Việc đưa chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản thực hiện chính sách

(TG) - Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số “vàng”, trong đó vị thành niên và thanh niên (VTN/TN)chiếm gần 40% dân số và là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước. Thế hệ trẻ hiện nay đang sống trong môi trường xã hội mới với nhiều cơ hội để phát triển song cũng có không ít nguy cơ và thách thức trong đó có nhiều nguy cơ về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục (SKSS/SKTD). Thực trạng này đã gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng và kéo dài đối với một bộ phận (VTN/TN)cũng như gia đình và xã hội; làm ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.


Việc đưa chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản thực hiện chính sách
Một buổi ngoại khóa về giới tính dành cho trẻ vị thành niên.

Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách hướng tới mục tiêu chăm sóc SKSS/SKTD cho VTN/TN. Nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Bộ Y tế đã ban hành và triển khai Kế hoạch tổng thể quốc gia về Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của VTN/TN Việt Nam giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến 2030; Hướng dẫn cung cấp dịch vụ sức khỏe thân thiện với VTN/TN; Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc SKSS; Hướng dẫn chuyên môn về tư vấn và khám sức khỏe trước hôn nhân...

Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch hành động giáo dục SKSS và phòng chống HIV/AIDS cho học sinh trung học giai đoạn 2016 - 2020. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Kế hoạch hóa Gia đình Việt Nam đã xây dựng, ban hành các văn bản triển khai thực hiện các chính sách về dân số, SKSS trong đó đối tượng ưu tiên là VTN/TN gắn với nhiệm vụ của các cấp hội, đoàn thể.

Căn cứ các văn bản của Trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về CSSKSS VTN/TN tại địa phương. Đến nay đã có 63 tỉnh, thành phố ban hành Kế hoạch hành động do UBND tỉnh hoặc Sở Y tế phê duyệt để thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch tổng thể quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe VTN/TN Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020 và định hướng đến 2030.

Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, chưa thống nhất về quy định thuật ngữ, độ tuổi vị thành niên, thanh niên dẫn đến khoảng trống trong các chính sách liên quan đến CSSKSS/SKTD VTN/TN, gây khó khăn cho triển khai thực hiện cũng như áp dụng các thông lệ quốc tế mà Việt Nam tham gia và ký kết. Đến nay, các nội dung chăm sóc sức khỏe tình dục cho VTN/TN chưa được đề cập trong bất cứ văn bản nào, mặc dù có liên quan mật thiết đến sức khỏe sinh sản của VTN/TN.

Nhiều chỉ tiêu liên quan đến thanh niên, dân số, SKSS được đưa ra trong các chiến lược, chương trình mục tiêu, đề án do Chính phủ ban hành còn mang tính định hướng, chưa đủ điều kiện triển khai cũng như chưa có cơ chế đánh giá hiệu quả, tiến độ thực hiện, chưa phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành. Các chiến lược quy định trách nhiệm HĐND và UBND đảm bảo huy động nguồn lực địa phương triển khai thực hiện, tuy nhiên lại không quy định về trách nhiệm cam kết duy trì các hoạt động, mô hình sau khi kết thúc Chiến lược, dự án viện trợ. Việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước, giám sát việc thực hiện pháp luật về dân số, SKSS theo quy định của pháp luật còn chưa được các tổ chức xã hội chủ động thực hiện. Chính sách xã hội hóa công tác dân số, CSSKSS chưa được triển khai cụ thể. Hiện vẫn chưa có chính sách khuyến khích và cơ chế giám sát chất lượng y tế tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ SKSS cho VTN/TN. Các cơ chế, chính sách CSSKSS/SKTD ban hành chưa kết hợp với các chính sách kinh tế - xã hội khác như: bình đẳng giới, sức khỏe, di cư, việc làm, vui chơi, giải trí...cho VTN/TN; chưa huy động được sự tham gia tích cực của VTN/TN ở tất cả các khâu từ khi xây dựng, triển khai các chương trình can thiệp; VTN/TN vẫn được xem là đối tượng hưởng thụ chính sách hơn là những đối tượng được tham gia vào xây dựng và thực hiện các chính sách dành cho VTN/TN.

Hàng năm, cán bộ y tế tại các cơ sở y tế từ tuyến xã đến tuyến tỉnh phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể thực hiện truyền thông, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về phát triển tâm sinh lý tuổi dậy thì, các bệnh viêm nhiễm đường sinh sản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, hậu quả của việc quan hệ tình dục không an toàn và hướng dẫn sử dụng các biện pháp tránh thai tới hàng triệu lượt đối tượng VTN/TN.

