Văn học Việt Nam thời phong kiến

    Văn học dân gian:

    Thần thoại
    Truyền thuyết
    Cổ tích
    Truyện cười
    Ngụ ngôn
    Vè, Tục ngữ
    Thành ngữ
    Câu đố
    Ca dao
    Văn học dân gian dân tộc thiểu số
    Sân khấu cổ truyền

    Văn học viết:

    Văn học đời Tiền Lê
    Văn học đời Lý
    Văn học đời Trần
    Văn học đời Lê Sơ
    Văn học đời Mạc
    Văn học đời Lê trung hưng
    Văn học đời Tây Sơn
    Văn học thời Nguyễn
    Văn học thời Pháp thuộc
    Văn học thời kỳ 1945-1954
    Văn học thời kỳ 1954-1975
    Văn học thời kỳ sau 1975

xem thêm
    Tác giả - tác phẩm:

    Nhà thơ - Nhà văn
    Nhà báo - Nhà viết kịch

Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong cảnh địa phương theo quan niệm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.

Dựa theo nội dung truyền thuyết Việt Nam có thể chia theo các thời kì sau:

  • Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang: mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các truyền thuyết tiêu biểu của thời kỳ này là Lạc Long Quân-Âu Cơ, Sơn Tinh-Thủy Tinh, Thánh Gióng, Thánh Hùng Linh Công, Hùng Vương thứ sáu, Hùng Vương thứ mười tám...
  • Thời kỳ Âu Lạc và Bắc thuộc: Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm [257 TCN-208 TCN]. Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ [207 TCN-938] là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết tiêu biểu của thời Âu Lạc là truyện An Dương Vương, kết cấu gồm hai phần: phần đầu là lịch sử chiến thắng, phần sau là lịch sử chiến bại. Các truyền thuyết phản ánh các cuộc vũ trang khởi nghĩa chống xâm lược thời kỳ Bắc thuộc là Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí...
  • Thời kỳ phong kiến tự chủ: Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, giai cấp phong kiến Việt Nam xây dựng một quốc gia thống nhất, củng cố nền độc lập dân tộc. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX là sự suy sụp của các triều đại phong kiến. Các truyền thuyết của thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây:
    • Anh hùng chống ngoại xâm: Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi...
    • Danh nhân văn hóa: Chu Văn An, Trạng Trình...
    • Lịch sử địa danh: Sự tích Hồ Gươm, Sự tích Núi Ngũ Hành...
    • Anh hùng nông dân: Chàng Lía, Quận He, Ba Vành...
    • Anh hùng nông dân không có yếu tố thần kỳ: Chàng Lía, Lê Văn Khôi...

GS. Lê Chí Quế đã đưa ra một số đặc trưng nghệ thuật của truyền thuyết dân gian như sau:

  1. Truyền thuyết dân gian được xây dựng trên cơ sở một cốt lõi lịch sử và được chắp thêm đôi cánh "thơ và mộng" nghĩa là sự hư cấu hoang đường. Yếu tố hoang đường trong truyền thuyết mang tính chất thi vị, làm tăng vẻ đẹp, sự oai hùng của nhân vật mà nhân dân kính trọng. Mặt khác nó còn biểu hiện sự rơi rớt của tín ngưỡng dân gian thời nguyên thủy và sự xâm nhập của những yếu tố tôn giáo sau này [Phật, Đạo].
  2. Nếu như thời gian trong thần thoại là buổi hồng hoang, khi trời đất chưa phân chia, con người chưa đông đúc, thời gian trong truyện cổ tích là thời quá khứ phiếm định "ngày xửa, ngày xưa", thì thời gian trong truyền thuyết là thời gian quá khứ - xác định. Truyền thuyết nào cũng kể về chuyện đã xảy ra rồi và vào một thời kỳ lịch sử nhất định nào đó [Vào thời đại Hùng Vương, cách đây 4000 năm, vào thời An Dương Vương cách đây trên 2000 năm, vào thời Hai Bà Trưng thế kỷ thứ I, Bà Triệu thế kỷ thứ III, Lê Lợi thế kỷ thứ XV...]. Tuy nhiên thật khó mà đoán định khoảng cách giữa thời gian sự kiện và thời gian sáng tạo tác phẩm.
  3. Kết cấu của truyền thuyết gần giống kết cấu của thần thoại, cổ tích là kết cấu trực tuyến, không có đồng hiện và sự quay trở lại. Sự việc trong truyền thuyết không đầy đủ chi tiết như trong sử biên niên. Phần giới thiệu lai lịch nhân vật và kết cục cuộc đời thường được hư cấu kỳ diệu: Đinh Bộ Lĩnh là con của Rái Cá, Bà Trưng mất một cách đột ngột sau đêm ngủ say và hồn bay lên trời làm phúc thần, tạo nên mưa thuận gió hòa cho hạ giới.
  4. Truyền thuyết thường gắn với các di tích vật chất [gò, đồi, sông, suối...], các di tích văn hóa [đền thờ, tháp, chùa, tượng...] các phong tục và lễ hội [hội Dóng, hội Kiếp bạc, giỗ trận Đống Đa...][1]

