Tại SAO phải tìm hiểu lịch sử văn minh the giới

Tieu luan mon lich su van minh the gioi

yes i think so. thank you so much hựvbuo9hq[0qh29vn-]1y3vj9ok ubgo9hyc82nvko289gvhnkou9e7gb
  • UniversityTrường Đại học Thủ đô Hà Nội

  • Courselê huyền

  • Academic year

    2020/2021

Helpful?10
Share

Comments

  • Please sign in or register to post comments.

Preview text

H ỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

BÀI TI ỂU LUẬN

MÔN: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Đề tài: Làm rõ: Con người là thước đo của vạn vật trong thời kỳ Phục Hưng

Sinh viên: NGUYỄN PHƯƠNG THẢO Lớp : KH13A GVHD :

LỜI NÓI ĐẦU

Ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người đã sáng tạo ra vô vàn những giá trị vật chất và tinh thần. Vô tình hay hữu tình và những sáng tạo ấy lại trở thành những giá trị vô cùng to lớn, góp phần tạo ra những giá trị văn hóa. Khi những giá trị văn hóa ấy tồn tại và quan trọng hơn là khi nhà nước, chữ viết, thành thị... xuất hiện thì chúng đã trở thành văn minh. Từ đó, các nền văn minh cùng nhau tồn tại và phát triển tới ngày nay. Từ các nền văn minh phương Đông đến nền văn minh phương Tây, Tây Âu... không chỉ đơn thuần là tồn tại mà qua từng giai đoạn các vùng đất đều để lại những thành tựu to lớn và đặc trưng của từng vùng. Trong đó vào khoảng thế kỷ XIV, một trào lưu văn hóa mới xuất hiện mà người ta gọi là thời kỳ Phục hưng. ở đây con người thực sự thể hiện được khả năng của họ trên các lĩnh vực như văn học, nghệ thuật, kiến trúc... cũng chính vì thế cho nên đã có quan điểm cho rằng: con người là thước đo của vạn vật trong thời kỳ Phục hưng. Bài tiểu luận này thông qua những quan điểm và ghi chép lịch sử của thời xưa để lại để làm sáng tỏ vấn đề trên. Qua đó khẳng định được vai trò của con người trong lịch sử đặc biệt là trong thời kì này. Kết cấu của bài tiểu luận gồm: 2 phần Phần I: Vài nét sơ qua về văn hóa Phục hưng Phần II: con người là thước đo vạn vật trong thời kỳ Phục hưng qua những dẫn chứng về thành tựu văn học, nghệ thuật, kiến trúc... Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu nghiên cứu, song bài tiểu luận cũng không thể tránh được những thiếu sót, rất mong sẽ có được những đóng góp của những ai quan tâm đến đề tài này! Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giảng viên môn lịch sử văn minh thế giới khoa lý luận cơ sở - học viện hành chính đã cho em đề tài hay và đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em cũng xin cảm ơn những ai quan tâm đến đề tài này.

hiện thuật ngữ vĩ nhân Phục hưng. Có một cuộc tranh luận kéo dài trong giới sử học về quy mô, phân kỳ văn hóa và thời đại Phục hưng cũng như giá trị và ý nghĩa của nó. Bản thân thuật ngữ vĩ nhân do nhà sử học Pháp Jules Michelet đặt ra năm 1855 cũng là đối tượng của những chỉ trích rằng nó ngụ ý một sự mô tả thái quá về giá trị tích cực của thời kỳ này. Có một sự đồng thuận rằng thời kỳ Phục hưng bắt đầu ở Firenze trong thế kỷ XIV. Nhiều giả thuyết khác nhau được đề xuất để giải thích cho nguồn gốc và đặc điểm của nó tập trung vào hàng loạt các yếu tố bao gồm đặc thù xã hội và dân cư của Firenze tại thời điểm này, cấu trúc chính trị của nó, sự bảo trợ của dòng họ thống trị, nhà truyền thống, sự di cư của các học giả và các bản văn Hy Lạp sang Ý sau sự thất thủ của Constantino polis dưới tay người thổ Ottoman.

