Tiếng Việt thực hành Đại học là gì
đề cương môn học tiếng việt thực hành Show
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.19 KB, 11 trang ) ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC CHƯƠNG I CHÍNH TẢ I. Định nghĩa thuật ngữ II. Viết dấu hỏi, dấu ngã 1. Học thuộc lòng 1 2. Dùng mẹo luật III. Viết nguyên âm, phụ âm : 1. Học thuộc lòng 2. Dùng mẹo luật 2.1. Luật “ Giao Tranh Cho Tôi Cầm” 2.2. Luật “ Dặn Đến Nhà Thương” 3. Theo truyền thống và quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo. IV. Viết tên riêng nước ngoài, viết hoa, viết tắt V. Kết luận 1. Nguyên nhân sai chính tả 2. Biện pháp khắc phục VI. Bài tập CHƯƠNG II DÙNG TỪ I. Dùng từ đúng 1. Dùng từ đúng âm. 2. Dùng từ đúng nghĩa. II. Dùng từ hay 1. Dùng từ chính xác. 2. Dùng từ hình tượng 3. Dùng từ sáng tạo III. Kết luận CHƯƠNG III VIẾT CÂU I. Phân loại câu 1. Câu đơn 2. Câu ghép II. Viết câu hay 3. Câu chặt chẽ, mạch lạc. 4. Câu chính xác, rõ ràng. 5. Câu hùng hồn, mạnh mẽ. 2 III. Chữa câu sai 1. Câu sai về cấu trúc 2. Những loại câu khác CHƯƠNG IV DẤU CÂU I. Các loại dấu câu và ký hiệu dùng cho dấu câu. II. Chức năng chung của hai nhóm dấu câu 1. Dùng các dấu chấm câu thuộc nhóm dấu phân cách một lần để phân cách các đơn vị ngữ pháp có quan hệ đẳng lập. 2. Dùng dấu câu thuộc nhóm dấu tách biệt hai lần để tách trọng ngữ, phân biệt lập hoặc phần chú thích một cụm chủ vị. III. Các sử dụng từng dấu câu cụ thể 1. Các dấu chấm câu 2. Các dấu giữa câu 3. Các dấu có nhiều vị trí IV. Bài tập CHƯƠNG V DỰNG ĐOẠN I. Khái niệm về đoạn II. Cấu trúc của đoạn văn 1. Câu mở đoạn, câu thân đoạn, câu kết đoạn. 2. Câu chủ đề III. Liên kết câu 1. Phương thức liên kết 2. Quan hệ ý nghĩa IV. Năm mẫu đoạn đơn giản 1. Mẫu căn bản 2. Mẫu liệt kê 3. Mẫu liệt kê có chủ đề 4. Mẫu hỗn hợp liên tục 5. Mẫu hỗn hợp gián đoạn V. Bài tập 3 CHƯƠNG VI VĂN BẢN I. Khái niệm về văn bản 1. Định nghĩa 2. Đặc trưng cơ bản 3. Các phép liên kết văn bản thường gặp II. Các phong cách văn bản 1. Văn bản hành chính 2. Văn bản chính luận 3. Văn bản khoa học 4. Văn bản nghệ thuật III. Xây dựng lập luận phục vụ chủ đề văn bản. IV. Tóm tắt văn bản V. Bài tập 4 CHƯƠNG 2 DÙNG TỪ Từ là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất có ý nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, được người nói, người viết dùng để đặt câu. Vì vậy, nói đến việc rèn luyện kỹ năng nói và viết, trước hết phải nói đến nghệ thuật dùng từ đúng hay sai. I. DÙNG TỪ ĐÚNG. Dùng từ đúng là dùng từ đúng âm và đúng nghĩa. 1. Dùng từ đúng âm. Muốn dùng từ đúng âm thì ta phải biết cách phát âm chuẩn. Nhưng nói cho chuẩn cả tiếng Việt là một yêu cầu gần như không thể thực hiện mọi người dân khắp cả ba miền. Trên lý thuyết chuẩn phát âm phải được giải quyết trước chuẩn chính tả. Vậy viết đúng chính tả là một biện pháp người dùng từ đúng âm. Hiểu nghĩa của từ, ta sẽ hạn chế được phần nào lỗi dùng từ không đúng âm. Ví dụ : Đúng âm Không đúng âm Biểu ngữ Biển ngữ Cảm khái Cảm khoái