thông tư hướng dẫn nghị định 34/2022

1. Các quy định của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp

 và cụ thể hóa những quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật [Luật năm 2020] Ngày 18/6/2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật năm 2020 có nhiều quy định mới như: [i] bổ sung quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; [ii] bổ sung hình thức nghị quyết liên tịch 3 bên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; [iii] bổ sung hình thức thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; [iv] thu hẹp phạm vi các loại văn bản quy phạm pháp luật phải lập đề nghị theo quy trình chính sách; [v] bổ sung trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc trong việc thẩm tra về chính sách dân tộc trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; [vi] sửa đổi một số quy định liên quan đến quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn; [vii] bổ sung quy định về các trường hợp “một văn bản sửa nhiều văn bản”; [viii] sửa đổi, bổ sung một số tài liệu trong hồ sơ dự án, dự thảo văn bản… Do vậy, để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định mới của Luật năm 2020, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung những quy định sau đây:

1.1. Về phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam


Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều 6 của Luật năm 2015 để quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể hóa quy định này, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP bổ sung 01 khoản vào Điều 25 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm: “Trả lời bằng văn bản đối với ý kiến phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong trường hợp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.”.
1.2. Về lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Luật năm 2020 bỏ yêu cầu lập đề nghị xây dựng văn bản theo quy trình chính sách đối với nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015. Do vậy, để bảo đảm phù hợp với quy định mới này, Nghị định số 154/2016/NĐ-CP bỏ quy định về lập đề nghị theo quy trình chính sách đối với hai loại văn bản nêu trên tại khoản 3 và khoản 4 Điều 4 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP; đồng thời sửa khoản 2 Điều 30 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định việc Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đề nghị xây dựng nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 của Luật [không còn phải đưa ra phiên họp của Chính phủ như theo quy định của Luật năm 2015].

1.3. Về đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và trong dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật


Thứ nhất, bổ sung vào khoản 2 Điều 6 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP [Đánh giá tác động của chính sách] quy định về đánh giá tác động của chính sách trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có liên quan đến chính sách dân tộc cho phù hợp với quy định mới của Luật năm 2020 [Điều 65, Điều 68a] về thẩm tra chính sách dân tộc trong dự án, dự thảo văn bản.
Thứ hai, sửa khoản 3 Điều 31 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP [Đánh giá tác động của chính sách trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật], theo đó bổ sung trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách trong giai đoạn soạn thảo đối với nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015 để phù hợp với quy định của Luật năm 2020 về chuyển trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng nghị định, nghị quyết sang giai đoạn soạn thảo đối với các loại văn bản này.
1.4. Về soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn
Luật năm 2020 bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trong trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn quy định tại khoản 1 Điều 146 của Luật. Để hướng dẫn thi hành quy định này, Nghị định sửa đổi, bổ sung Điều 37 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP [Đề nghị xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn] để quy định rõ nội dung của văn bản gửi lấy ý kiến và trách nhiệm trả lời của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong trường hợp này[1].
1.5. Về thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật Luật năm 2020 bổ sung hình thức nghị quyết liên tịch 3 bên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời giao Bộ Tư pháp trách nhiệm thẩm định các dự thảo nghị quyết liên tịch có sự tham gia của Chính phủ trước khi trình Chính phủ [tại khoản 4 Điều 109]. Do vậy, Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi khoản 1 Điều 43 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP [Thành lập Hội đồng thẩm định] để bổ sung quy định thành lập Hội đồng thẩm định đối với các nghị quyết liên tịch nêu trên.

1.6. Về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật và các phụ lục, biểu mẫu

- Bổ sung mẫu thông tư liên tịch và mẫu thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng kiểm toán nhà nước. - Bổ sung mẫu đề cương chi tiết dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật vào Phụ lục V để phù hợp với quy định của Luật năm 2020.

1.7. Về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật: sửa đổi, bổ sung các Điều 111 [Trách nhiệm tự kiểm tra văn bản]; Điều 113 [Thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ]; Điều 122 [Thủ tục do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ tiến hành kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật] để bổ sung Tổng kiểm toán nhà nước là chủ thể trong thông tư liên tịch với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ - là loại văn bản thuộc đối tượng kiểm tra.