2.Con người là thước đo vạn vật trong thời kì Phục hưng dẫn chứng làm sáng tỏ luận điểm. Với sự đóng góp to lớn đó nên thời kỳ Phục hưng đã trở nên huy hoàng và rực rỡ hơn bao giờ hết. Bao trùm từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII, thời kỳ này đã để lại cho nhân loại những thành tựu to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần. Là một bước tiến dài về văn hóa, văn hóa phong trào Phục hưng đã đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt, đặc biệt là về văn học và nghệ thuật. Nền văn học Phục hưng về cả 3 thể loại thơ, tiểu thuyết và kịch đều có những tác phẩm có giá trị gắn liền với tên tuổi nhiều tác giả nổi tiếng. Trước hết là thơ. Nhà thơ nổi tiếng nhất đồng thời là người mở đầu cho phong trào Văn hóa Phục hưng là Đantê [1265-1321] với những tác phẩm nổi tiếng như cuộc đời mới, thần khúc... Đante xuất thân trong một gia đình kỵ sỹ suy tàn ở Phirenxe, cha ông là một luật sư. Đante không chống tôn giáo nhưng căm ghét giáo hội và giáo hoàng, mong muốn nước Ý được thống nhất. Tác phẩm trong thời kì đầu của ông là cuộc đời mới. Đây là tác phẩm Đante viết để tưởng nhớ người bạn gái thời thơ ấu của ông là Bêatơrít [Beatrix]. Beatrix là một cô gái ngây thơ xinh đẹp mà ngay từ hồi 9 tuổi ông đã đem lòng yêu mến, nhưng về sau vì sự rụt rè, nàng tưởng ông không yêu nên đi lấy chồng và chẳng may chết sớm. Ông hết sức ân hận và thương xót nên viết tác phẩm này. Tác phẩm lớn nhất của Đante là Thần khúc [ La Divine comédie]. Tác phẩm này ông đã viết trong suốt 20 năm sống lưu vong và cho đến khi chết cũng chưa hoàn thành trọn vẹn. Toàn bộ tập thơ gồm 100 chương, ngoài chương lời tựa, nội dung chính chia làm 3 phần là điạ ngục, tĩnh giới [nơi rửa tội] và thiên đường, mỗi phần gồm 33 chương. Nội dung tác phẩm kể về một giấc mộng trong đó tác giả được nhà thơ nổi tiếng của La Mã cổ đại là Viếcgiliut dẫn đi xem địa ngục và tĩnh giới, tiếp đó được Beatrix dẫn đi xem thiên đường. Về hình thức [Thần khúc] giống như một tập trường ca kiểu cũ, trong đó dùng thiên đường và địa ngục làm bối cảnh và dùng nhiều điển tích thần học nhưng nội dung tư tưởng hoàn toàn mới. Tập thơ đã vạch mặt, tố cáo tội ác của bọn giáo hoàng, giáo hội, đồng thời thể hiện khát vọng tự do trong con người.

Ngoài Đante còn có nhà thơ trữ tình Pêtơraca [1304-1374]. Thơ phẩm của ông tập thơ ca ngợi tình yêu tặng nàng Lôra, người mà ông yêu suốt đời và trở thành bất tử trong thơ của ông. Tập thơ này được coi là mẫu mực trong thơ trữ tình Ý.

Khi nhắc đến tiểu thuyết, trước hết phải kể đến Bôcaxiô [1313-1373], nhà văn Ý được đặt ngang hàng với hai nhà thơ Đante và Pêtơraca và được gọi chung là ba tác giả lỗi lạc. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện ngắn mười ngày [decameron]. Sau khi văn hóa Phục hưng lan rộng sang các nước Tây Âu khác, ở Pháp và Tây Ban Nha xuất hiện hai nhà văn nổi tiếng, đó là Rabơle và Xécvăngtét Rabơle [Francois Rabelais 1494-1553] lúc còn nhỏ đi tu, sau ra khỏi tu viện học ngành y và khoa học tự nhiên, đã từng làm thầy thuốc. Ông còn tinh thông về các mặt văn học, triết học, pháp luật, thực vật học, kiến trúc. Tác phẩm chủ yếu của ông là tiểu thuyết trào phúng Gácgăngchuya và Păngtagruyen nội dung như sau: Gácgăngchuya là một người khổng lồ. Vừa mới lọt lòng mẹ đã đòi uống. Người ta phải lấy sữa của 170 con bò cho uống mới đủ. Con của Gácgăngchuya là Păngtagruyen cũng là một người khổng lồ. Anh có một người bạn tên là Panuyếcgiơ. Sau khi đôi bạn này đi đánh thắng giặc ngoại xâm trở về, Panuyếcgiơ có một băn khoăn là có nên lấy vợ hay không. Không ai giải đáp được thắc mắc đó, hai người phải đi đến xứ Cate [Trung Quốc] để hỏi lọ nước thần Chính trong cuộc hành trình ấy họ đã đặt chân đến nhiều sứ xở kỳ lạ như đến hòn đảo của những người chuyên giơ lưng chịu đấm để đòi tiền bồi thường, đến hòn đảo của loài chim chỉ biết hót và ăn cho béo, lại đến hòn đảo của loài mèo xồm chuyên gia ăn hối lộ... Cuối cùng họ đến được ngôi đền Lọ nước thần và được nghe phán một tiếng uống! Về bề ngoài, tác phẩm này có vẻ hoang đường, nhưng nội dung lại nói về những người thực, việc thực trong xã hội lúc bấy giờ, đó là giáo hoàng, giáo sĩ, vua, quan, là cuộc sống lười biếng ăn bám, là những việc làm xấu xa đầy rẫy trong cuộc sống hàng ngày... Vì vậy đây là một tác phẩm hiện thực phê phán rất có giá trị. Xécvăngtét [Miguel de cervantes 1547-1616] là một nhà văn lớn và là người đặt nền móng cho nền văn học mới ở Tây Ban Nha. Xécvăngtét xuất thân từ một gia đình quý tộc sa sút, thời trẻ tính thích mạo hiểm, đã tham gia đánh quân Thổ Nhĩ Ký trong trận Lêpăngtơ ở Hy Lạp [năm 1571]. Vì bị thương , ông bị bọn giặc biển bắt làm tù binh. Sau 5 năm ông trốn thoát được về quê hương, nhưng từ đó ông ngày càng nghèo túng, phải ra làm một chức quan nhỏ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đồng thời cũng là một kiệt tác của văn học thế giới là Đông kisốt [Don Quichotte]. Nội dung như sau: Ông Kixana là một quý tộc nhỏ sa sút, người cao gầy, 50 tuổi vẫn chưa có vợ. Thế nhưng vì chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết, ông quyết định mình phải trở thành một hiệp sỹ đi ngao du khắp thiên hạ để dẹp mọi sự bất bình.