Tham khảo

  1. ^ Lê Chí Quế [chủ biên], Văn học dân gian Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, 1999.

Có thể tham khảo các truyện Lạc Long Quân- Âu Cơ; Bánh Chưng - Bánh Giầy; Thánh Gióng; Sơn Tinh - Thủy Tinh; Sự tích Hồ Gươm;.....

Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Truyền_thuyết_Việt_Nam&oldid=68052322”

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

    Văn học dân gian:

    Thần thoại
    Truyền thuyết
    Cổ tích
    Truyện cười
    Ngụ ngôn
    Vè, Tục ngữ
    Thành ngữ
    Câu đố
    Ca dao
    Văn học dân gian dân tộc thiểu số
    Sân khấu cổ truyền

    Văn học viết:

    Văn học đời Tiền Lê
    Văn học đời Lý
    Văn học đời Trần
    Văn học đời Lê Sơ
    Văn học đời Mạc
    Văn học đời Lê trung hưng
    Văn học đời Tây Sơn
    Văn học thời Nguyễn
    Văn học thời Pháp thuộc
    Văn học thời kỳ 1945-1954
    Văn học thời kỳ 1954-1975
    Văn học thời kỳ sau 1975

xem thêm
    Tác giả - tác phẩm:

    Nhà thơ - Nhà văn
    Nhà báo - Nhà viết kịch

Văn học Việt Nam là khoa học nghiên cứu, phê bình và sáng tác ngữ văn của người Việt Nam, không kể quốc tịch và thời đại[1].

Khái quát

Bài chi tiết: Lịch sử văn học Việt Nam

Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết, nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.

Văn học thành văn chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.

Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống văn học dân gian Việt Nam gồm có: sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, thơ, chèo...

Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục "dòng chảy" của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.

Thể loại

Trước thời kì Đổi Mới, văn học Việt Nam thường được chia thành hai thể loại khẩu truyền và thành văn, về sau có nhiều xu hướng phê bình và nghiên cứu mới nên dòng văn học trở nên phân nhánh rất phức tạp.

Văn học dân gian

Bài chi tiết: Văn học dân gian Việt Nam

Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay.

Ba thuật ngữ sau đây được xem là tương đương: Văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân, folklore ngôn từ [folklore văn học].

  • Tính nguyên hợp: Biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại. Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau, tồn taị dưới 3 dạng: ẩn [tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian], cố định [tồn tại bằng văn tự] và hiện [tồn tại thông qua diễn xướng].
  • Tính tập thể: Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm.
  • Tính truyền miệng: Văn học dân gian được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức truyền miệng [kể chuyện].
  • Tính dị bản: Văn học dân gian là sáng tác tập thể và nó không được cố định trong một văn bản, nên khi lưu truyền sang các vùng không gian khác nhau thì nó dần dà thay đổi.

Các đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Tạo ra nét đặc trưng của Văn học dân gian so với văn học viết.

Văn học thành văn [văn học viết]

Áng văn Nôm Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị dưới tựa Thúy Kiều Truyện tường chú viết bằng kiểu chữ lệ thư do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967.