2. Các quy định của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung do không còn phù hợp hoặc thiếu rõ ràng gây khó khăn, vướng mắc cho bộ, ngành, địa phương Sau 04 năm thi hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP cũng đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc. Chẳng hạn như [i] việc xác định một số trường hợp không phải là văn bản quy phạm pháp luật; [ii] đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; [iii] lập, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện danh mục văn bản quy định chi tiết nghị định, quyết của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; [iv] một số quy định về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản; [v] việc kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật; [vi] công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật … Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nêu trên, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung những quy định sau đây:

2.1. Về xác định một số trường hợp không phải văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương

Thực tiễn một số địa phương vẫn còn cách hiểu khác nhau trong việc xác định hình thức văn bản, ví dụ: nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của tỉnh, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về chương trình giám sát hằng năm của Hội đồng nhân dân, nghị quyết về đầu tư công trung hạn và dài hạn, nghị quyết thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất… dẫn đến việc, cùng một quy định nhưng có địa phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có địa phương ban hành văn bản hành chính.

Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho địa phương trong việc xác định văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định bổ sung vào Điều 3 Nghị định 34/2016/NĐ-CP một số nghị quyết của Hội đồng nhân dân không phải là văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là: “Nghị quyết về chương trình, đề án, dự án, kế hoạch”.


2.2. Về đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: sửa đổi nội dung đánh giá tác động về hệ thống pháp luật tại khoản 5 Điều 6 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP để bảo đảm chính xác hơn.
2.3. Về lập danh mục văn bản quy định chi tiết
Thứ nhất, về trách nhiệm đề xuất và lập danh mục văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước [Điều 28], Nghị định số 154/2020/NĐ-CP rút ngắn thời gian gửi danh mục văn bản quy định chi tiết về Bộ Tư pháp để tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ nhằm mục đích đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, ban hành văn bản quy định chi tiết[2] và thay cơ chế gửi danh mục văn bản quy định chi tiết để lấy ý kiến bằng cơ chế tổ chức họp trực tiếp để lấy ý kiến các bộ, cơ quan ngang bộ[3].
Thứ hai, bổ sung Điều 29a quy định về cơ chế hỗ trợ và kiểm soát việc ban hành các văn bản quy định chi tiết nghị định của Chính phủ quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19, quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tại Điều 20 và thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định tại khoản 2 Điều 24 của Luật năm 2015[4].
2.4. Về thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: sửa đổi khoản 1 Điều 50 [Thành lập và hoạt động của Hội đồng tư vấn thẩm định] của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP để quy định rõ hơn loại văn bản và trường hợp cụ thể mà Sở Tư pháp phải thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định.
2.5. Về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật và các biểu mẫu - Bổ sung khoản 7 vào Điều 69 [Sử dụng ngôn ngữ trong văn bản] của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP để quy định về viết hoa trong nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước, thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định của Ủy ban nhân dân. Đồng thời, bổ sung Phụ lục VI về viết hoa trong văn bản quy phạm pháp luật. - Bổ sung mẫu văn bản bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật; sửa đổi nội dung một số mẫu văn bản quy phạm pháp luật, mẫu tờ trình, mẫu báo cáo đánh giá tác động của chính sách…

