉ đạo thực hiện chuyên án.

Ngày 25-4-1962 Thường vụ Tỉnh Ủy chỉ thị Ty Công an phá án với chiến thuật nhanh chóng. Lường Mạnh Huân và Nguyễn Tiến Sinh, Nguyễn Vân Chức dã bị bắt tại cầu Thiều [trên đất Nông Cống, nay thuộc Triệu Sơn], cùng 109 tên đầu sỏ khác.

Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án, tuyên phạt Lường Mạnh Huân tử hình, 25 tên tòng phạm nguy hiểm lĩnh án tù giam từ 3 đến 20 năm. Năm 1963 Tòa án tối cao phê duyệt y án tử hình Lường Mạnh Huân và tổ chức thi hành án tại Sân vận động Bái Thượng [Thọ Xuân].

Giữa lúc nhân dân cả nước đang hăng hái thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961-1965], vào tháng 3-1964, Tổng thống Mỹ L. Giôn Xơm đã phê chuẩn kế hoạch ném bom miền Bắc [thông qua 94 mục tiêu, trong đó Thanh Hóa là một trọng điểm đánh phá lớn] hòng phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, ngăn chặn việc tiếp tế cho cách mạng miền Nam, nhằm cứu nguy cho chiến lược chiến tranh đặc biệt đang có nguy cơ bị sụp đổ.

Trước tình hình đó, ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt và cất tiếng gọi "Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt".

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6-5-1964, Ban Thư ký Tỉnh ủy ra chi thị cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đề cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hành độngkhiêu khích phá hoại của giặc Mỹ và ngăn chặn kịp thới hành động chống phá của bọn phản động.

Cũng như Đảng bộ và nhân dân các huyện, thị trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân kịp thời chuyển hướng từ thời bình sang thời chiến, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường côngtác quốc phòng, sẵn sàng đối phó với tình hình địch mở rộng quy mô trên toàn miền Bắc.

Huyện chỉ đạo hướng dẫn tổ chức nhân dân ở mỗi gia đình, ngõ xóm, làng xã, trong toàn huyện đào hào trú ẩn, tích cực bảo mật phòng gian. Cùng với các ban, ngành chuyên môn lập phương án bảo vệ vùng trọng điểm như: Đập Bái Thượng, Nhà máy Điện Bàn Thạch, các kho hàng, lương thực, sân bay Sao Vàng, mở đường giao thông chiến lược, đẩy mạnh công tác củng cố, huấn luyện, trang bị cho lực lượng dân quân, tiến hành đăng ký quân dự bị ...

Nhận rõ vai trò quan trọng của lực lượng quân đội đóng trên địa bàn, Đảng bộ huyện đã tích cực, động viên nhân dân đóng góp công sức, cùng với bộ đội đào đắp công sự, ụ pháo ra đa, làm lán trại, đào hầm hào đóng góp vật liệu [luồng, gỗ, tranh, tre, nứa, lá]. Nhân dân ở các xã Xuân Phú, Xuân Thắng, Thọ Lâm, Xuân Hưng, Xuân Bái, Xuân Hoà, Thọ Hải ... đã ủng hộ bộ đội số lượng vật liệu lớn. Các chi đoàn, xã đoàn, các đội thiếu niên đã tổ chức kết nghĩa với các đơn vị bộ, xây dựng tình cảm "Quân dân thắm thiết".

Sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến, ngay trong năm 1964, huyện đã tổ chức tiểu đoàn gồm 300 chiến sĩ tình nguyện đi tiền phương, trang bị lương thực, thực phẩm 10 ngày và long trọng làm lễ xuất quân bàn giao cho tỉnh tại 2 xã Xuân Phú, Xuân Thành.

Với tinh thần "Tất cả vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai". Nhiều hợp tác đã phát động phong trào thi đua "5 tấn thắng Mỹ" điển hình là HTX Thắng Lợi, HTX Đông Phương Hồng ... Nhiều “Cánh đồng 5 tấn” xuất hiện trên địa bàn huyện.