Bên cạnh đó, VTN/TN còn có thể chủ động tiếp cận với các thông tin cũng như giải đáp các thắc mắc về SKSS/SKTD bằng nhiều hình thức như: tư vấn qua điện thoại hoặc đến trực tiếp các trung tâm tư vấn; Nhiều năm liên tục, Tổng cục Dân số-Bộ Y tế đã phát động cuộc thi trong toàn quốc “Con gái thật tuyệt”; “Có tôi đôi bạn luôn hạnh phúc”; “Yêu an toàn vạn điều hay”.... hay tương tác, nghe chương trình phát thanh“Cửa sổ tình yêu” trên VOV, tham gia đội kịch tương tác của đoàn thanh niên, gửi thắc mắc qua hộp thư hỏi đáp tại trường học hoặc các trung tâm tư vấn, tìm kiếm thông tin trên trang điện tử... Sự đa dạng về kênh tiếp cận, thông tin tuyên truyền đã góp phần phổ biến kiến thức tới các đối tượng VTN/TN.

Trong hệ thống nhà trường, giáo dục giới tính, kỹ năng sống, SKSS cho học sinh, sinh viên được tích hợp, lồng ghép vào các môn học và hoạt động ngoại khóa; thành lập tổ tư vấn tâm lý học đường, tư vấn SKSS/SKTD, góp phần trang bị những kiến thức cơ bản về SKSS cho học sinh, sinh viên. Đối với VTN/TN ngoài trường học, các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Kế hoạch hóa gia đình, Hội Nữ hộ sinh đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục thông qua các mô hình: “CLB công nhân trẻ với SKSS/SKTD”, “Mô hình kết nối mẹ và con gái”, “Trung tâm hỗ trợ thanh niên công nhân”, “Góc thân thiện cho vị thành niên trong trường học”, "Câu lạc bộ SKSS VTN/TN tại cộng đồng",“Trung tâm tư vấn SKSS/SKTD cho thanh niên”, thành lập các đội truyền thông, đội giáo dục đồng đẳng, tổ chức nhiều diễn đàn trao đổi, truyền thông - giáo dục về SKSS... góp phần tích cực trong việc giáo dục nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi SKSS/SKTD cho VTN/TN. Việc truyền thông về SKSS VTN/TN tới các bậc cha mẹ bước đầu đã được các tổ chức đoàn thể thực hiện. Tại nhiều địa phương đã triển khai mô hình “Giảm tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống” cho các vùng có đông đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa.

Nhưng thực tế cho thấy, hầu hết VTN/TN vẫn chưa được cung cấp đầy đủ và chính xác các kiến thức về SKSS/SKTD. Việc tư vấn và truyền thông về SKSS/SKTD ở các cơ sở y tế hiệu quả còn thấp do phần lớn cán bộ y tế cung cấp dịch vụ SKSS không được tập huấn về kiến thức, kỹ năng truyền thông và tư vấn cho VTN/TN. Các thông tin về SKSS/SKTD VTN/TN được cung cấp trên các phương tiện thông tin đại chúng đa dạng nhưng không chuyên sâu. Công tác truyền thông, giáo dục, tư vấn về CSSKSS/SKTD chưa được tiến hành thường xuyên và chưa thu hút được sự tham gia của VTN/TN. Các kỹ thuật mới được VTN/TN ưa thích trên mạng xã hội, internet, truyền hình.... việc sử dụng loại hình này để truyền thông về SKSS/SKTD cho VTN/TN đang còn hạn chế.

Việc giáo dục kỹ năng sống, giảng dạy, truyền thông về SKSS/SKTD trong các nhà trường chưa được quan tâm đúng mức. Phương pháp giáo dục mang tính tuyền thống và chưa sáng tạo, chưa phát huy tính tích cực của người dạy và người học. Nội dung giáo dục chưa sâu, bị phân tán do lồng ghép vào một số môn học với quãng thời gian dài, việc thực hiện không mang tính chất bắt buộc, tuỳ thuộc vào thời lượng dư của mỗi môn học và cũng chưa có giáo trình thống nhất nên hiệu quả thấp; nếu có thì chủ yếu là các hoạt động ngoại khóa. Do tình trạng giảm tải giáo dục, đồng thời còn tâm lý e ngại, né tránh của giáo viên, phụ huynh và học sinh nên việc giảng dạy giáo dục SKSS/SKTD trong trường học bị xem nhẹ hoặc cắt bỏ. Hầu hết các trường không có tài liệu truyền thông để giảng dạy giáo dục SKSS cho học sinh trong trường học.

Các hoạt động truyền thông, giáo dục về SKSS/SKTD cho VTN/TN trong cộng đồng do các tổ chức, đoàn thể thực hiện còn mang tính phong trào, chưa gắn với trách nhiệm và nguồn lực thực hiện; mới chủ yếu tập trung vào việc nâng cao nhận thức, chưa tạo ra sự chuyển biến về thay đổi hành vi. Các mô hình, câu lạc bộ về SKSS/SKTD hoạt động chưa thực sự hiệu quả, đôi khi chú trọng về số lượng hơn chất lượng. Các hoạt động giáo dục đồng đẳng chưa được áp dụng đại trà.