2.6. Về kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật


Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số quy định về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP để quy định rõ ràng, hợp lý hơn về thẩm quyền kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan ngang bộ, trường hợp văn bản quy phạm pháp luật bị coi là trái pháp luật và hình thức xử lý văn bản trái pháp luật. Cụ thể như sau:
- Sửa đổi Điều 103 [Văn bản được kiểm tra, xử lý] để quy định đầy đủ, cụ thể hơn các trường hợp văn bản được coi là trái pháp luật. Theo đó, điểm a khoản 2 Điều này bổ sung một số trường hợp sau đây: “Văn bản quy định thời điểm có hiệu lực trái với quy định tại khoản 1 Điều 151 của Luật; văn bản vi phạm quy định của pháp luật về đánh giá tác động của chính sách, lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra dự thảo; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trong trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn theo trình tự, thủ tục rút gọn nhưng không thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 147 của Luật”.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 112 [Xử lý văn bản trái pháp luật] theo hướng: “Khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, cơ quan, đơn vị thực hiện việc tự kiểm tra theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 111 của Nghị định này có trách nhiệm lập hồ sơ kiểm tra văn bản và báo cáo ngay kết quả kiểm tra văn bản với cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản đó để xem xét, xử lý văn bản trái pháp luật theo quy định tại Điều 130 của Nghị định này. Quy định này giúp thống nhất cách hiểu và áp dụng các hình thức xử lý văn bản trái pháp luật theo thẩm quyền và hình thức xử lý văn bản trái pháp luật thông qua việc tự kiểm tra. - Sửa đổi khoản 5 Điều 115 theo hướng trao thẩm quyền cho cơ quan  kiểm tra, trong trường hợp cần thiết có quyền kiến nghị về tính minh bạch, khả thi và hiệu quả của văn bản.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số quy định về rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác định rõ hơn trách nhiệm rà soát, công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực, hết hiệu lực, ngưng hiệu lực; quy định hợp lý hơn về căn cứ rà soát, nguồn văn bản hệ thống hóa, cụ thể như sau:

- Bổ sung khoản 2a vào Điều 139 của Nghị định 34 với nội dung: “Các cơ quan nhà nước chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa các văn bản đó” nhằm bảo đảm tất cả các VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều được rà soát, hệ thống hóa.

- Bỏ quy định “Trường hợp có văn bản hợp nhất thì sử dụng văn bản hợp nhất để rà soát, hệ thống hóa” tại khoản 2 Điều 141 [Nguồn văn bản rà soát, hệ thống hóa] để bảo đảm tính chính xác cũng như giá trị pháp lý của văn bản là nguồn để rà soát, hệ thống hóa.


- Bỏ quy định “Văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực phải được định kỳ hệ thống hóa” tại Điều 164 [Định kỳ hệ thống hóa văn bản], để yêu cầu tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đều phải được hệ thống hóa, kể cả văn bản đã hết hiệu lực.
II. Những quy định về đánh giá tác động của chính sách theo quy định của Nghị định số 154/2020/NĐ-CP Luật năm 2015 đã đổi mới căn bản việc xây dựng chính sách trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có nhiều yêu cầu mới về đánh giá tác động của chính sách, nhằm nâng cao chất lượng của chính sách nói riêng, chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật nói chung cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc thực hiện đánh giá tác động chính sách trong hoạt động xây dựng pháp luật đã dần đi vào nền nếp và có tác động tích cực tới quá trình các cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, quyết định việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định của Luật năm 2015 [được sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật năm 2020], trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách được quy định tại Điều 35 về đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và nhiều điều, khoản khác như: Điều 75, Điều 76 và Điều 77 về quy trình xem xét, thông qua dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Điều 90 về trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo nghị định; Điều 97 về nhiệm vụ của cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Điều 112 về nhiệm vụ của cơ quan đề nghị xây dựng nghị quyết; Điều 119 về nhiệm vụ của cơ quan chủ trì soạn thảo nghị quyết. Với những quy định nêu trên, có thể thấy rằng, bên cạnh những quy định về đánh giá tác động của chính sách trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thì trong giai đoạn soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản, trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách cũng được đặt ra trong một số trường hợp nhất định.