Huyện chỉ đạo toàn dân làm đường giao thông liên hương, liên xã, tích cực làm nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến với tinh thần"Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", thi đua sản xuất xây dựng quê hương, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội được Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đặc biệt quan tâm. Hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 330 và một số đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn đã được Đảng bộ, nhân dân huyện nhà cung cấp lương thực, thực phẩm, cho mượn nhà, mượn đất để xây dựng doanh trại đóng quân và tập luyện.Cán bộ, chiến sĩ ốm đau, các mẹ, các chị thăm nuôi giúp đỡ.Thanh niên các địa phương kết nghĩa với từng đơn vị, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và huấn luyện quân sự. Bằng tình cảm dân quân cá nước, Sư đoàn đã được xây dựng cho con em xã Tây Hồ trường cấp I và cấp II gồm hàng chục phòng học. Sư đoàn đã tham gia xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Bàn Thạch, đắp đê, chống úng, chống hạn.Sư đoàn đã tham gia xây dựng các Lâm trường Sông Âm, Lam Sơn, Thống Nhất ... Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 330 đã để lại hình tượng cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong trái tim nhân dân Thọ Xuân. Tình cảm cao quý của Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân tiếp thêm sức mạnh cho Sư đoàn chiến đấu và chiến thắng.

Việc thực hiện chính sách đối với các gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được cụ thể chi tiết hóa. Giải quyết việc làm cho các chiến sĩ còn sức khỏe, phân công chăm nuôi thương binh nặng, giúp đỡ tạo điều kiện cho con em thương binh, liệt sĩ học tập, thăm hỏi giúp đỡ các gia đình neo đơn khó khăn ...Thanh thiếu niên tổ chức các phong trào đền ơn đáp nghĩa các gia đình chính sách, phụ nữ chăm lo cho thương binh, các gia đình liệt sĩ, HTX thực hiện chính sách điều hoà lương thực, giúp đỡ cày cấy, xây dựng nhà cửa, chăm sóc lúc ốm đau ... Việc thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đã tạo ra động lực cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ công tác chiến đấu trên các chiến trường lập công xuất sắc

Xây dựng Đảng bộvà hệ thống vững mạnh, nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi cho việc tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trong những năm 1961 - 1965 Đảng bộ tập trung vào nhiệm vụ tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận. Đồng thời tích cực bồi dưỡng kết nạp đảng viên, đặc biệt là đảng viên nữ trẻ khỏe, có năng lực trình độ, đào tạo đội ngũ nữ sẵn sàng thay thế nam giới ... xây dựng hệ thống tổ chức mạnh từ Đảng bộ xã đến chi bộ HTX.

Hội đồng nhân dân, UBHC và đoàn thể quần chúng: Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ... đã thực hiện tốt chức năng, tổ chức đoàn kết chỉ đạo toàn dân xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc Các nội chính ngành: Tòa án, Công an, Kiểm sát không ngừng củng cố về tổ chức và nghiệp vụ, tích cực đi về cơ sở [HTX] để tuyên truyền, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố HTX, đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ quyền lợi tinh thần, vật chất cho nhân dân.

10 năm hòa bình xây dựng quê hương, bằng sự phấn đấu nỗ lực, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã kiên cường dũng cảm và sáng tạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa, hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, tạo ra thực lực to lớn góp phần cùng quân dân cả tỉnh, cả nước đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của giặc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trào lưu dân tộc bản địa dân chủ 1919 – 1930 – Lịch sử dân tộc 12- Cô giáo Lê Thu


Trào lưu dân tộc bản địa dân chủ 1919 – 1930 là vấn đề rất quan trọng trong quá trình học tập cũng như ôn luyện thi THPTQG. việc này được Cô Lê Thu – giáo viên nổi tiếng và tay nghề cứng phân tích rất chặt chẽ và kĩ lưỡng qua các nội dung cụ thể như sau:

– Các nhân tố tác động đến trào lưu dân tộc bản địa dân chủ ở Việt Nam [1919 – 1930].

– Sự tồn tại song song của hai khuynh hướng [vô sản và tư sản] – là đặc điểm lớn số 1 của trào lưu dân tộc bản địa dân chủ [1919 – 1930].

