Trong số những nhân vật sau đây, những ai đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Từ núi rừng Lam Sơn, cách đây hơn 600 năm, mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Suốt 10 năm ròng rã chiến đấu gian khổ, khởi nghĩa Lam Sơn đã thắng lợi hoàn toàn. Trong thắng lợi ấy, có vai trò và đóng góp quan trọng của Nhân dân Thanh Hóa từ buổi đầu khởi nghĩa.

Trong số những nhân vật sau đây, những ai đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Thác Ma Hao nằm dưới chân núi Pù Rinh (Lang Chánh) - nơi gắn liền với nhiều sự kiện liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ảnh: Hoài Anh

Sau khi cuộc khởi nghĩa của hai tôn thất nhà Trần là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng thất bại hoàn toàn vào năm 1413, sứ mệnh lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc được trao về tay Lê Lợi và những người đồng chí đồng lòng cùng “nằm gai nếm mật” với ông. Vốn là người hiểu rất rõ địa lợi, nhân hòa của vùng rừng núi phía Tây Thanh Hóa, Lê Lợi đã xây dựng và đặt nền móng vững chắc cho căn cứ địa đầu tiên của cuộc khởi nghĩa. Đó là vùng núi Lam (tức núi Cham) trong không gian địa lý hành chính hương Lam Sơn là nơi khởi phát. Để rồi từ đó, cả trước, trong và sau khởi nghĩa, vùng đất Lam Sơn đã trở thành “đất căn bản”.

Xứ Thanh ghi dấu ấn đậm nét trong khởi nghĩa Lam Sơn, bởi đây không chỉ là căn cứ vững chắc của cuộc khởi nghĩa, mà còn là nơi “góp” cho cuộc khởi nghĩa nhiều hào kiệt, mãnh tướng, khai quốc công thần xuất thân từ “chốn hoang dã”. Trong đó, đại diện xuất sắc và vĩ đại hơn cả là anh hùng giải phóng dân tộc Lê Lợi - chủ soái tối cao và là linh hồn cuộc khởi nghĩa. Ông đã chối bỏ mọi quyền riêng tư để mưu đồ việc lớn “chí phục thù, thức ngủ chẳng quên” (Đại Cáo bình ngô), “trong rèn chiến cụ, ngoài giả hòa thân” (Phú núi Chí Linh). Tư tưởng của ông được bia Vĩnh Lăng đặt tại Khu Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Lam Kinh, ghi lại: “... tuy gặp buổi loạn to mà chí càng thêm vững. Giấu mình ở núi Lam Sơn, làm nghề cày cấy. Vì căm giận bọn cường tặc tàn ngược, nên càng chuyên tâm nghiên cứu sách thao lược và dốc hết của nhà để hậu đãi tân khách”.

Năm 1418, Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, phất cờ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 10 năm (1418-1427) thì có tới hơn 6 năm, vùng rừng núi Thanh Hóa được chọn làm căn cứ địa. Bởi lực lượng yếu, mỏng nên giai đoạn đầu khởi nghĩa cũng là “thời kỳ dài và gian khổ nhất”, khi đó “nghĩa binh mới dấy”, mà “thế giặc đương hăng”, có lúc rơi vào tình thế phải “đình chiến hai năm để củng cố lực lượng”, song với nghị lực phi thường, lại được Nhân dân đùm bọc, chở che, giúp đỡ, nên nghĩa quân đã vượt qua bao khó khăn nguy hiểm, dần khôi phục và phát triển được phong trào.

Theo sách “Lam Sơn thực lục”, trong buổi đầu khởi sự, nghĩa quân Lam Sơn chỉ có 35 võ tướng, 200 quân thiết đột, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, 14 con voi... tất cả không quá 2.000 người. Trong khi đó, quân Minh có hơn 4,5 vạn người và hàng trăm voi ngựa. Vậy, làm thế nào nghĩa quân Lam Sơn có thể từng bước vượt qua sự gian khó này? Câu trả lời đã được Nguyễn Trãi đúc kết trong bài cáo thắng trận: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Trước khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, biết Lê Lợi là người tài năng, đức độ, nhiều người đã tìm đến Lam Sơn xin được nương thân, làm gia nô cho Hào trưởng Lê Lợi và sau này nhiều người có mặt trong Hội thề Lũng Nhai, trở thành những tướng lĩnh tài giỏi, trung kiên, đảm đương và giữ vị trí quan trọng trong cuộc khởi nghĩa, nghĩa sĩ tin cậy của nghĩa quân Lam Sơn. Hội thề Lũng Nhai (1416) gồm Lê Lợi và 18 người thân tín thì đa phần là người Thanh Hóa, như Lê Lai, Nguyễn Thận, Lê Văn An, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Lê Ninh, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Lý, Trương Chiến, Đinh Lan...