Để cụ thể hóa quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đánh giá tác động của chính sách, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã dành 01 khoản [khoản 2 Điều 2] để định nghĩa về khái niệm “đánh giá tác động của chính sách”; 04 điều [từ Điều 6 đến Điều 9] quy định về các loại tác động của chính sách cần đánh giá, phương pháp, cách thức đánh giá tác động của chính sách và xây dựng báo cáo đánh giá tác động của chính sách và 01 điều [Điều 31] quy định về việc đánh giá tác động của chính sách trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Từ thực tiễn những vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, đồng thời để bảo đảm phù hợp với những quy định mới của Luật năm 2020, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP như sau:

1. Bổ sung vào khoản 2 Điều 6 quy định về đánh giá tác động của chính sách có liên quan đến chính sách dân tộc

Để nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, Luật năm 2020 bổ sung nhiều quy định mới trong đó có việc nâng cao vai trò, trách nhiệm và sự chủ động của Hội đồng dân tộc trong quá trình thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, đối với chính sách dân tộc, để thống nhất với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức Chính phủ, Luật năm 2020 bổ sung Điều 68a giao Hội đồng Dân tộc thẩm tra việc bảo đảm chính sách dân tộc trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Bên cạnh đó, trong quá trình soạn thảo nghị định của Chính phủ, nếu trong dự thảo nghị định có quy định về việc thực hiện chính sách dân tộc thì cơ quan chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc [Điều 91]. Do vậy, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả những quy định của Luật năm 2020, ngay trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, nếu chính sách trong đề nghị có liên quan đến vấn đề dân tộc hoặc nội dung dự thảo văn bản có quy định về việc thực hiện chính sách dân tộc thì cơ quan chủ trì lập đề nghị, chủ trì soạn thảo có trách nhiệm đánh giá tác động đối với các chính sách này. Ngoài ra, việc đánh giá tác động đối với chính sách dân tộc sẽ giúp cung cấp những thông tin quan trọng, qua đó tạo thuận lợi hơn cho Hội đồng Dân tộc trong quá trình thẩm tra và cho ý kiến đối với các vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng giúp cơ quan, người có thẩm quyền xem xét trước khi quyết định ban hành văn bản.

Cụ thể, chính sách dân tộc được bổ sung vào nội dung đánh giá tác động về xã hội tại khoản 2 Điều 6 như sau: “Tác động về xã hội được đánh giá trên cơ sở phân tích, dự báo tác động đối với một hoặc một số nội dung về dân số, việc làm, tài sản, sức khỏe, môi trường, y tế, giáo dục, đi lại, giảm nghèo, giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết cộng đồng, xã hội, chính sách dân tộc [nếu có] và các vấn đề khác có liên quan đến xã hội”.


2. Sửa đổi nội dung đánh giá tác động về hệ thống pháp luật tại khoản 5 Điều 6 để bảo đảm chính xác hơn Khoản 5 Điều 6 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã chỉ rõ những tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản và dự thảo văn bản đối với hệ thống pháp luật. Theo quy định này, tác động của chính sách đối với hệ thống pháp luật bao gồm: [1] tác động đối với khả năng thi hành và tuân thủ của cá cơ quan, tổ chức, cá nhân; [2] tác động đối với tổ chức bộ máy nhà nước; [3] khả năng thi hành và tuân thủ của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế.

Quy định nêu trên của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP chưa thực sự chính xác ở một số điểm sau đây: Một là, khoản này nói đến tác động của chính sách đối với toàn bộ hệ thống pháp luật, chứ không phải tác động đối với khả năng thi hành một văn bản đơn lẻ. Hơn nữa, khả năng thi hành liên quan đến tính khả thi của dự thảo văn bản, là một trong những nội dung thẩm định, thẩm tra; Hai là, hệ thống pháp luật là tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật, không bao gồm tổ chức, bộ máy nhà nước nên việc xác định tác động đối với tổ chức bộ máy nhà nước cũng chưa hoàn toàn phù hợp.