Về điêu khắc, các bức tượng Đavít, Môidơ, Đêm, Người nô lệ bị trói ... là những tác phẩm tương đối tiêu biểu, đặc biệt tượng Đavít tác bằng đá cẩm thạch, cao 5,30 m. Khác với thần thoại trong kinh thánh, Mikenlăngiơ không thể hiện Đavít thành một thiếu niên mà thành một lực sĩ đầy sức mạnh. Vì vậy năm 1504, tượng này được dựng ở Phirenxê để thể hiện tinh thần của kẻ thống trị phải anh dũng bảo vệ thành phố. Về kiến trúc, Mikenlăngiơ là người thiết kế đầu tiên nhà thờ Xanh Pie ở La Mã. Tuy công trình kiến trúc này mãi đến năm 1626, tức là sau khi ông chết 62 năm, mới được hoàn thành, nhưng mái tròn của nhà thờ khác hẳn với mái nhọn kiểu Gôtích truyền thống. Raphaen [1483-1520] cũng là một họa sĩ thiên tài của Ý. Tuy ông chết tương đối sớm [37 tuổi] nhưng ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Cô gái làm vườn xinh đẹp, các bức tranh vẽ về thánh mẫu ... ông là một họa sĩ có sở trường về vẽ chân dung, đặc biệt là thể hiện được một cách sống động vẻ đẹp tươi tắn của các cô gái, vẻ hiền hậu và dịu dàng của người mẹ và nét ngây thơ đáng yêu của các em bé. Ngoài Ý, từ thế kỉ XVI về sau, các nước Phlăngđrơ, Hà Lan, Đức, Pháp..ũng có nhiều họa sĩ nổi tiếng như Mátxít [Quentin Matsys] người Phlăngđrơ, Lucát đơ Lâyđơ người Hà Lan, Anbrết Đuyrê [Albrecht Diirer] người Đức, Lơ Nanh người Pháp...đề tài của các tác phẩm của họ thường là những cảnh đẹp trong thiên nhiên, những hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của những con người bình thường mà bức tranh Bữa ăn của những người nông dân của Lơ Nanh là một ví dụ tiêu biểu. Không chỉ có văn học nghệ thuật mà thời kì này con có những thành tựu rực rỡ về khoa học tự nhiên và triết học. Thời Phục hưng, các ngành khoa học tự nhiên và triết học cũng có những thành tựu lớn lao, trong đó đặc biệt quan trong là thiên văn học. Nhà bác học mở đầu cho bước nhảy vọt trong thời kỳ này là Nicôla côpécních [1473-1543]. Ông vốn là một giáo sỹ người Ba Lan, nhưng qua nhiều năm nghiên cứu, ông đã nêu ra một thuyết về vũ trụ chống lại thuyết của nhà thiên văn học cổ đại Ptôlêmê đã ngự trị ở Châu Âu suốt 14 thế kỉ. Ptôlêmê cho rằng trái đất đứng yên ở trung tâm vũ trụ, mặt trời và các hành tinh quay xung quanh trái đất. Trái lại, Côpécních cho rằng trung tâm của vũ trụ không phải trái đất mà là mặt trời, không phải mặt trời quay xung quanh trái đất mà trái đất tự quay xung quanh nó và quay xung quanh mặt trời; thể tích của trái đất nhỏ hơn thể tích của mặt trời rất nhiều. Phát hiện mới đó của ông được trình bày trong tác phẩm Bàn về sự vận hành của các thiên thể. Tác phẩm này ông hoàn thành vào khoảng năm 1536, nhưng vì sợ bị giáo hội kết tội dị đoan nên mái đến trước khi chết mấy hôm ông mới công bố [1543]. Người tích cực hưởng ửng học thuyết của Côpécních là nhà tiên văn học và là nhà triết học Ý Gioócđanô Brunô [1548-1600]. Ông cũng vốn là một giáo sĩ, nhưng khi trong giáo hội cấm lưu hành tác phẩm của Côpécních thì ông lại phát triển thêm một bước mới cho rằng vũ trụ là vô tận, mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ chúng ta, ngoài ra còn có