Từ cấp Trung ương, tỉnh, huyện đến cấp xã đã hình thành hệ thống các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân thực hiện các dịch vụ CSSKSS. Từ tháng 8 năm 2006, Bộ Y tế đã chuyển đổi các Trung tâm Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em cấp tỉnh trước đây thành các Trung tâm CSSKSS (trong đó có khoa Chăm sóc SKSS vị thành niên và nam học); tại cấp huyện có đội CSSKSS; cấp xã có bác sĩ, y sĩ sản nhi hoặc hộ sinh; cấp thôn, bản có nhân viên y tế thôn, bản. Đến nay, các trung tâm CSSKSS tỉnh/thành phố đều đã được trang bị cơ sở vật chất, cán bộ được tập huấn, tăng cường năng lực về tư vấn và cung cấp dịch vụ SKSS cho VTN/TN, tổ chức triển khai và phối hợp, hỗ trợ các cơ sở tuyến dưới thực hiện các hoạt động tư vấn, truyền thông giáo dục tại trường học, khu công nghiệp, cộng đồng. Hàng năm, Bộ Y tế tổ chức các khóa đào tạo giảng viên tuyến tỉnh về cung cấp dịch vụ thân thiện với VTN/TN và triển khai góc thân thiện, câu lạc bộ SKSS VTN/TN. Các tỉnh cũng đã chủ động đào tạo cho tuyến huyện, đồng thời bồi dưỡng để chuẩn hóa đội ngũ cộng tác viên cấp xã. Từ năm 1998 đến nay, đã có trên 1.300 cô đỡ thôn, bản được các chương trình, dự án khác nhau đào tạo. Khoảng trên 80% số này đang làm việc và có những đóng góp không nhỏ vào công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, góp phần giảm tai biến sản khoa tại vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, tại một số địa phương, hoạt động của Trung tâm Chăm sóc SKSS và Chi cục Dân số - KHHGĐ còn bị chồng chéo. Nhân lực chuyên ngành sản khoa và CSSKSS còn rất thiếu, nhất là từ tuyến huyện trở xuống. Hầu hết các bệnh viện huyện đều bố trí khoa sản chung với khoa ngoại để tận dụng nhân lực. Công tác đào tạo, tập huấn về cung cấp dịch vụ thân thiện với VTN/TN chưa được thường xuyên, liên tục.

Cộng tác viên dân số có mặt hầu hết các thôn, xã nhưng chủ yếu làm việc với các cặp vợ chồng theo chương trình kế hoạch hóa gia đình, ít hướng đến đối tượng VTN/TN. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, cán bộ y tế trường học, cán bộ đoàn thể giáo dục SKSS/SKTD, kỹ năng sống cho VTN/TN do kiêm nhiệm, năng lực không đồng đều, thường xuyên bị luân chuyển, ít được tập huấn nên thiếu kinh nghiệm, và hiện chưa có chế độ chính sách hỗ trợ đội ngũ này.

Các dịch vụ CSSKSS/SKTD cho VTN/TN đã được lồng ghép tại một số dịch vụ khám chữa bệnh, tư vấn, CSSKSS nói chung và được triển khai tại các cơ sở y tế công lập tuyến tỉnh. Chi cục Dân số - KHHGĐ, Trung tâm Chăm sóc SKSS tỉnh, Trung tâm dân số - KHHGĐ cấp huyện và các Trung tâm Dân số - KHHGĐ đã sáp nhập về Trung tâm Y tế đa chức năng đã phối kết hợp với các trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông, các công ty tổ chức khám sức khỏe cho thanh niên, công nhân. Thông qua Dự án Mục tiêu về CSSKSS, Bộ Y tế đã hỗ trợ rất nhiều câu lạc bộ CSSKSS VTN/TN ở các trường học và hàng trăm điểm cung cấp dịch vụ thân thiện với VTN/TN tại cộng đồng, trường học, khu công nghiệp... Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam đã cung cấp dịch vụ CSSKSS/SKTD VTN/TN với tỷ lệ khách hàng tăng dần qua các năm, quan tâm đến nhóm đối tượng VTN/TN dân tộc thiểu số, các cơ sở bảo trợ xã hội, công nhân lao động ở khu công nghiệp, khu chế xuất.

Đối với tuyến trung ương và tỉnh (bệnh viện sản nhi, trung tâm chăm sóc SKSS tỉnh/thành phố), chất lượng kỹ thuật của các dịch vụ SKSS, xét nghiệm, khám và điều trị về các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh phụ khoa... đã được đảm bảo theo đúng chuẩn quốc gia, song do hạn chế về nguồn lực nên các tiêu chí/đặc điểm của dịch vụ thân thiện, tính bảo mật cho VTN chỉ được chú ý ở những địa bàn triển khai; các cơ sở khác cung cấp dịch vụ như khách hàng thông thường. Cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ được cung cấp ở các cơ sở y tế cấp huyện và xã phần lớn chưa đạt chuẩn chăm sóc sản khoa thiết yếu cơ bản (nhiều nơi chỉ đạt khoảng 20%). Việc điều phối cung ứng phương tiện tránh thai chưa chủ động được nguồn cung cấp, dẫn đến thiếu và thừa cục bộ ở một số nơi. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn về SKSS/SKTD của cán bộ y tế (kiến thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tư vấn) của các tuyến không đồng đều, thực tế là vừa thiếu vừa yếu nên hoạt động tư vấn về SKSS đi kèm với cung cấp dịch vụ còn ít.

Khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSKSS của VTN/TN chưa lập gia đình còn hạn chế do các dịch vụ chăm sóc SKSS mới chủ yếu tập trung vào đối tượng cặp vợ chồng. Sự kết nối giữa hoạt động truyền thông, tư vấn với các hoạt động dịch vụ kỹ thuật lâm sàng còn hạn chế; môi trường xã hội cũng có những rào cản ảnh hưởng nhất định đến việc tiếp nhận dịch vụ của VTN/TN. Việc tư vấn, khám, cung cấp thông tin, dịch vụ CSSKSS/SKTD cho thanh niên công nhân các khu công nghiệp còn khó khăn do nhiều chủ doanh nghiệp chưa ủng hộ và thiếu khung pháp lý quy định về công tác này (thiếu quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng lao động trong việc đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc SKSS/SKTD đối với người lao động). Phần lớn thanh niên di cư, làm ăn xa chưa được tiếp cận đầy đủ với thông tin, dịch vụ về chăm sóc SKSS/KHHGĐ, có nguy cơ bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục bao gồm cả HIV/AIDS, mang thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn...

Mạng lưới dịch vụ chăm sóc SKSS/SKTD thân thiện, đảm bảo tính bảo mật dành cho VTN/TN còn rất thiếu và không phù hợp về thời gian. Các mô hình tư vấn, CSSKSS/SKTD cho VTN/TN còn ít và hoạt động thiếu tính bền vững, chưa chủ động hướng tới đối tượng VTN/TN, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế về SKSS/SKTD của VTN/TN. Tình trạng thiếu nhân lực, không có sẵn các dịch vụ làm mẹ an toàn và các rào cản văn hóa khác là những thách thức chủ yếu hạn chế sự tiếp cận của phụ nữ tới các dịch vụ CSSKSS ở khu vực miền núi và các vùng khó tiếp cận.

Với tâm lý e ngại, nhiều VTN/TN không sử dụng dịch vụ SKSS ở cơ sở y tế công lập mà sử dụng dịch vụ ở các cơ sở y tế tư nhân, trong khi chất lượng dịch vụ của các cơ sở này còn chưa được kiểm định do thiếu hệ thống kiểm tra, giám sát, đánh giá từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Tại nhiều cơ sở y tế tư nhân, chất lượng các dịch vụ SKSS đôi khi không đảm bảo do chưa trang bị đủ về cơ sở vật chất, đội ngũ y bác sỹ cần thiết hoặc chưa đủ điều kiện cấp phép nhưng vẫn hoạt động. Không ít cơ sở y tế tư nhân đã để xảy ra tai biến cho bệnh nhân trong khám, chữa bệnh sản khoa.

Hiện nay, công tác CSSKSS/SKTD VTN/TN là một trong rất nhiều ưu tiên về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo cũng như góp phần xây dựng nông thôn mới của các địa phương. Nguồn lực tài chính cho công tác này chủ yếu từ nguồn tài trợ, theo dự án của Chính phủ về y tế, Dân số và Phát triển và từ một phần nguồn kinh phí của địa phương hỗ trợ. Song, ngân sách Trung ương chi cho các hoạt động y tế rất hạn hẹp và giảm dần qua các năm, đặc biệt là chi cho công tác CSSKSS/SKTD VTN/TN và không được chi thành một mục riêng; ngân sách tại nhiều địa phương duy trì không ổn định và đến nay một số nơi đã không còn khoản hỗ trợ này. Chương trình Mục tiêu Y tế Dân số trong đó có lĩnh vực CSSKSS đầu tư cho CSSKSS VTN/TN không đáng kể, chỉ đủ để tập huấn và chỉ đạo điểm, không đủ để triển khai trên diện rộng. Việc giao nhiệm vụ, mục tiêu, vốn và giao dự toán chi thực hiện Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số còn chậm so với yêu cầu của Luật Ngân sách. Đầu tư của ngành y tế cho SKSS/SKTD tập trung vào y tế công lập tại tất cả các tuyến, tuy nhiên, việc đầu tư các trang thiết bị cho cơ sở CSSKSS ở tuyến huyện và tuyến xã chưa được cung cấp đầy đủ; các bộ dụng cụ, thuốc cấp cứu phục vụ cho công tác CSSKSS tại từng cấp cơ sở y tế còn thiếu nhiều. Chương trình mục tiêu về dân số và phát triển chủ yếu tập trung vào các cặp vợ chồng, VTN/TN không phải là đối tượng thụ hưởng của chương trình này.