Một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư, Quốc âm Thi tập, Hồng Đức bản đồ [từ trái sang phải].

Xem thêm bài Lịch sử các loại chữ viết Việt Nam

Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" [Đặng Thai Mai]. Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.

Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt, thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.

Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.

Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau thời gian dài văn-sử-triết bất phân. 3 dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất nhân tình.

Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể – tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm [trong quyển Văn học Việt Nam] thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:

  • Vận văn: tức loại văn có vần
  • Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối [như câu đối]
  • Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.

Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật [văn chương bình dân] và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều [của Nguyễn Du] được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.

Từ khi có việc truyền bá chữ Quốc ngữ vào Việt Nam, diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông, sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học trung đại và văn học hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:

  • Thời kỳ văn học trung đại [từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19] gồm: tự sựtrữ tình.
  • Thời kỳ văn học hiện đại [từ đầu thế kỷ 20 đến nay] gồm: tự sự, trữ tình, kịch.

Văn học mạng

Bài chi tiết: Văn học Việt Nam hải ngoại

Từ đầu thập niên 2000, khái niệm "web fiction" đã xuất hiện trong các giáo trình và luận văn khoa học đa cấp độ dưới tên gọi văn học mạng. Nghĩa là gồm các tác phẩm hoặc luận văn phê bình được xuất bản trên không gian ảo, tức là internet và intranet. Theo sức phát triển nhanh của làn sóng công nghệ thông tin toàn cầu, dòng văn học này không được xếp vào dạng khẩu truyền hay thành văn, mà tồn tại độc lập nhưng vẫn có sự tương hỗ với các thể loại lâu đời hơn này. Một tác phẩm tiêu biểu ở giai đoạn sơ khởi văn học mạng là bài thơ Đôi dép của tác giả Nguyễn Trung Kiên, thường được giới khảo cứu dẫn chứng như một thành công của sức ảnh hưởng công nghệ thông tin cao đối với sự phổ biến văn phẩm. Đồng thời, dòng văn học này cũng được coi là nhân tố quyết định quảng bá văn học và ngôn ngữ Việt Nam ra quốc tế - điều mà trước thế kỷ XXI có tầm ảnh hưởng rất kém.

Xem thêm

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Văn học Việt Nam.
  • Ngôn ngữ Việt Nam
  • Triết học Việt Nam
  • Nghệ thuật Việt Nam
  • Văn hóa Việt Nam

Tham khảo

  1. ^ George Cœdès The Making of South East Asia 1966- Page 87 "No work of literature from the brush of a Vietnamese survives from the period of Chinese rule prior to the rise of the first national dynasties; and from the Dinh, Former Le, and Ly dynasties, all that remains are some poems by Lac Thuan [end of the tenth century], Khuong Viet [same period], and Ly Thuong Kiet [last quarter of the eleventh century]. Those competent to judge consider these works to be quite up to the best standards of Chinese literature.

Tài liệu

  1. Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam [Thế kỷ 10 - 19]. Tập 1, Văn học thế kỷ 10 - 15/ Bùi Duy Tân [chủ biên]; Nhà xuất bản Giáo dục, 2004
  2. Việt Nam văn học sử yếu. Dương Quảng Hàm; Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2002.
  3. Văn học Việt Nam. Dương Quảng Hàm, Bộ Giáo dục/ Trung tâm học liệu xuất bản, 1938.
  4. Tìm hiểu Con người Qua Nhân Tướng Học Và Văn Học Dân Gian Việt Nam. Lương Trọng Nhàn; Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin-2010.

Tư liệu

  • Viettouch. This site is dedicated to the promotion of Vietnamese history and culture; see reviews of the site.
  • Culture of Vietnam encyclopedia
  • Việt-Học Thư-Quán - Institute of Vietnamese Studies - Viện Việt Học Many pdfs of Vietnamese literature books
  • //web.archive.org/web/20121112121058///thanglong.ece.jhu.edu/vhvn.html
  • Translating Vietnamese poetry
  • Vietnamese Poetry Collection

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Văn_học_Việt_Nam&oldid=68541415”

Video liên quan

Chủ Đề