rất nhiều Thái dương hệ khác. Ông còn chứng minh rằng vật chất luôn vận động, luôn luôn biến đổi và tồn tại vĩnh viễn. Một nhà thiên văn học Ý khác Galilê [1564-1642] tiếp tục phát triển quan của Côpécních và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu trời. ông đã chứng minh rằng mặt trăng cũng là một hành tinh giống như quả đất, bề mặt của nó cũng có núi non gồ ghề chứ không phải nhẵn bóng. Ông còn phát hiện được thiên hà do vô số vì sao tạo thành, giải thích được cấu tạo của sao chổi. Ông cũng là người mở đầu cho ngành khoa học thực ngiệm, phát hiện ra các định luật rơi thẳng đứng và dao động của các vật thể. Đồng thời với Glilê, nhà thiên văn học người Đức Kêplơ [Kepler, 1571-1630] đã phát minh ra ba quy luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh mặt trời. Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lí học, toán học, y học... cũng có nhiều thành tựu quan trọng gắn với tên tuổi nhiều nhà bác học nổi tiếng. Những phát minh khoa học tương đối tiêu biểu trong đó là hình học giải tích của nhà toán học Pháp Đêcáctơ [1596-1650], áp lực của chất lỏng của nhà vật lí học người Ý Tôrixeli [1608-1647], thuật giải phẫu của nhà y học Nêđéclan Vêdalơ [Vésale, 1514-1564], sự tuần hoàn của máu của nhà y học Anh Havi [Havey, 1578-1657] ... Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học tự nhiên về lĩnh vực triết học cũng có một bước tiến quan trọng. Người mở đầu cho trường phái duy vật thời Phục hưng là Phranxít Bâycơn [Francis Bacon 1561-1626] nhà triết học người Anh. Ông rất đề cao nhà triết học duy vật người Hy Lạp cổ đại Đêmôcrít, trái lại kịch liệt phê phán chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát và Platông, công kích triết học công viện chỉ thích sùng bái quyền uy và tín ngưỡng ngẫu tượng...

III. Kết luận.

Ăngghen viết : Sát cánh với các vĩ nhân người Ý, thủy tổ của triết học cận đại, khoa học tự nhiên cũng đã phải cung cấp những người của nó cho cái lò thiêu và ngục tối của tòa án Tôn giáo Là một phong trào cách mạng về văn hóa và tư tưởng, phong trào Văn hóa phục hưng có những ý nghĩa rất quan trọng: Bằng tinh thần đấu tranh dũng cảm bất chấp lò thiêu và ngục tối của toà án tôn giáo, các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa thời Phục hưng đã đánh bại hệ tư tưởng lỗi thời của phong kiến và giáo hội Thiên chúa, do đó đã giải phóng tư tưởng tình cảm con người khỏi sự kìm hãm và trói buộc của giáo hội. Từ đó chủ nghĩa nhân với các nội dung nhân quyền, nhân tính, cá tính ngày càng giữ vai trò chi phối không những về văn học nghệ thuật mà cả trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sau một nghìn năm chìm đắm, phong trào Văn hóa Phục hưng là một bước tiến kì diệu trong lịch sử văn minh trong lịch sử văn minh ở Tây Âu. Các nhà văn nghệ sĩ, các nhà khoa học, triết học đã đóng góp trí tuệ và tài năng tuyệt năng của mình vào phong trào văn hóa đó bằng nhưng tác phẩm và công trình bất hủ,

Video liên quan

Chủ Đề