Từ lý do nêu trên, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nội dung đánh giá tác động của chính sách đối với hệ thống pháp luật tại khoản 5 Điều 6 như sau: “Tác động đối với hệ thống pháp luật được đánh giá trên cơ sở phân tích, dự báo tác động đối với tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; khả năng về thi hành và tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; khả năng thi hành và tuân thủ của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
3. Sửa đổi Điều 31 về đánh giá tác động của chính sách trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với quy định mới của Luật năm 2020 Đối với nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015, Luật năm 2020 chuyển trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách từ giai đoạn lập đề nghị sang giai đoạn soạn thảo. Do vậy, trong giai đoạn soạn thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo các nghị định, nghị quyết nêu trên có trách nhiệm đánh giá của chính sách trong dự thảo nghị định, nghị quyết. Để hướng dẫn thực hiện thống nhất quy định nêu trên, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP sửa đổi khoản 3 Điều 31, theo đó bổ sung trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách trong giai đoạn soạn thảo đối với nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015. Việc đánh giá tác động và xây dựng báo cáo đánh giá tác động của chính sách đối với các nghị định, nghị quyết nêu trên được thực hiện theo quy định tại Điều 5, Điều 6, Điều 7, điểm a khoản 1 Điều 8 và Điều 9 của Nghị định này.

4. Sửa mẫu Báo cáo đánh giá tác động của chính sách [tại Phụ lục V] theo hướng hợp lý hơn

Theo Mẫu số 01 Phụ lục V ban hành kèm theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP, về cơ bản nội dung Báo cáo đánh giá tác động của chính sách được kế thừa quy định của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. Tuy nhiên, để nâng cao trách nhiệm của cơ quan lập đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc chuẩn bị, xây dựng báo cáo đánh giá tác động của chính sách, đồng thời bảo đảm tính nhất quán với hình thức của những tài liệu khác trong hồ sơ đề nghị, hồ sơ dự án, dự thảo như: báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính…, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP sửa đổi về thể thức, kỹ thuật trình bày báo cáo đánh giá tác động của chính sách, theo đó, báo cáo này phải được ký, đóng dấu bởi cơ quan, tổ chức lập đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo.    Ngoài những sửa đổi, bổ sung nêu trên của Nghị định số 154/2020/NĐ-CP đối với Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, Luật năm 2020 còn sửa đổi một số quy định liên quan đến trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách đối với những chính sách mới do đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung vào dự thảo trong thời gian giữa 2 kỳ họp của Quốc hội và 2 phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể:

- Đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 75 và khoản 4 Điều 76, trong thời gian giữa 2 kỳ họp [với dự án được thông qua tại 2 kỳ họp] hoặc trong thời gian giữa kỳ họp thứ 2 và kỳ họp thứ 3 [với dự án được thông qua tại 3 kỳ họp], đối với những chính sách mới được đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung vào dự thảo thì trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức đánh giá tác động của chính sách để báo cáo Quốc hội.


- Đối với dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 77 [với dự án được thông qua tại 2 phiên họp], trong thời gian giữa 2 phiên họp, đối với những chính sách mới được Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung vào dự thảo thì cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức đánh giá tác động của chính sách để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội./.

Nguồn: moj.gov.vn [Trần Việt Đức, Vụ Các vấn đề chung về XDPL]

[1] Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản lấy ý kiến.

[2] Quy định cũ lần lượt là 20 ngày và 10 ngày.

[3] Thay quy định gửi danh mục văn bản quy định chi tiết cho các bộ, cơ quan ngang bộ được dự kiến phân công soạn thảo để lấy ý kiến bằng quy định “Tổ chức họp với các bộ, cơ quan ngang bộ được dự kiến phân công chủ trì soạn thảo và các cơ quan, tổ chức có liên quan để thống nhất ý kiến về danh mục văn bản quy định chi tiết trước khi trình Thủ tướng Chính phủ”.

[4] Điều này quy định trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc ban hành thông tư theo thẩm quyền có nội dung giao bộ, cơ quan ngang bộ khác hoặc địa phương quy định chi tiết, thông báo bằng văn bản cho bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương về nội dung được giao quy định chi tiết và theo dõi, đôn đốc việc soạn thảo, ban hành văn bản quy định chi tiết. Đồng thời, quy định trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản quy định chi tiết trong việc bảo đảm chất lượng, tiến độ soạn thảo, thời hạn ban hành văn bản và thông báo về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình soạn thảo cho cơ quan chủ trì soạn thảo nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc cơ quan ban hành thông tư để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hoặc xử lý theo thẩm quyền.

Video liên quan

Chủ Đề