Thành phần tham gia khởi nghĩa là người Thanh Hóa cũng rất đa dạng, từ miền đồng bằng như: Lê Tông Kiều, Võ Uy, Hà Mộng, Lê Khương; cho đến người dân các dân tộc thiểu số như: Lê Hiểm, Lê Hiêu, Lê Sao, Lê Yết, Lê Xa, Lê Lôi, Lê Cố... Cùng với đó, phụ nữ Thanh Hóa cũng có nhiều đóng góp cho cuộc khởi nghĩa như cung cấp lương thực, xây dựng căn cứ, tham gia chiến đấu, dũng cảm quên mình vì nghĩa lớn như bà Phạm Thị Ngọc Trần (vợ Bình Định vương Lê Lợi) - người đã có công trong việc quản lý trang trại, lương thực ở Lam Sơn, chỉ huy đội nữ binh; Hồng Nương công chúa là con gái của Lê Lợi cũng làm nữ tướng tham gia đánh giặc; Nguyễn Thị Bành (vợ Nguyễn Chích) là một nữ tướng tài ba chỉ huy nhiều trận đánh... Tất cả đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để hình thành nên cuộc khởi nghĩa tạo điều kiện phát triển về sau này.

Đóng góp của Nhân dân Thanh Hóa được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là “nổi bật và toàn diện nhất”. Trong bài viết “Lam Sơn, căn cứ hậu cần đầu tiên của kháng chiến chống Minh”, các tác giả Đinh Xuân Lâm - Trần Quang Vinh đã nhận định: “Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Lợi đặc biệt chú trọng đến việc huy động tài vật, lương thực trong Nhân dân, nhất là trong các dân tộc thiểu số vùng núi phía Tây Thanh Hóa, liền kề sau lưng căn cứ Lam Sơn mà nghĩa quân vốn có mối quan hệ rất chặt chẽ”. Còn các tác giả Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn trong cuốn “Khởi nghĩa Lam Sơn 1418-1427”, đã chỉ rõ: “Hầu như không có làng nào thuộc hai huyện Lương Giang và Cổ Lôi dọc theo sông Chu không có người gia nhập nghĩa quân vào những năm tháng chuẩn bị này”.

Giữa vô số cuộc vây khốn, truy quét gắt gao của quân thù, Bình Định vương cùng nghĩa quân đã dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở dọc từ Quan Hóa, Quan Sơn, Thường Xuân, Bá Thước, Lang Chánh, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Thạch Thành... để vừa công, vừa thủ duy trì chiến đấu. Có những thời điểm nghĩa quân bị bao vây nguy khốn, phải 3 lần rút lên núi Chí Linh và ròng rã hàng tháng không có lương ăn. Sự khốn đốn ở buổi đầu ấy được tác giả của “Bình Ngô đại cáo” ghi lại: “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Lúc Khôi Huyện quân không một đội”. Giữa tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, sự đùm bọc, ủng hộ hết lòng của đồng bào các dân tộc vùng rừng núi Chí Linh đã trở thành chỗ dựa để Lê Lợi và nghĩa quân “cùng nhau ngày đêm trải lòng trải dạ, vỗ về quân lính, sắp xếp đội ngũ, chỉnh đốn khí giới... nguyện tử chiến, thề không đội trời chung với giặc”.

Từ căn cứ địa Thanh Hóa, hàng chục trận đánh lớn nhỏ đã diễn ra khắp Mường Yên, Lạc Thủy, Mường Một, Mường Khao, Mường Nanh, bến Bổng, Mường Thôi, Bồ Mộng, Thi Lang, Quan Du, Kình Lộng, Úng Ải... Thắng lợi trong nhiều trận đánh quan trọng đã đưa khởi nghĩa Lam Sơn trở thành trung tâm của cuộc đấu tranh chống ách đô hộ nhà Minh hồi đầu thế kỷ XV. Quá trình tôi luyện và từng bước lớn mạnh của nghĩa quân trong giai đoạn này đã tạo tiền đề để năm 1424, cuộc khởi nghĩa chuyển hướng vào đất Nghệ An. Cũng từ đây, khởi nghĩa Lam Sơn có bước ngoặt mới, với nhiều thắng lợi lớn mang tính quyết định đến cục diện cuộc chiến.