Thủy mặc Thủy mạc Hoặc phải theo cách phát âm đã được phổ biến Ví dụ : Đúng âm Không đúng âm Bạc mệnh Bạc mạng Chung cư Chúng cư Phiêu bạt Phiêu bạc Nếu trong thực tế còn tồn tại 2 cách phát âm mà ta chưa căn cứ vào từ nguyên hoặc quần chúng để xác định một âm chuẩn, ta chấp thuận cả hai cách phát âm ấy. Tình trạng nầy ngôn ngữ học gọi là lưỡng khả. Ví dụ : Chuẩn ? Không chuẩn ? Cọng hòa Cộng hòa Phản ảnh Phản ánh Sát nhập Sáp nhập 5 Sứ mệnh Sứ mạng Cuối cùng, không nói tắt, không thay đổi trật tự các từ trong từ ghép hoặc từ tổ (nhóm từ) cũng là điều cần lưu ý để tránh lỗi dùng từ không chuẩn. Ví dụ : Chuẩn Không chuẩn Cục đào tạo và bồi dưỡng Cục bồi dưỡng Dân chi phụ mẫu Phụ mẫu chi dân Xa xôi Xôi xa 2. Dùng từ đúng nghĩa . Nghĩa của từ được nêu rõ trong từ điển. Vì vậy sử dụng thường xuyên từ điển vẫn là yêu cầu được đặt ra cho người làm công tác văn hóa giáo dục, cũng như sinh viên, học sinh để rèn luyện kỹ năng dùng từ. Gặp một từ không hiểu nghĩa, ta phải chịu khó tra tự điển, không nên đoán mò, không nên dùng từ Hán Việt theo thói quen. Không nên hiểu lờ mờ. Chú ý kho từ vựng thường có một số từ đồng âm dị nghĩa tương đối. II. DÙNG TỪ HAY. Có nhiều cách dùng từ hay. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu một số trường hợp tiêu biểu. 1. Dùng từ chính xác. Dùng từ đúng cũng là dùng từ hay nếu từ ấy là từ chính xác - từ không thể thay thế bằng bất kỳ từ nào khác. La Bruyère, một nhà văn Pháp sống trong thế kỷ XVII, đã có ý nghĩ : “Trong số hết thảy các từ ngữ có thể diễn được một ý độc nhất của ta, chỉ có một từ ngữ đúng, khi nói hoặc viết, người ta không luôn luôn kiếm thấy nó đâu, nhưng nó vẫn có” Gustave Flaubert, một nhà văn Pháp khác sống ở thế kỷ XIX, cũng có ý tưởng tương tự: “Dù ta muốn nói điều gì đi nữa, cũng chỉ có mỗi một tiếng để diễn điều đó thôi, chỉ có một động từ để làm cho điều đó hóa ra có sinh khí và mỗi một trạng trừ để tả nó. Cần phải kiếm cho được tiếng ấy và đừng lấy làm mãn ý khi mới kiếm được những tiếng tương tự”. Thi hào Việt Nam là Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, đã nhiều lần chứng tỏ mình là một bậc thầy về nghệ thuật dùng từ chính xác. Dưới đây là một vị dụ : “Sinh càng nát ruột tan hồn, Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay” 6 Hai câu thơ này tả tâm trạng Thúc Sinh trong tiệc tẩy trần do Hoạn Thư bày ra với mục đích làm khổ tình địch và làm nhục chồng mình. Thấy người yêu trở thành đứa ở và đang bị vợ đày đọa, Thúc Sinh giả say không muốn uống rượu nữa để chấm dứt thảm kịch. Thấy vậy, Hoạn Thư nổi máu ghen “vội thét con Hoa (tên mới của Thúy Kiều), khuyên chàng chẳng đặng thì ta cho đòn”. Trong tình huống ấy, Thúy Kiều nâng chén rượu, mời và Thúc Sinh phải ngậm đắng nuốt cay mà “ráo ngay”. “Ráo ngay” chứ không thể là “uống ngay” hoặc “cạn ngay”. Phải “ráo ngay” mới lột tả được tâm lí của một Thúc Sinh nhát gan, hèn yếu, sợ vợ. Đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta gặp bài học sinh động về