Công tác xã hội hóa trong CSSKSS/SKTD đã từng bước nhận được sự quan tâm của các cấp, chính quyền, các tổ chức xã hội và người dân. Ngoài kinh phí hạn hẹp của các Chương trình mục tiêu được phân bổ thì chính quyền các cấp đã đầu tư thêm kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động của công tác dân số, công tác tiếp thị xã hội. Các phương tiện tránh thai cũng được người dân hưởng ứng và chấp nhận chi trả một phần kinh phí nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Sự cởi mở về mặt chính sách của nhà nước về chủ trương xã hội hóa công tác y tế, khuyến khích hành nghề y, dược tư nhân…đã bước đầu tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế, tổ chức/cá nhân ngoài công lập huy động nguồn lực và triển khai các hoạt động CSSKSS/SKTD, góp phần phát triển đa dạng các hình thức cung ứng dịch vụ linh hoạt, thân thiện cho VTN/TN. Tuy nhiên, công tác xã hội hóa CSSKSS/SKTD cho VTN/TN vẫn chưa đạt được kết quả tương xứng. Các chính sách xã hội hóa công tác dân số và phát triển, CSSKSS chưa được cụ thể hóa nên vẫn chưa thu hút, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này; số cơ sở y tế tư nhân đăng ký thực hiện dịch vụ thân thiện CSSKSS/SKTD cho VTN/TN còn rất ít. Các cơ sở y tế địa phương thường trông chờ vào ngân sách Trung ương và nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế nên việc vận động ngân sách địa phương cũng như các doanh nghiệp tư nhân về CSSKSS/SKTD chưa được đẩy mạnh.

Những năm gần đây, sự hỗ trợ kinh phí của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ cho lĩnh vực SKSS/SKTD VTN/TN có xu hướng giảm mạnh; phạm vi hỗ trợ chỉ giải quyết được một phần nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng về CSSKSS/SKTD của VTN/TN. Một số mô hình cung cấp dịch vụ cho VTN/TN được quốc tế tài trợ bước đầu khẳng định tính hiệu quả, tuy nhiên việc duy trì, nhân rộng sau khi kết thúc chu kỳ viện trợ không thực hiện được do địa phương không huy động được ngân sách và các nguồn lực.

Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã ký kết nhiều văn bản liên tịch phối hợp truyền thông, tư vấn, CSSKSS/SKTD cho VTN/TN. Tại các địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện, phân công nhiệm vụ cụ thể đến từng thành viên; đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, cộng đồng và bản thân VTN/TN trong CSSKSS/SKTD. Ngành y tế đã phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội triển khai một số hội nghị tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ, cộng tác viên về kiến thức, kỹ năng giáo dục, truyền thông CSKSSS/SKTD cho VTN/TN.

Nhưng thực tế cho biết, Bộ Y tế việc phát huy vai trò trong chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các bộ, ngành liên quan còn nhiều bất cập, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tổ chức triển khai thực hiện các chỉ tiêu về sức khỏe, SKSS của VTN/TN của Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2011 – 2020 đã đề ra. Mặc dù đang có những chuyển biến trong thái độ ủng hộ đối với các chương trình, can thiệp SKSS/SKTD VTN/TN, một số địa phương vẫn chưa thực sự quan tâm chỉ đạo việc phối hợp các ban ngành, tổ chức đoàn thể, chủ yếu giao phó cho cán bộ ngành y tế và đoàn thanh niên thực hiện. Các hoạt động phối hợp của các ngành ở địa phương trong các chương trình SKSS/SKTD VTN/TN còn mang tính dàn trải, thiếu tính liên tục và chưa chặt chẽ, chưa chú trọng vào các đối tượng, khu vực cần ưu tiên do chưa có cơ quan điều phối chung. Khi triển khai các chương trình, can thiệp, sự tham gia của VTN/TN ở tất cả các khâu còn bị hạn chế. Thiếu sự lồng ghép giữa các chương trình SKSS/SKTD với các chương trình phát triển năng lực toàn diện cho VTN/TN.

Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát chất lượng dịch vụ CSSKSS/SKTD của khu vực y tế nhà nước đã bước đầu được triển khai thực hiện. Hàng năm, sở y tế các địa phương phối hợp với Hội đồng nhân dân, các sở ngành tiến hành giám sát các hoạt động y tế tại địa phương. Tuy nhiên, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội chưa thực sự vào cuộc mạnh mẽ trong công tác giám sát này. Nội dung kiểm tra còn lồng ghép vào các vấn đề về y tế, chưa có giám sát riêng về SKSS VTN/TN do không có chỉ tiêu về SKSS VTN/TN trong các vấn đề cần giám sát của ngành y tế. Vì vậy, đến nay vẫn chưa đánh giá được đầy đủ hiệu quả của các hoạt động can thiệp này. Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát còn mang tính hình thức, chưa tập trung vào giám sát kết quả và tìm kiểm các giải pháp cải thiện tình hình. Năng lực của một số tổ chức đoàn thể ở cơ sở trong phát hiện, can thiệp, bảo vệ trẻ vị thành niên, thanh niên bị xâm hại về tình dục còn bị hạn chế hoặc bị né tránh.