Sau 10 năm khởi nghĩa, trải qua nhiều gian truân vất vả, cuối cùng giành thắng lợi vẻ vang, mở ra một vương triều mới - nhà Lê sơ, tồn tại 360 năm trong lịch sử Việt Nam. Đây là thời kỳ trung hưng đất nước rạng rỡ và hùng cường bậc nhất của quốc gia Đại Việt thời phong kiến. Qua đó khẳng định thêm vai trò quan trọng của đất và người xứ Thanh trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng quê hương, đất nước.

Hoài Anh

(Bài viết có sử dụng một số tài liệu trong Hội thảo khoa học “Anh hùng dân tộc Lê Lợi và Nhân dân Thanh Hóa với khởi nghĩa Lam Sơn”).

Giải Vở Bài Tập Lịch Sử 7 Bài 19: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giúp HS giải bài tập, cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, chính xác, khoa học để các em có những hiểu biết cần thiết về lịch sử thế giới, nắm được những nét lớn của tiến trình lịch sử Việt Nam:

Hào kiệt và những người yêu nước khắp nơi tìm đến với Lê Lợi để tụ nghĩa là vì:

Ông là người rất giỏi võ, có sức khỏe hơn người
Ông là người rất giàu và có thế lực lớn
Là hào trưởng có uy tín lớn, yêu nước, dốc hết tài sản để chiêu tập nghĩa sĩ đánh giặc
Ông là nhà chính trị đại tài.

Lời giải:

Là hào trưởng có uy tín lớn, yêu nước, dốc hết tài sản để chiêu tập nghĩa sĩ đánh giặc

a)Điền vào chỗ trống những hiểu biết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

-Người chỉ huy:… tự xưng là:

-Bộ chỉ huy có… người.

-Nơi diễn ra hội thề:…

-Ngày khởi nghĩa:…

b)Trong số những nhân vật sau đây, những ai đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đánh dấu X vào dưới những tên người mà em cho là đúng:

Lê Lợi
Trần Quốc Tuấn
Lưu Nhân Chú
Trần Quang Khải
Lê Lai
Đinh Liệt
Trần Quý Khoáng
Nguyễn Trãi
Lê Thánh Tông

Lời giải:

a)

-Người chỉ huy: Lê Lợi tự xưng là: Bình Định Vương

-Bộ chỉ huy có 19 người.

-Nơi diễn ra hội thề: Lũng Nhai (Thanh Hóa)

-Ngày khởi nghĩa: Ngày 2 tháng 1 năm Mậu Tuất (7/2/1418)

b)

Lê Lợi, Lưu Nhân Chú, Lê Lai, Đinh Liệt, Nguyễn Trãi

a)Những ngày đầu khởi nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn đã gặp muôn vàn khó khăn. Em hãy nêu một vài dẫn chững tiêu biểu?

b)Em biết gì về người đã hi sinh anh dũng để cứu Lê Lợi và nghĩa quân khỏi tình thế nguy hiểm?

Lời giải:

a)Dẫn chứng: Quân Minh nhiều lần tấn công bao vây căn cứ, nghĩa quân liên tục rút quân và chống lại sự vây quét của địch.

Có lúc thiếu lương thực trầm trọng, phải giết cả voi cả ngựa.

b)Lê Lai người dân tộc Mường, quê ở Thanh Hóa. Gia đình ông có 5 người tham gia nghĩa quân thì 4 người đã hi sinh trong chiến đấu.

Ở trên núi cao xa xôi, hẻo lánh, rất khó để phát triển lương thực.
Tập trung binh lực nhưng không tiêu diệt được đối phương.
Thiếu lương thực trầm trọng.
Để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho bước phát triển mới.
Để thực hiện âm mưu dụ hòa Lê Lợi hòng làm nhụt ý chí chiến đấu của nghĩa quân.