nghệ thuật dùng từ chính xác trong văn chính luận. Mở đầu văn kiện lịch sử này, Bác Hồ viết : “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta cần nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa” Ta “muốn hòa bình” chứ không phải “yêu hòa bình”, “mong hòa bình”, vì “muốn” vừa diễn tả nguyện vọng, vừa bày tỏ ý chí và quyết tâm, rất thích hợp với khẩu chí của nhà cách mạng. Ta “nhân nhượng” mà không “nhượng bộ” vì “nhân nhượng” là cách xử sự hợp lí, hợp tình của người có đạo đức, có nhân nghĩa, còn “nhượng bộ” là “chịu để cho đối phương lấn tới, vì yếu thế hay do không kiên quyết”. Địch “lấn tới” chứ không phải là “tiến tới”, vì “tiến tới”, vì “tiến tới” là thái độ chính đáng, đường hoàng của người biết hành động theo lí tưỡng, có mục đích, còn “lấn tới” là hành vi xấu xa của kẻ không có gì ngoài sức mạnh thô bạo. “Lấn tới” chính là thủ đoạn của bọn thực dân “cướp nước”. Trong văn bản này, người đọc còn tìm gặp một câu mói thống thiết mà quyết liệt : “Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng lên!”. “Phải đứng lên” khác “hãy đứng lên”. Nói “hãy đứng lên” là khuyên nhủ, là kêu gọi. Nói “phải đứng lên” là ra lệnh chiến đấu một mất một còn với giặc. Giặc đã dồn ta đến chân tường. ta chỉ còn một con đường là đứng lên, cầm vũ khí để tự vệ. Trong một tình thế vô cùng khẩn trương mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dùng thì giờ cân nhắc, tính toán để sử dụng từ ngữ một cách chính xác như vậy. Lẽ nào bạn trẻ chúng ta lại dùng một cách tùy tiện khi làm văn trong lớp học, trong giảng đường? 2. Dùng từ hình tượng. 7 Từ hình tượng vẽ lên trước mắt người đọc bức tranh của cuộc sống, tạo cho người đọc cái cảm giác được nhìn thấy tận mắt sự vật được miêu tả. Với đặc tính nầy ngoài chức năng thông báo, từ hình tượng còn tạo cho độc giả nhiều rung cảm thẩm mỹ. Vì vậy từ hình tượng rất thích hợp với ngôn ngữ văn chương. Tuy thế, trong văn chính luận, nếu được sử dụng chừng mực và đúng chỗ, từ hình tượng cũng có thể tác động mạnh đến người đọc và để lại cho đọc giả nhiều cảm nghĩ sâu lắng. Đặc trưng của từ hình tượng là gợi chứ không tả. Tả thì chính xác, đầy đủ và rõ ràng đến mức không còn gì để nói nữa. Nhưng gợi thì muốn nói đến vô cùng. Với đặc điểm này, từ hình tượng tạo cho văn bản một ý ngoài lời, một nghĩa ở chiều sâu, một nội dung ở dạng tiềm năng. Bài thơ, vì vậy, có thể có nhiều tầng nghĩa mà không một ai có thể đọc và hiểu hết trong một lần. Mỗi người, khi đọc những tác phẩm văn chương có ngôn ngữ hình tượng, có thể tìm gặp ở đó một nét nghĩa mới. Nhờ vậy, đối với mỗi người, mỗi thời, thơ có thể có một tiếng nói mới. Thơ có sức sống, thơ trẻ mãi với cuộc đời, với thời gian. Ví dụ : Khi bình giảng bài thơ Bóng cây kơ-nia, nhà phê bình văn học Phan Trọng Luận đã tìm thấy ở hình tượng cây kơ-nia thế lực chủ động của nam, tính. Cây kơ-nia là người con cường tráng của mẹ, là người chồng dũng cảm của em. Sau Phan Trọng Luận, đọc lại hai khổ thơ đầu của bài thơ : Buổi