Bộ Y tế, Sở Y tế các tỉnh, thành phố nên chăng cần có hướng dẫn quy định cụ thể các cơ sở y tế tư nhân báo cáo về việc thực hiện các dịch vụ CSSKSS/SKTD cho VTN/TN vì đến nay công tác quản lý hồ sơ, ghi chép, theo dõi tình hình hoạt động tại các cơ sở y tế tư nhân còn chậm và chưa đầy đủ; việc thống kê số liệu của cơ quan quản lý chưa phản ánh đúng thực trạng đang diễn ra ở địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát, hậu kiểm chất lượng dịch vụ CSSKSS/SKTD của các cơ sở y tế tư nhân bị buông lỏng (Bộ Y tế và hầu hết các sở y tế địa phương đều chưa thống kê được đầy đủ số liệu về việc cung cấp các dịch vụ CSSKSS/SKTD cho VTN/TN tại các cơ sở y tế tư nhân kể cả có giấy phép cũng như chưa có giấy phép hành nghề trên địa bàn quản lý).

Nhìn chung, công tác CSSKSS/SKTD VTN/TN bước đầu đã được chính quyền, ngành y tế, đoàn thể các cấp quan tâm thực hiện. Các chỉ số liên quan về SKSS/SKTD VTN/TN đã được cải thiện trong những năm qua. Công tác truyền thông, giáo dục, tư vấn được triển khai với nhiều hình thức tại cộng đồng, nhà trường, cơ quan, đơn vị, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng cũng như của VTN/TN về tầm quan trọng của việc CSSKSS/SKTD, từng bước giảm dần rào cản trong việc tiếp cận thông tin, thúc đẩy các dịch vụ CSSKSS/SKTD cho VTN/TN ngày càng hoàn thiện và phát triển. Độ bao phủ của các dịch vụ CSSKSS/SKTD ngày càng được mở rộng. Các dịch vụ lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị, CSSKSS của hệ thống các cơ sở y tế đã đáp ứng phần nào nhu cầu của VTN/TN. Đội ngũ cán bộ, cộng tác viên CSSKSS từng bước được kiện toàn, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn; công tác phối hợp giữa các ngành và đoàn thể đã đạt được một số kết quả nhất định.

ác vấn đề liên quan đến SKSS/SKTD VTN/TN vẫn chưa được quan tâm đúng mức trong việc xây dựng các chính sách, triển khai thực hiện. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác CSSKSS/SKTD còn thiếu đồng bộ, nhất là giữa các khâu truyền thông, giáo dục, tư vấn, cung cấp dịch vụ.

Đội ngũ cán bộ y tế tại một số cơ sở còn thiếu, trình độ chuyên môn không đồng đều, hiệu quả tư vấn, cung cấp dịch vụ kỹ thuật CSSKSS/SKTD chưa cao. Việc duy trì, nhân rộng các mô hình về CSSKSS/SKTD cho VTN/TN gặp rất nhiều khó khăn.

Nhu cầu chưa được đáp ứng về tránh thai trong thanh niên rất cao. Số lượng các cơ sở cung cấp dịch vụ SKSS còn rất thiếu so với nhu cầu của VTN/TN; chất lượng dịch vụ tư vấn và can thiệp CSSKSS chuyên biệt còn hạn chế, chưa dễ dàng, thuận tiện để VTN/TN tiếp cận, đặc biệt đối tượng trẻ chưa lập gia đình, đang có tình trạng co nhỏ dịch vụ và duy trì mang tính hình thức.

Chất lượng các dịch vụ SKSS/SKTD do các cơ sở y tế tư nhân cung cấp chưa được quản lý chặt chẽ, kiểm tra, giám sát, đánh giá thường xuyên.

Nhận thức, kiến thức của VTN/TN về giới tính, tình dục an toàn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục; khả năng xử lý các vấn đề liên quan đến SKSS/SKTD của VTN/TN và thực hành phòng tránh thai còn thấp.

Tuổi dậy thì của giới trẻ ngày càng sớm, quan niệm về tình dục cởi mở hơn, giới trẻ có xu hướng quan hệ tình dục sớm, quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn trước.

Các bậc cha mẹ chưa thật sự quan tâm đến những vấn đề của con cái, chưa đủ kiến thức cũng như kỹ năng cần thiết, chưa tạo được niềm tin để chia sẻ với con cái trong khi trong các trường học các giáo viên về giáo dục công dân, giáo viên sinh học, giáo viên tư vấn về tâm lý.... cho học sinh về các vấn đề SKSS/SKTD đang còn rất nhiều vấn đề bất cập.

Việc tiếp cận và sử dụng các thông tin, dịch vụ về SKSS/SKTD đối với VTN/TN thôi học, đi làm sớm, di cư, VTN/TN người dân tộc thiểu số, vùng sâu, xa còn nhiều bất cập do khó khăn về thu nhập, điều kiện sống, tham gia sinh hoạt cộng đồng, về hưởng thụ văn hóa, tinh thần, do ảnh hưởng của phong tục, tín ngưỡng đặc thù tại địa phương.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến SKSS/SKTD VTN/TN như: Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, đẻ nhiều, đẻ dày tại các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa chưa được khắc phục. Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, mang thai ở tuổi vị thành niên và phá thai không an toàn có xu hướng gia tăng và chưa được ngăn chặn. Những nguy cơ lây truyền bệnh qua đường tình dục như tình trạng mại dâm, tình dục đồng giới tiếp tục diễn biến phức tạp.

Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác CSSKSS/SKTD cho VTN/TN do đó việc lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực này chưa thường xuyên; chế độ thông tin, báo cáo, công tác sơ kết, tổng kết chưa kịp thời. Việc giáo dục kỹ năng sống, giảng dạy, tuyên truyền về SKSS/SKTD trong các nhà trường chưa được quan tâm đúng mức. Công tác truyền thông, giáo dục chưa có bước đột phá về hình thức, đổi mới về nội dung, chưa thực hiện thường xuyên, liên tục. Hệ thống cung cấp thông tin cho VTN/TN còn chưa đầy đủ và thống nhất. Nhà nước chưa có biện pháp kiểm soát hiệu quả các loại hình văn hóa phẩm mang tính bạo lực, đồi trụy gây ảnh hưởng đến quá trình phát triển tâm lý, hình thành nhân cách, lối sống của VTN/TN.

Các dịch vụ CSSKSS/SKTD còn chưa đáp ứng nhu cầu của VTN/TN cả về độ bao phủ lẫn chất lượng dịch vụ thân thiện. Một bộ phận cán bộ y tế thiếu hiểu biết về tâm lý lứa tuổi, thiếu cảm thông, còn tạo ra rào cản đối với VTN/TN trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ SKSS/SKTD. Nguồn lực đầu tư cho công tác CSSKSS/SKTD còn rất hạn chế và giảm mạnh qua các năm. Hệ thống chính sách xã hội hóa trong lĩnh vực y tế nói chung và CSSKSS/SKTD cho VTN/TN vẫn chưa thực sự khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia phát triển lĩnh vực này. Sự phối hợp giữa các ban, ngành đoàn thể còn thiếu đồng bộ, trách nhiệm chưa cao.

Các công cụ để giám sát, đo lường, đánh giá mức độ tiến triển, hiệu quả các chương trình, dịch vụ, can thiệp SKSS/SKTD cho VTN/TN còn thiếu, đặc biệt về các vấn đề như đáp ứng nhu cầu sử dụng biện pháp tránh thai, mang thai và phá thai không an toàn ở VTN/TN. Số liệu báo cáo về các chỉ số SKSS tuổi VTN/TN tại các cơ sở y tế công lập chưa chính xác và đầy đủ nên việc đánh giá khó khăn. Đối với các cơ sở y tế tư nhân, Bộ Y tế cần quan tâm hơn về việc ban hành hướng dẫn, quy định, việc báo cáo cung cấp dịch vụ CSSKSS/SKTD VTN để có số liệu thống kê chính thức về hoạt động này; chưa có chế tài xử phạt các cơ sở hành nghề tư không thực hiện báo cáo về tình hình cung cấp dịch vụ CSSKSS/SKTD cho VTN/TN.

Vai trò, trách nhiệm của gia đình và các tổ chức chính trị - xã hội chưa được coi là yếu tố nền tảng, trực tiếp nâng cao SKSS/SKTD cho VTN/TN. Mặc dù các văn bản luật có liên quan đều có quy định trách nhiệm của các đối tượng này; tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật và các Chiến lược còn chưa quy định cụ thể, chưa gắn trách nhiệm và nguồn lực thực hiện; thiếu vắng các chương trình, dự án nâng cao năng lực, kiến thức cho cha mẹ, gia đình trong cung cấp thông tin và giáo dục SKSS/SKTD cho VTN/TN. Tiếng nói của VTN/TN và các tổ chức thanh niên trong việc xây dựng và triển khai các chính sách, chương trình CSSKSS/SKTD cho VTN/TN còn yếu.

Chỉ đạo các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn Đại biểu Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện Luật Thanh niên, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em để chuẩn bị cho việc sửa đổi bổ sung trong thời gian tới; trong đó đưa nội dung CSSKSS/SKTD VTN/TN theo hướng tiếp cận với quyền. Nghiên cứu quy định thống nhất độ tuổi thanh niên trong hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng như tiệm cận với các quy định của quốc tế nhằm tạo điều kiện chăm lo, giáo dục VTN/TN. Duy trì ngân sách cho các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế một cách hợp lý.

1. Tổ chức tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật Thanh niên, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Rà soát, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về thanh niên nói chung và CSSKSS/SKTD VTN/TN nói riêng phù hợp với thực tiễn. Có chiến lược đảm bảo tài chính dành cho công tác CSSKSS/SKTD. Tăng cường công tác xã hội hóa, hợp tác quốc tế và sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ cho công tác CSSKSS cho VTN/TN; tạo điều kiện cho các cơ sở y tế tư nhân thành lập và hoạt động cung cấp các dịch vụ SKSS có chất lượng cho nhân dân. Cụ thể hóa các quy định khuyến khích, ưu tiên sử dụng đất đai, vay vốn tín dụng ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ tư vấn SKSS/SKTD, phòng chống HIV/AIDS trong các văn bản chính sách. Bổ sung quy định trách nhiệm của HĐND và UBND các cấp trong việc huy động nguồn lực đảm bảo duy trì các mô hình, hoạt động chăm sóc SKSS/SKTD cho VTN/TN sau khi Chiến lược, dự án viện trợ kết thúc. Tạo môi trường thuận lợi và phát triển các chính sách thúc đẩy sự tham gia của VTN/TN trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách và chương trình SKSS VTN/TN. Có chiến lược giảm thiểu tình trạng quan hệ tình dục sớm, có thai ngoài ý muốn và phá thai không an toàn ở VTN/TN; ngăn ngừa tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống ở một số đồng bào dân tộc ít người. Nghiên cứu xây dựng Chiến lược Quốc gia về chăm sóc SKSS/SKTD cho VTN/TN trong giai đoạn 10 năm hoặc ít nhất cần xây dựng Kế hoạch hành động Quốc gia về chăm sóc SKSS/SKTD cho VTN/TN trong giai đoạn 5 năm.