Lời giải:

N Ở trên núi cao xa xôi, hẻo lánh, rất khó để phát triển lương thực.
M Tập trung binh lực nhưng không tiêu diệt được đối phương.
N Thiếu lương thực trầm trọng.
N Để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho bước phát triển mới.
M Để thực hiện âm mưu dụ hòa Lê Lợi hòng làm nhụt ý chí chiến đấu của nghĩa quân.

Ý không phải lí do Nguyễn Chích đề nghị tiến quân đánh váo Nghệ An để xây dựng căn cứ mới là:

Để thoát khỏi thế bị bao vây, tiêu diệt.
Nghệ An là nơi đất rộng, người đông, có địa thế hiểm yếu.
Xa lãnh thổ Trung Quốc, quân Minh khó có tiếp viện.
Vùng núi rừng Thanh Hóa khó tiến quân và lui quân.

Lời giải:

Xa lãnh thổ Trung Quốc, quân Minh khó có tiếp viện.

-Ngày 12-10-1424, tập kích đồn…

-Hạ thành…, buộc địch phải đầu hàng.

-Đánh bại quân Trần Trí ở… bằng kế nghi binh.

-Siết chặt vòng vây…, tiến đánh và giải phóng…

-Tiến quân ra…, giải phóng… trong một thời gian ngắn.

Lời giải:

-Ngày 12-10-1424, tập kích đồn Đa Căng.

-Hạ thành Trà Lân, buộc địch phải đầu hàng.

-Đánh bại quân Trần Trí ở Khả Lưu, Bồ Ải bằng kế nghi binh.

-Siết chặt vòng vây thành Nghệ An, tiến đánh và giải phóng Diễn Châu.

-Tiến quân ra Thanh Hóa, giải phóng Diễn Châu, Thanh Hóa trong một thời gian ngắn.

Lời giải:

-Đạo thứ nhất: Tiến quân giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sang.

-Đạo thứ hai: Giải phóng vùng hạ lưu sông Hồng…, ngăn chặn viện binh từ Quảng Tây sang

-Đạo thứ ba: Tiến thẳng ra Đông Quan

Lời giải:

Trận Tốt Động – Chúc Động Trận Chi Lăng – Xương Giang

-Tháng 10-1426, khoảng 5 vạn viện binh kéo vào thành Đông Quan.

-Ngày 7-11-1436, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ.

-Biết trước âm mưu của giặc, quân ta phục kích ờ Tốt Động – Chúc Động.

-Quân địch đại bại.

-Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm Đông Quan, giải phóng thêm nhiều châu, huyện.

-Đầu tháng 10 – 1427, hơn 10 vạn viện binh từ Trung Quốc chia làm hai đạo kéo vào nước ta. -Đầu tháng 10 – 1427, hơn 10 vạn viện binh từ Trung Quốc chia làm hai đạo kéo vào nước ta.

-Bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt viện quân giặc.

-Ngày 8 -10, quân Liễu Thăng ào ạt tiến vào biên giới nước ta, bị nghĩa quân phục kích và giết ở ải Chi Lăng.

-Lương Minh lên thay, chấn hình đội ngũ, tiến xuống Xương Giang.

-Trên đường tiến quân, quân giặc liên tiếp bị phục kích tiêu diệt.

-Số địch đến được Xương Giang cũng bị nghĩa quân tập kích tiêu diệt.

+ Hoàn cảnh ra đời

+ Nội dung

+ Ý nghĩa

Lời giải:

-Hoàn cảnh ra đời: Đất nước hoàn toàn giải phóng, quân Minh đã bị đánh bại.

-Nội dung: Tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc từ những ngày gian lao ở núi Chí Linh đến các chiến thắng lẫy lừng Tốt Động – Chúc Động, Chi Lăn g – Xương Giang.

-Ý nghĩa: nêu bật ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, toát lên niềm tự hào dân tộc sâu sắc, chủ nghĩa yêu nước và nhân đạo sáng ngời.

Quân đội nước ta rất thiện chiến.
Toàn dân đoàn kết chiến đấu, có đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo, có bộ tham mưu tài giỏi, đứng đầu là Lê Lợi và Nguyễn Trãi.
Nhà Minh phải chia sẻ lực lượng để đối phó với giặc ngoại xâm ở Trung Quốc.
Quân Minh không quen với khí hậu và địa hình của nước ta.

Lời giải:

Toàn dân đoàn kết chiến đấu, có đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo, có bộ tham mưu tài giỏi, đứng đầu là Lê Lợi và Nguyễn Trãi.