sáng em làm rẫy Thấy bóng cây kơ-nia Bóng ngã che ngực em Về nhớ anh không ngủ Buổi chiều mẹ lên rẫy Thấy bóng cây kơ-nia Bóng tròn che lưng mẹ Về nhớ anh mẹ khóc chúng ta có thể tìm gặp ở hình tượng văn học này một nét nghĩa mới: cây kơ-nia là anh, là bóng mát của cuộc đời mẹ và cuộc đời em … Từ hình tượng tạo cho bài thơ một nét nghĩa nhòe. Nhờ vậy, thơ hay, thơ có tứ hiểu theo nghĩa là ý cao, tình đẹp ẩn giấu ở đằng sau ngôn ngữ văn chương. Giả thiết rằng, miêu tả sự việc Thúy Kiều vượt qua hàng rào để tìm đến với Kim Trọng, Nguyễn Du viết : Xắn tay bẻ cái hàng rào, Rẽ cây trông tỏ lối vào nhà Kim. 8 Hai câu thơ này có nghĩa mà không có tứ, vì ngoài việc thông báo sự kiện, nó không gợi được ở người đọc những ý tưởng sâu sắc, nhưng rung cảm thẩm mĩ. Sự thật là thi sĩ tài hoa Nguyễn Du đã dùng ngôn từ hình tượng để gợi tả sự việc vừa nêu trên. Xắn tay mở khóa động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai… “Khóa động đào”, “mây”, “lối vào thiên thai” là những hình tượng văn học hòa hợp cùng nhau, hô ứng với nhau để nói với người đọc của nhiều thế hệ biết bao điều về tình yêu, về người yêu, về hạnh phúc của những kẻ đang yêu, và về tấm lòng nhân đạo rộng mở của thi tài Nguyễn Du vào đầu thế kỷ XIX… 3. Dùng từ sáng tạo. Từ sáng tạo là từ gọi tên sự vật lần thứ nhất, bằng cái nhìn tươi mát và hồn nhiên như trẻ thơ. Cuộc sống có nhiều màu vẻ. Đời người đổi thay không ngừng. Nhưng hầu hết từ ngữ mà ta đang dùng đều quá cũ, vì đã được dùng đi dùng lại nhiều lần từ lâu. Do vậy, có lúc ta nhận thấy những từ ngữ có được bằng thói quen, bằng kinh nghiệm của mình, không còn đủ hiệu lực để diễn đạt một tình ý nào đó. Vì vậy ta muốn vượt qua ngoài quy ước đã có, muốn nhìn sự vật bằng đôi mắt của trẻ thơ, muốn táo bạo dùng một từ sáng tạo. Từ “ngon” được Nguyễn Gia Thiều dùng cho “đẹp” trong Cung oán ngâm khúc là một ví dụ. Ta thường nói cảnh đẹp, hoa đẹp, người đẹp. Lại nói tình hay ý đẹp. Cái gì cũng đẹp, cho nên “đẹp” không diễn tả được điều gì đặc sắc. Trong Cung oán ngâm khúc, để tả sắc đẹp của cung nữ, Nguyễn Gia Thiều viết : Đóa lê ngon mắt cửu trùng, Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu. Trước và sau Nguyễn Gia Thiều, mọi người đều nói “đẹp mắt”, “đẹp lòng”. Một cách sáng tạo và độc đáo, Nguyễn Gia Thiều nói “ngon mắt”. Sống trong cung vua phủ chúa, chứng kiến cảnh sống bi thương của hàng trăm người thiếu nữ má đào mà phận bạc, nhà nghệ sĩ giàu lòng nhân ái Nguyễn Gia Thiều không khỏi sinh tâm oán trách cảnh sống xa hoa, dục lạc của đấng quân vương. Cho nên nhà thơ đã hạ một từ “ngon” để phơi bày những ham muốn vật chất thấp hèn đang được che giấu ở đằng sau những lớp vàng son lộng lẫy. 9 Cần nhớ: Sáng tạo nhưng không lập dị. Sáng tạo để được mới lạ và độc đáo. Cái mới hình thành từ cái cũ. Trái nền cái cũ mà người xây dựng các công trình mới. Nhà nghệ sĩ sáng tạo nói chung, dùng từ sáng tạo nói riêng không hoàn toàn tách rời truyền thống và thực tại. Ví dụ : Thời gian không