2. Chỉ đạo Bộ Y tế: Xây dựng các công cụ và lộ trình đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu liên quan đến CSSKSS/SKTD cho VTN/TN đã được đưa ra trong các chiến lược, chương trình mục tiêu, đề án do Chính phủ ban hành. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể hóa về CSSKSS/SKTD VTN/TN để triển khai đồng bộ ở các cấp. Nghiên cứu bổ sung thêm các nội dung về sức khỏe tình dục trong các văn bản quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, nội dung hướng dẫn, tư vấn và cung cấp dịch vụ cho VTN/TN. Có chính sách quy định việc cung cấp dịch vụ thân thiện SKSS cho thanh niên chưa lập gia đình và thanh niên trong các khu công nghiệp, thanh niên di cư. Tăng cường đào tạo bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành, kỹ năng tư vấn cho đội ngũ cán bộ y tế, cộng tác viên tuyên truyền, tư vấn, cung cấp dịch vụ SKSS/SKTD VTN/TN. Tăng cường công tác quản lý nhà nước, củng cố hệ thống thông tin, báo cáo, thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm ở các cơ sở y tế tư nhân. Tiếp tục xây dựng các chương trình và các chính sách đa ngành; mở rộng và nâng cao chất lượng mạng lưới cung cấp dịch vụ SKSS/SKTD an toàn, thân thiện, dễ tiếp cận đối với VTN/TN.

3. Chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đưa nội dung giáo dục giới tính, SKSS/SKTD, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên vào chương trình giảng dạy từ cấp trung học cơ sở trở lên theo hình thức, nội dung phù hợp với cấp học và bậc học, có chỉ tiêu đánh giá, giải pháp thực hiện. Đổi mới công tác truyền thông, giáo dục giới tính, kỹ năng sống cho VTN/TN phù hợp với từng độ tuổi, từng địa bàn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và hấp dẫn với VTN/TN. Đồng thời, đưa nội dung này vào trong các văn bản chính sách liên quan đến nhiệm vụ phát triển giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định nội dung này là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng giáo dục hàng năm tại các cơ sở giáo dục quốc dân.

4. Chỉ đạo Bộ Nội Vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Phối hợp xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin quốc gia về VTN/TN trong đó có thông tin SKSS/SKTD VTN/TN. Đưa các chỉ số theo dõi về VTN/TN vào hệ thống thống kê quốc gia làm cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các bộ, ngành, địa phương. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thanh niên gắn với việc kiện toàn bộ máy làm công tác này ở các cấp.

5. Chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Đẩy mạnh công tác giáo dục giới tính, SKSS/SKTD, kỹ năng sống cho VTN/TN thông qua hệ thống thông tin đại chúng. Kiểm duyệt chặt chẽ việc cấp phép, hoạt động của các ấn phẩm, xuất bản phẩm, thông tin trên mạng internet nhằm ngăn chặn việc lưu truyền, phát tán các nội dung không lành mạnh, tác động xấu đến đạo đức, lối sống của VTN/TN.

1. Hội đồng nhân dân tiếp tục tăng cường hoạt động giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật về CSSKSS/SKTD VTN/TN; tiến hành phân bổ nguồn ngân sách phù hợp để thực hiện chương trình SKSS/SKTD.

2. Ủy ban nhân dân chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp xây dựng kế hoạch và phối hợp thực hiện chương trình SKSS/SKTD cho VTN/TN, đặc biệt là VTN/TN yếu thế như VTN/TN di cư, dân tộc thiểu số và VTN/TN vùng sâu vùng xa. Có kế hoạch chỉ đạo, hướng dẫn, huy động nguồn lực duy trì các mô hình, hoạt động, câu lạc bộ…về chăm sóc SKSS/SKTD cho VTN/TN sau khi Chiến lược, dự án viện trợ kết thúc.

Tăng cường phối hợp với các ban ngành tổ chức các hoạt động tuyên tuyền, truyền thông và vận động chính sách về SKSS/SKTD VTN/TN. Tổ chức sinh hoạt, diễn đàn, tọa đàm, giáo dục đồng đẳng trang bị kiến thức, kỹ năng sống, giáo dục giới tính, SKSS/SKTD, trang bị kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình cho VTN/TN./.

Bác sỹ Mai Xuân Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông và Giáo dục-Tổng cục Dân số