– Khẳng định khuynh hướng cứu nước theo hàng phố Cách mệnh vô sản là khuynh hướng khách quan, đúng đắn, phù phù hợp với thực tiễn lịch sử vẻ vang Việt Nam.

– Học trực tuyến tại: //tuyensinh247.com

– Fanpage: //fb.com/luyenthi.tuyensinh247/

Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [407.63 KB, 40 trang ]

THẢO LUẬN
Tên: Đường lối Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Họ và tên: Vũ Thị Mai Nga.
Lớp: DHK604A
Nội Dung
I, Đặc điểm chung.
Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ đòi
hỏi phải có sự lãnh đạo của một đảng cộng sản thống nhất. Sự tồn tại
và hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng sản làm cho lực lượng và
sức mạnh của phong trào cách mạng bị phân tán. Điều đó không phù
hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của đảng cộng
sản.
"Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông
Dương", chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động triệu tập "đại biểu của hai
nhóm [Đông Dương và An Nam]" và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng
tại Cửu Long [Hương Cảng, Trung Quốc]
Hội nghị hoàn toàn nhất trí, tán thành việc hợp nhất hai tổ chức
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một
đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt
của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt và xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản".
Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công
nông binh và tổ chức quân đội công nông.


Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc
1


giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và
nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám
giờ.
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình
quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm
vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận
giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh
đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,
trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng [như Đảng Lập hiến] thì phải đánh đổ.
Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh. "Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải
rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông
mà đi vào đường thỏa hiệp"2.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng
sản. "Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng".
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, "liên
kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới

nhất là với quần chúng vô sản Pháp".
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu
2


khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai
cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách
mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng
sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn,
ngay từ khi ra đời Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai
cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm và đồng
thời là một ưu điểm của Đảng, làm cho Đảng trở thành lực lượng lãnh
đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa nhận
là đội tiền phong của mình, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm và
trí tuệ của dân tộc.
II, Nội dung đường lối
1. Luận cương chính trị tháng 10/1930:
Tháng 4/1930, sau thời gian học tập ở Liên Xô, Trần Phú được
Quốc tế cộng
sản cửa về nước họat động. Tháng 7/1930, Trần Phú được bổ sung vào
Ban chấp hành Trung ương Đảng. Từ ngày 14 – 30/10/1930, Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp tại Hương Cảng [Trung
Quốc] do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua nghị quyết về tình
hình hiện tại của Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp
của Đảng; thảo luận Luận cương chính trị, điều lệ Đảng và điều lệ các tổ
chức quần chúng. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế cộng sản, hội nghị
quyết định đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản

Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức và
cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.
Nội dung của Luận cương:
- Luận cương đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa
nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản của cách
mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân
lãnh đạo.
- Luận cương chỉ rõ: mâu thuẫn giai cấp diễn ra găy gắt giữa một
bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là
địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Luận cương vạch ra phương hướng chiến lược của cách
mạng Đông
Dương là: lúc đầu cách mạng Đông Dương là cuộc “cách mạng
tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế, “tư sản dân
3


quyền cách mạng là
thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư
sản dân
quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà
tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
- Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân
quyền là: Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất
triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan
hệ khăng khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới
phá được giai cấp địa chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa
thắng lợi, và có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh
đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong 2 nhiệm vụ này, Luận cương

xác định “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền” và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
- Về lực lượng cách mạng: luận cương chỉ rõ, giai cấp vô sản
vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa là
giai cấp lãnh đạo cách cách mạng. Dân cày là lực lượng đông
đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương
nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ
19

4


chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía
quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ
theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công
nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không
tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc
gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc
trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như
những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất
nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: luận cương chỉ rõ, để đạt được
mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và
phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra sức
chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”.
Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật,
“phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới:
luận cương khẳng định, cách mạng Đông Dương là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông

Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước
hết là giai cấp vô sản Pháp,và phải mật thiết liên lạc với phong
trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở
rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở
Đông
Dươn
g.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Luận cương khẳng định, sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi
của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có
kỷ luật tập trung, mật thiết liên hệ với quần chúng và từng trải
đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp
vô sản, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại
biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương,
đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ý nghĩa của Luận cương:
Từ nội dung cơ bản nêu trên, có thể thấy Luận cương chính trị
khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu ra. Bên cạnh mặt thống
nhất cơ bản, giữa Luận cương chính trị với Cương lĩnh đầu tiên có mặt
khác nhau. Luận cương không nêu ra được mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ
5


đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; đánh giá không
đúng mức vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích
cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo một
phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó Luận
cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp

rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân chủ yếu của sự khác nhau:
- Thứ nhất, Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những
đặc điểm của xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.

6


- Thứ hai, do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc
và giai cấp trong cách mạng ở thuộc địa và lại chịu ảnh hưởng
trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc tế cộng sản và một số
Đảng cộng sản trong thời gian đó.
Chính vì vậy, hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 10/1930
đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ
của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong Đường cách mệnh, Cương lĩnh đầu
tiên
2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân [1945 – 1954]:
a. Hoàn cảnh lịch sử:
Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố
Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây ra nhiều cuộc
khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo
tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm
phán, thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội,
để cho chúng kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19/12/1946, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại làng Vạn
Phúc [Hà Đông] dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch
định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để
đàm pháp song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của

Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng
hòa hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Trong
thời điểm lịch sử phải quyết đoán ngay, hội nghị đã hạ quyết tâm phát
động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi
thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính
quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20
giờ ngày
19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng.
Rạng sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ
Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập tự do của
dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên ta có chính nghĩa, có “thiên
thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên
về lâu dài ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong khi đó,
thực dân Pháp có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong
nước và tại Đông Dương không dễ khắc phục được ngay.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta
bị bao vây
7


4 phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ
khí tối tân,
đã chiếm đóng được 2 nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ
Việt Nam, có
quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở
miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn là cơ
sở để Đảng

xác định đường lối cho cuộc kháng
chiến.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến:
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua
thực tiễn đối
phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực
dân Pháp.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc, Đảng đã xác định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất
của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu
tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ

8


đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã
chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất
bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19/10/1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở hội nghị quân
sự toàn quốc lần thứ nhất do Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất
phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình
cũng nhất định phải đánh Pháp”,
hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để
quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị
Công việc khẩn cấp bây giờ [5/11/1946], Hồ Chủ tịch đã nêu lên những
việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và
khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và
thể hiện tập trung trong 3 văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát
trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện

Toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng [12/12/1946], Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh [19/12/1946] và tác phẩm
Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.
Nội dung đường lối:
- Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách
mạng tháng Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;
giành thống nhất và độc lập”.
- Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là
một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh
chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài”. “Là
cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”.
Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới.
- Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống
phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân
tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân.
Thực hiện toàn dân kháng chiến… Phải tự cấp, tự túc về mọi
mặt”.
- Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: “Đoàn kết toàn dân,
thực hiện quân, chính, dân nhất trí… Động viên nhân lực, vật
lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng
chiến, trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo tòan
lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc.
Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện
kinh tế tự
túc…”.
9


- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh

nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính.
- Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là
người V.n phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

10


- Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân
sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao. Trong
đó:
o Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường
xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn
kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa
bình.
o Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân
dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động
chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… Vừa đánh
vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo
thêm cán bộ.
o Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự
cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
o Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây
dựng nền văn hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân
tộc, khoa học và đại chúng.

o Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương
thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động
thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận
Việt Nam độc lập.
o Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương
quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh
hơn địch, đánh thắng địch.
o Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi
mặt” vì ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ
nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ
tranh thủ sự giúp đỡ của các nước song lúc đó cũng không
được ỷ lại.
o Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó
khăn song
nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như
trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên,
đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất
11


nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm
có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát
triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 – 1950,
Đảng đã tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô
thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch

lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống
phá thủ đoạn “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh
người Việt” của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên

12


Giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của
địch, quân ta
giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường
chính Bắc Bộ.
Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương
có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa
công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân 3
nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi
dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều
kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sunh và hoàn chỉnh đường lối cách
mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương
họp Đại hội đại biểu lần thứ hai tại Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán
thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chí Minh
trình bày và ra nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành 3
đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của 3 dân tộc đi tới thắng
lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động
Việt Nam.
Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân
dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày
đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính
trị trước đây của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân. Đường lối đó được phản ánh trong Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung cơ
bản là:
- Tính chất xã hội: “xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính
chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.
Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ
yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và
tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong
quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân
Pháp và bọn can thiệp”.
- Đối tượng cách mạng: cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng:
Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ
thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng
phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản
động.
- Nhiệm vụ cách mạng: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách
mạng Việt
Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống
13


nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, làm
cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây
cơ sở cho
chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song
nhiệm vụ chính trước mắt là hòan thành giải phóng dân tộc. Cho
nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để
quyết thắng quân xâm lược”.
- Động lực của cách mạng: gồm “công nhân, nông dân, tiểu tư sản

thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là
những thân sĩ [địa chủ] yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp,
tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân
dân là công, nông và lao động trí thức”.

14


- Đặc điểm cách mạng: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói
trên do nhân dân lao động làm động lực, công nông và lao động
trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách
mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ
tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa”.
- Triển vọng của cách mạng: “cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân Việt
Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa
xã hội”.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Đó là một con đường đấu
tranh lâu dài, đại thể trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất,
nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn
thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến
và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát
triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ
ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách
rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau”.
- Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: “Người lãnh đạo

cách mạng là giai cấp công nhân”. “Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công
nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu
số ở Việt Nam”.
- Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội
và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi2.
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ,
phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân
thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt – Trung –
Xô và đoàn kết Việt – Miên – Lào.
Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua
các hội nghị Trung ương tiếp theo.
Tại hội nghị lần thứ nhất [3/1951], Đảng đã phân tích tình hình
quốc tế và
trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác
15


chỉ đạo chiến tranh, “củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố
bộ đội địa phương và dân quân du kích”; “gia cường việc lãnh đạo kinh
tế tài chính”, “thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh
doanh và góp vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp”, “tích
cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới”, “củng cố Đảng về tư
tưởng, chính trị và tổ chức”

16



Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ hai [họp từ ngày 27/9 –
5/10/1951] đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở
thực hiện tốt 3 nhiệm vụ lớn là “ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến
tới giành ưu thế quân sự”; “ra sức phá âm mưu thâm độc của địch: lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, đẩy
mạnh kháng chiến ở vùng bị tạm chiếm; “củng cố và phát triển sức
kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết”.
Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 [1/1953], vấn đề cách mạng
ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ
trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội
nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân
thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính
trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.
Đến hội nghị Trung ương lần thứ 5[11/1953], Đảng quyết định
phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất
trong kháng chiến. “Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến
thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước
nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì
làm sau”. “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một
cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp.
Cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh
đạo phải thật chặt chẽ…”.
Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế
trong giai đoạn 1951 - 1954.
c. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài
học kinh nghiệm:
* Kết quả và ý nghĩa lịch sử:

Kết quả của việc thực hiện đường lối:
- Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện
toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của đối với cuộc kháng
chiến. Bộ máy chính quyền 5 cấp được củng cố. Mặt trận Liên
hiệp quốc dân Việt Nam [Liên Việt] được thành lập. Khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách
ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người
cày có ruộng.
- Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có 6 đại
đoàn bộ binh, 1 đại đoàn côngbinh – pháo binh3. Thắng lợi
của nhiều chiến dịch đã đi

17


vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi
của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
- Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị,
quân sự và
ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng
với ta thì ngày 27/12/1953, Ban Bí thư ra thông tư nêu rõ: “lập
trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến
thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán
thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn đề
Việt Nam”. Ngày 8/5/1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến
tranh Đông Dương chính thức khai mạc ở Genéve [Thụy Sỹ].
Ngày 21/7/1954, các văn bản của Hiệp nghị Genéve về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và
dân ta kết thúc thắng lợi.