có màu, nhưng mùa thu có nhiều lá vàng nên các nhà văn, thơ đã dùng từ “thu vàng” một cách sáng tạo. (Xuân Diệu: dùng từ Xuân Hồng nói về tuổi trẻ, về mùa xuân, về tình yêu; Trịnh Công Sơn thì dùng từ “Hạ trắng” để chỉ mùa hè xứ Huế với những con đường ngập đầy áo dài trắng của nữ sinh Đồng Khánh). III. KẾT LUẬN : Chúng ta bắt đầu học cách dùng từ đúng, rồi tập cách dùng từ hay, nhưng mục đích cuối cùng vẫn là luyện cho được cách viết tự nhiên, giản dị. Tự nhiên và giản dị là đỉnh cao của nghệ thuật. BÀI TẬP. 1. Phân biệt nghĩa một số từ Hán Việt sau đây : Áo và xiêm, bãi công và lãn công, bất hủ và bất tử, biến cố và sự cố, cổ nhân và cố nhân, cổ động và sách động, cô độc và cô đơn, công nhân và nhân công, quản chế và quản thúc, văn chương và văn học, văn hóa và văn minh./. 2. Bài tập về dùng từ số 1, 2, 3, 4. 3. Bài tập ôn về chính tả và dùng từ. 10 11 Giáo trình Tiếng Việt thực hành - Đại học Sư phạm Hà Nội"Giáo trình Tiếng Việt thực hành" được biên soạn bởi trường Đại học Sư phạm Hà Nội cung cấp kiến thức các cách phân loại vốn từ tiếng Việt, lịch sử vấn đề từ loại tiếng Việt, phân chia từ loại tiếng Việt, thực từ và hư từ, hệ thống từ loại tiếng Việt, động từ, tính từ, đại từ, số từ, phụ từ, quan... » Xem thêm "Giáo trình Tiếng Việt thực hành" được biên soạn bởi trường Đại học Sư phạm Hà Nội cung cấp kiến thức các cách phân loại vốn từ tiếng Việt, lịch sử vấn đề từ loại tiếng Việt, phân chia từ loại tiếng Việt, thực từ và hư từ, hệ thống từ loại tiếng Việt, động từ, tính từ, đại từ, số từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ, một số điểm cần lưu ý. » Thu gọn Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
Bài giảng Tiếng Việt thực hànhNguyễn Duy Xuân 2018-05-13T03:33:26-04:00 2018-05-13T03:33:26-04:00 https://nguyenduyxuan.net/nghien-cuu/bai-giang-tieng-viet-thuc-hanh-56.html https://img.cdnki.com/tieng-viet-thuc-hanh-dai-hoc-la-gi--d386fe69a6240e756d5b1979f823c543.wepbNguyễn Duy Xuân https://nguyenduyxuan.net/uploads/logotrong1.png Chủ nhật - 26/09/2010 23:25 BÀI GIẢNG TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH (tóm tắt) Ảnh minh họa MỞ ĐẦU TIẾNG VIỆT VÀ BỘ MÔN TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH I. Khái quát về tiếng Việt CHƯƠNG I: RÈN LUYỆN KỸ NĂNG XÂY DỰNG VĂN BẢN Bài 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN Bài 2: PHÂN TÍCH MỘT TÀI LIỆU KHOA HỌC I. Tìm ý chính của một đoạn văn: Bài 3: THUẬT LẠI NỘI DUNG TÀI LIỆU KHOA HỌC I. Tóm tắt một tài liệu khoa học: Bài 4: XÂY DỰNG MỘT TÀI LIỆU KHOA HỌC I. Khái quát về xây dựng văn bản:
Bài 1: CHỮA CÁC LỖI THÔNG THƯỜNG VỀ CÂU I. Những yêu cầu về câu trong văn bản: Bài 2: LUYỆN KĨ NĂNG DÙNG TỪ TRONG VĂN BẢN I. Hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về từ : Bài 3: CHÍNH TẢ VÀ PHIÊN ÂM TIẾNG NƯỚC NGOÀI I. Nguyên tắc chính tả tiếng Việt TÀI LIỆU THAM KHẢO - Tiếng Việt thực hành, Bùi Minh Toán, Nguyễn Quang Ninh, NXBGD 2003 Nguyễn Duy Xuân Tác giả bài viết: Nguyễn Duy Xuân |