Thành phần kinh tế nhà nước hình thành bằng cách

07:14 09/11/2021

Theo quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới các thành phần kinh tế vừa tồn tại độc lập, cạnh tranh, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Việc thực hiện phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần sẽ phát huy được lợi thế, tiềm năng, nguồn lực của từng thành phần kinh tế trong xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.

ThS. Bùi Thị Kim Chung

Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

Thành phần kinh tế nhà nước hình thành bằng cách

Tại Đại hội Đảng lần VI được xem là mốc của sự chuyển đổi toàn diện mọi mặt. Nhiệm vụ phải giải quyết vấn đề cơ bản là thay đổi toàn diện về cơ cấu kinh tế, dứt khoát xóa bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện chính sách nhiều thành phần kinh tế, thực hiện lưu thông hàng hoá tự do, mở rộng hợp tác và đầu tư quốc tế. Nghị định 27, 28, 29 của Hội Đồng Bộ Trưởng năm 1988 ban hành quy định đối với kinh tế cá thể, kinh tế tập thể, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư doanh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ , xây dựng và vận tải, nhằm mạnh dạng khẳng định cũng như tạo môi trường pháp lý khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh yên tâm mở rộng sản xuất kinh doanh. Tức là thừa nhận sự tồn tại các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Đại hội VI năm 1986 khẳng định nước ta có các thành phần Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể. Các thành phần kinh tế khác gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá; kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.

Trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác. Củng cố kinh tế tập thể theo hướng nâng cao trình độ tổ chức quản lý và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đi đôi với thực hiện quan hệ trao đổi và liên kết với kinh tế quốc doanh và kinh tế gia đình, trước hết là mặt cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Kinh tế gia đình có vị trí quan trọng và khả năng dồi dào cần được khuyến khích và giúp đỡ phát triển trong mối quan hệ hỗ trợ và gắn bó với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa. Vận động những người lao động cá thể đi vào làm ăn tập thể theo nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi. Nhà nước cho phép những nhà tư sản nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và tổ chức quản lý của họ để tổ chức sản xuất, kinh doanh trong một số ngành nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết trong cả nước. Hoạt động của kinh tế tư bản tư nhân được hướng dẫn đi theo quỹ đạo chủ nghĩa xã hội bằng nhiều hình thức của kinh tế tư bản nhà nước, thông qua sự kiểm soát của Nhà nước và sự liên kết với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể [1, tr.31-33]

Tại Đại hội VII năm 1991, về cơ cấu thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế quốc doanh; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó đảm bảo kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, phát huy và kết hợp hài hòa sức mạnh của tập thể và xã viên. Phát triển kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức. Kinh tế tư nhân được phát triển đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước. Hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Sớm chấn chỉnh công tác quản lý đối với các cơ sở công nghiệp, xây dựng, vận tải ngoài quốc doanh. Tổ chức từng bước việc thành lập các xí nghiệp, công ty cổ phần. [2, tr.363-364] 

Tại Đại hội VIII năm 1996, các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước; Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước. Đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo. Tiếp tục tổ chức lại và sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý để triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động thêm vốn cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của người lao động trong các ngành nghề trên cơ sở góp vốn cổ phần và lao động trực tiếp của xã viên phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, đảm bảo cơ chế quản lý dân chủ, công khai về tài chính và kinh doanh. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước và tư bản tư nhân nước ngoài nhằm động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý. Đối với kinh tế cá thể tiểu chủ hỗ trợ về vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý để mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Hướng dẫn và có chính sách thích hợp khuyến khích họ tự tổ chức hoặc tham gia vào các tổ chức kinh tế hợp tác và các hình thức liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất trong các ngành, các lĩnh vực phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của đất nước. Bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý và hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh. [3, tr.741-743]

Tại Đại hội IX năm 2001 xác định các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Hoàn thành cơ bản việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu vốn. Nhà nước thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể. Hoàn thành quá trình chuyển đổi các hợp tác xã cũ, đồng thời nghiên cứu bổ sung Luật hợp tác xã cho phù hợp với tình hình mới. Khuyến khích hình thức liên doanh, liên kết giữa hợp tác xã với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Có chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho hợp tác xã. Kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển mạnh. Thực hiện quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân nhằm phát huy tối đa nội lực, phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển và là một bộ phận của kinh tế Việt Nam [4, tr.986-988]

Đảng ta tiếp tục khẳng định thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Tại Đại hội X năm 2006 xác định thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng và một trong những động lực của nền kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm. Thu hút mạnh tiềm lực của các nhà đầu tư nước ngoài. Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng. [5, tr.1105-1107]

Tại Đại hội XI năm 2011 xác định các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế tư nhân; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, tập trung vào một số ngành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các hợp tác xã, các tổ hợp tác kiểu mới và các mô hình kinh tế tập thể khác theo nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi, có chức năng kinh tế và xã hội. Tạo điều kiện phát triển các trang trại ở nông thôn và hình thành các hợp tác xã của trang trại. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thu hút mạnh đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào những ngành, những lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch và chiến lược phát triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong nông nghiệp và khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình thức sở hữu hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần.

Tại Đại hội XII năm 2016 xác định các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế tư nhân; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định nền kinh tế nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế. Điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta đối với thành phần kinh tế nhà nước, đồng thời nêu nhận thức mới về vai trò của thành phần kinh tế tư nhân. Đối với doanh nghiệp nhà nước: Tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Đối với kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã thì tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ. Rõ ràng, khi kinh tế hộ càng phát triển thì nhu cầu liên kết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm càng cần thiết, điều này phản ánh tính chất khách quan của sản xuất hàng hóa. Đối với kinh tế tư nhân tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Từ chỗ chúng ta không thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân, coi đó là nguồn gốc dẫn đến sự hình thành chủ nghĩa tư bản, đến nay chúng ta coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đây là bước tiến dài trong nhận thức lý luận của Đảng ta, là kết quả tổng kết thực tiễn của 30 năm đổi mới. Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước.

Tại Đại hội XIII năm 2021 xác định cơ cấu các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế tư nhân; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước tập trung những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng về quốc phòng an ninh, những lĩnh vực mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Củng cố phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đến năm 2025 hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá. Hình thành đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao. kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. Kinh tế tư nhân khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ, phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội nhất là người lao động; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong việc huy động vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.[6, tr.112-113;129-130]

Tóm lại, quan điểm của Đảng ta về vai trò các thành phần kinh tế qua từng giai đoạn phát triển có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Tuy nhiên luôn thực hiện nhất quán xuyên suốt chính sách nhiều thành phần kinh tế, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế phát huy khả năng vai trò của mình trong việc đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Qua 35 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng và thay đổi từng ngày, tốc độ tăng trưởng ổn định, thu nhập bình quân của người dân không ngừng tăng lên, đời sống vật chất tinh thần được cải thiện rõ rệt. Quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế được mở rộng, tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế xã hội từ đổi mới (năm 1986) đến nay; NXB Chính trị quốc gia sự thật, HN – 2014, tr 31,32,33.

2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế xã hội từ đổi mới (năm 1986) đến nay; NXB Chính trị quốc gia sự thật, HN – 2014, tr363,364.

3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế xã hội từ đổi mới (năm 1986) đến nay; NXB Chính trị quốc gia sự thật, HN – 2014, tr 741,742,743.

4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế xã hội từ đổi mới (năm 1986) đến nay; NXB Chính trị quốc gia sự thật, HN – 2014, tr986,987,988.

5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế xã hội từ đổi mới (năm 1986) đến nay; NXB Chính trị quốc gia sự thật, HN – 2014, tr1105,1106,1107.

6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr129, 130.