- Ý nghĩa lịch sử:
o Đối với nước ta: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường
lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm
thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được
đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công
nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước
Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài
chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc,
tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm
căn cứ, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng
thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
o Đối với quốc tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng
cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới cùng với nhân
dân Làovà Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa
của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một
nước thuộc địa nhỏ yếu đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó
là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một
thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên
18


thế giới”.
*. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm:
Nguyên nhân thắng lợi:

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là

19


- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến
đúng đắn đã huy động được sức mạnh toàn dân đánh giặc. Có sự
đoàn kết chiến đấu của toàn dân tâp hợp trong mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi - Mặt trận Liên Việt, được xây dựng trên
nền tảng khối liên minh công nông và trí thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân do Đảng trực tiếp lãnh
đạo ngày
càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực
lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí
xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân
được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ
chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa 3 dân tộc Việt
Nam, Lào, Campuchia cùng chống 1 kẻ thù chung. Đồng thời có
sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã
hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể
cả nhân dân tiến bộ Pháp.
Bài học kinh nghiệm:
Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc,
Đảng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quan trọng.
Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường
lối đó cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện. Đó là đường lối
chiến tranh nhân dân; kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào

sức mình là chính.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với
nhiệm vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây
mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu
là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng
chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm
lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu
dài. Đồng thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến
hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân
sự với đấu tranh ngoại giao, đưa
kháng chiến đến thắng lợi.
Thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến
đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
3. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC,
THỐNG NHẤT TỔ QUỐC [1954 – 1975]
20


a.Đường lối trong giai đoạn 1954 –
1964:
* Hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng
7/1954:
Sau Hiệp định Genéve, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận
lợi mới vừa
đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.
45

21



Thuận lợi:
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế,
quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là Liên Xô.
- Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á,
Châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
- Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản.
- Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho
cả nước.
- Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng
chiến.
- Có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí
Nam.
Khó khăn:
- Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, dâm mưu
bá chủ thế
giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
- Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang
giữa 2 phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
- Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa , nhất là
giữa Liên
Xô và Trung Quốc.
- Đất nước ta bị chia làm 2 miền: kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc
hậu. miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đế quốc
Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Một Đảng lãnh đạo 2 cuộc cách mạng khác nhau, ở 2 miền đất nước
có chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt
Nam sau tháng 7/1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi, khó khăn
nêu trên là cơ sở để Đảng phân tích, hoạch định đường lối chiến lược

chung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
* Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối.
Quá trình hình thành và nội dung đường lối:
Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng sau tháng 7/1954 là phải vạch
ra được đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình
hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm
vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc
điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào
một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà
tạm chia làm 2 miền; từ nông thôn chuyển vào
thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung.
Hội nghị lần thứ 7 [3/1955] và Hội nghị lần thứ 8 [8/1955] nhận
22


định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ. Điều cốt lõi là phải ra sức
củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của
nhân dân miền Nam.
Tháng 12/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã xác định
đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng: “Mục tiêu và
nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố
miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần từng bước
46

23


lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước

nhà trên cơ
sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa
bình”.
Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách
mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp hành Trung
ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận
định: “Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm 2
nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy có tính chất khác nhau, nhưng quan hệ
hữu cơ với nhau… nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”. “Con
đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”67. Đó là con đường “lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là
chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của
đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân
dân”68. “tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả
năng hòa bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần
dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả
năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần
ra sức tranh thủ khả năng đó”.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng
những đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi lên, mà còn thể hiện rõ
bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó
khăn của cách mạng.

Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói
trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách
mạng cả nước, được điều chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 –
10/9/1960. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là:
- Nhiệm vụ chung: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu
tranh giữ
24


vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng
một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
- Nhiệm vụ chiến lược: “cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
hiện tại có 2 nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và
47

25


Video liên quan

Chủ Đề