Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp rèn học sinh yếu môn toán lớp 2

SKKN Rèn học sinh yếu lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [204.91 KB, 28 trang ]

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"RÈN HỌC SINH YẾU LỚP 2"
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc
phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo
viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn
với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng
trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho
học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Thật vậy, tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục nhưng mỗi học
sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, có điều kiện hoàn cảnh sống và
sự quan tâm chăm sóc ở gia đình là khác nhau, có động cơ và thái độ học tập khác nhau,
môi trường giáo dục khác nhau mà trong đó có sự dạy dỗ của thầy cô giáo thì năng lực
học tập, khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải khác nhau. Từ đó, dẫn
đến có học sinh yếu, kém. Vậy chúng ta phải rèn luyện các em học sinh này như thế nào?
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách
nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc
phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số
mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở
địa phương.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng
dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc chỉ đạo, tư vấn các đơn vị trường chú trọng
giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy
đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Từ
2
những suy nghĩ trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số kỹ năng phụ đạo học sinh yếu lớp 2” để
tiếp tục áp dụng vào thực tế học sinh khối 2 trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử nói riêng và


học sinh toàn huyện nói chung.
II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi
Một số Kỹ năng phụ đạo học sinh yếu lớp 2.
2. Đối tượng
Giáo viên và học sinh khối 2 trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử về việc giúp đỡ các em
là học sinh yếu.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí
lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan
tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say
mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp
các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn,
để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là
của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc “trồng người”
luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học
sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp.
- Nhằm giúp đỡ các em học sinh yếu, kém vươn lên trong học tập; nâng cao chất
lượng dạy, học; hạn chế tối thiểu tỉ lệ học sinh yếu, kém. Đồng thời cũng để trang bị cho
giáo viên kiến thức sau này áp dụng trong quá trình giảng dạy; hy vọng qua đề tài này sẽ
3
nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ phía các cấp lãnh đạo cũng như giáo viên trong và
ngoài trường.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lí luận
Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2.
2. Nghiên cứu thực nghiệm
Tìm hiểu thực trạng dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2; áp dụng một số kỹ
năng trong quá trình dạy học và rèn kĩ năng đối với học sinh yếu ở hai môn Toán và
Tiếng Việt tạo công cụ vững chắc cho trẻ học tập góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

3. Nghiên cứu ứng dụng
Đề xuất những giải pháp phù hợp mang tính khả thi nhằm áp dụng có hiệu quả để
nâng cao chất lượng dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Công tác quản lí:
- Quán triệt chủ trương của ngành về đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao
nhận thức cho cán bộ quản lý các cấp và giáo viên đứng lớp: “Tổ chức các giờ học, các
hoạt động giáo dục đảm bảo nhẹ nhàng - tự nhiên – hiệu quả và chất lượng” tránh tình
trạng để học sinh “ngồi nhầm lớp”.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra chuyên môn, dự giờ rút kinh nghiệm và tổ chức
cho giáo viên giao lưu trao đổi và học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài trường.
4
- Tổ chức các cuộc thi giáo viên dạy giỏi các cấp về thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học, đánh giá đúng chất lượng dạy của giáo viên.
- Đổi mới cách đánh giá xếp loại học sinh.
1.Đội ngũ giáo viên:
Cần từng bước chuẩn hoá đội ngũ giáo viên: trang bị giáo viên những kiến thức về
đổi mới phương pháp dạy học cụ thể qua các chuyên đề, các loại bài học, các hình thức tổ
chức dạy học. Đổi mới sinh hoạt chuyên môn hàng tuần ở từng khối lớp, ở tổ chuyên
môn
2.Cơ sở vật chất:
Trang bị đầy đủ sách khoa, đồ dùng học tập cho cho học sinh, tăng cường sách
hướng dẫn giảng dạy, thiết bị dạy học tối thiểu cho giáo viên.
Trở về với mỗi giáo viên, hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học đang thu hút
và tác động đến từng cá nhân. Mỗi tiết dạy để đảm bảo sự thành công, việc đổi mới
phương pháp dạy học ở tiểu học đang được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, cần lựa chọn
sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh
Với nhu cầu của một xã hội hoá GD đòi hỏi ngành GD phải đổi mới
phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu

sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc
học của con em ở địa phương, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều
hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn.
Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không
ham học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn khoăn
5
là làm thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học
sinh trong học tập. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện
nhanh và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo là những người
làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dựng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn
dân đi lên. Đặc biệt là giáo dục ở các vùng miền núi.
Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh,
dân tộc thiểu số mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá
việc học của mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn
khác. Từ đó các em có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu
thi đua nhau để việc học có kết quả cao hơn.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi:
Cơ sở vật chất ngày càng được ổn định; các chế độ cho học sinh nghèo theo QĐ
112, chế độ cho học sinh bán trú dân nuôi được đảm bảo kịp thời, đội ngũ cán bộ quản lý
và giáo viên phần đa trẻ khoẻ, nhiệt tình năng nổ, có tâm huyết và trách nhiệm với nhiệm
vụ được phân công.
2. Khó khăn:
2.1. Thực tế về địa bàn:
- Trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử thuộc xã Pa Vệ Sử là một xã dân cư là 100% dân
tộc La Hủ còn nhiều khó khăn về mặt kinh tế, nên ảnh hưởng lớn đến việc học của học
sinh từ đó gây khó khăn trong việc thực hiện dạy và học của nhà trường.
6
- Phần lớn kinh tế gia đình học sinh còn nhiều khó khăn, tỷ lệ học sinh thuộc hộ
nghèo toàn xã còn nhiều.

2.2. Thực tế về phụ huynh học sinh [PHHS]:
- Do tình hình khó khăn như nêu ở trên, nên phụ huynh học sinh phần lớn không
quan tâm đến việc học của con em mình, phó thác cho nhà trường và thầy cô giáo [có
nhiều phụ huynh đã được nhà trường và giáo viên chủ nhiệm mời nhiều lần đến để trao
đổi, bàn bạc về việc học tập của con em mình nhưng vẫn không đến]. Do đó, hầu hết các
em học sinh của xã thường không có ý thức trong học tập thậm chí các em không hề xem
bài hay học bài ở nhà. Mà như ta đã biết, học sinh học tốt hay không còn phụ thuộc vào
bản thân của các em có tự giác trong học tập hay không?, giáo viên có nắm được đặc
điểm tâm sinh lí của học sinh hay không?, trong quá trình giảng dạy giáo viên có đề ra
các biện pháp, phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí đối tượng học
sinh hay không?. Đó là vấn đề mà nhiều giáo viên trong ngành gặp rất nhiều khó khăn
trong trong công tác giảng dạy cho đối tượng học sinh này.
2.3. Thực tế về học sinh:
- 100% số học sinh là học sinh dân tộc La Hủ, vì vậy các em đến trường, học
tập bằng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ 2. Các em học tiếng Việt - một ngôn ngữ
mới và học bằng công cụ mới. So với học sinh dân tộc Kinh, học sinh dân tộc thiểu số sử
dụng tiếng Việt- ngôn ngữ học tập một cách khó khăn vì:
- Học sinh học ngôn ngữ thứ hai nói chung bằng tư duy giao tiếp, thông qua việc
tiếp cận - từ việc hiểu ngôn ngữ có chủ định [qua bài học] đến việc vận dụng nó trong
sinh hoạt hằng ngày, do đó học sinh thường không tự tin nên dẫn đến học lực yếu.
- Hầu hết việc học bài ở nhà của học sinh hình như không có nếu có thì cũng chỉ học
qua loa cho xong.
7
- Trong một lớp học tỉ lệ học sinh yếu, kém chiếm khá đông, dẫn đến tiến trình học
tập chậm rãi.
- Tính tự quản, tự giác của học sinh trong học tập còn rất nhiều hạn chế chưa nhận
thức đúng đắn về động cơ và mục đích học tập, các em còn ham chơi, lười học.
 Xuất phát từ tình hình khó khăn thực tế như đã nêu ở trên dẫn đến có nhiều học
sinh yếu, kém trong một lớp học.
2.4. Khảo sát chất lượng đầu năm học:

Môn TSHS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
Tiếng Việt44 0 0% 4 9,09% 12 27,2% 28 63,71%
Toán 44 0 0% 5 11,3% 15 34,09% 24 54,61%
Căn cứ kết quả xếp loại học lực cuối năm học qua, so sánh với kết quả khảo sát
chất lượng học sinh đầu năm học này từ đó nắm được số liệu về học sinh yếu của trường.
3. Tìm hiểu nguyên nhân học sinh học yếu:
3.1. Về phía học sinh:
- Môi trường học tiếng Việt bị bó hẹp. học sinh dân tộc hầu như không thể có được số
lượng và mật độ các cuộc giao tiếp bằng tiếng Việt nhiều như học sinh người Kinh. Ở
trường học, học sinh dân tộc chỉ tiếp xúc duy nhất với thầy, cô giáo - những người nắm
vững tiếng Việt. Do số học sinh trong lớp thì đông mà lại chỉ có một giáo viên nên cơ hội
giao tiếp bằng tiếng Việt giữa học sinh và giáo viên rất có hạn. Nguyên nhân trên ảnh
hưởng không nhỏ đến học lực của học sinh.
- Lười biếng, chán học.
8
- Hoàn cảnh gia đình khó khăn.
- Cha mẹ không quan tâm.
- Xa điểm trường, đi lại khó khăn.
- Mất cha [mẹ].
- Nhiều nguyên nhân khác…
3.2. phía giáo viên:
Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần
ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có
thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có
trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà quan trọng giáo viên phải
biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với
từng nội dung kiến thức.

Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa
chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều
phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự
quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân
nhận thấy trong quá trình làm công tác chuyên môn. Qua việc phân tích những nguyên
nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp, kỹ năng để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu.
Trong phạm vi của bài viết, tôi chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở hai môn
công cụ: Toán và Tiếng Việt và công tác chủ nhiệm.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
9
1. Những biện pháp chung
1.1 Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn
nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản
thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh
mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo
viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực.
Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà
em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu
thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Bông hoa điểm
tốt”, “Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
1.2 Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn
có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của
từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu
bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát, vốn từ tiếng Việt hạn chế…

Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức
năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.
10
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học
bài: Bảng chia 3 [Toán–lớp 2 ], đối với các em học sinh yếu thì các em chỉ cần nắm mục
tiêu thứ nhất: “Học sinh thuộc bảng chia 3 và biết vận dụng bảng chia 3 để tính nhẩm
đúng” là đạt yêu cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được
tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình
trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1,
2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện
pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi
trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi,
hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề.
1.3 Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên
nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan
trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm
tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình
và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng
ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm
11
cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia

đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do. Bản thân giáo viên cần phân tích để các
bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình,
thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
1.4 Kèm cặp học sinh yếu:
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu
là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 2 điểm trường Thò ma, Seo Thèn B, Sín
Chải A, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 100% học sinh yếu và lên kế
hoạch phụ đạo cho các em.
Lập danh sách học sinh yếu [theo mẫu dưới đây] và chú ý quan tâm đặc biệt đến
những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu
hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…
DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP 2
STT
Họ và tên
Tiếng Việt Toán
Con ông
[bà]
Điểm
bản
Đọc
yếu
Viết
yếu
Không
biết
tính
Tính
yếu
1 Phùng Lỳ Phơ x x x Phùng Lỳ Thò Ma
12

Phạ
2 Ly Phý Lu x x x Thò Ma

2. Những biện pháp để giảm dần số lượng học sinh học yếu môn Toán.
2.1. Với đối tượng loại 1:
Vì kiến thức ở lớp dưới của các em bị hổng, không thể nào bù đắp ngay được trong
một thời gian ngắn. Giáo viên phải đặt quyết tâm trong suốt cả năm học, đặc biệt là học
kì I để giúp nhóm học sinh loại này lấp dần các lỗ hổng kiến thức. Đối với những học
sinh này phải có thêm thời gian học dưới sự hướng dẫn lại tỉ mỉ những kiến thức cơ bản,
trọng tâm theo một hệ thống riêng và yếu tố dẫn đến thành công là nắm chắc, luyện kĩ.
Trong các buổi học trên lớp thường được kiểm tra, rà soát và củng cố các kiến thức, chấm
bài song song trong tiết luyện tập, thường xuyên khích lệ động viên mỗi khi các em được
điểm cao hơn. Do đó các học sinh này có nhiều tiến bộ; cụ thể là: thích học toán, hay
xung phong lên bảng…
2.2. Với đối tượng loại 2:
Vấn đề cơ bản là giúp các em lấy lại lòng tự tin, phát huy được những tố chất cơ bản
đang tiềm ẩn trong mỗi em trong việc học tập môn Toán. Phương pháp trực quan, hệ
thống các bài tập từ dễ đến khó, tìm các cách giải khác nhau cùng với các câu hỏi vừa
sức, các bài toán vui, các bài toán gắn với thực tế chính là chìa khoá để giải quyết vấn đề.
2.3. Với đối tượng loại 3:
Những học sinh này trong lớp thường không chú ý nghe giảng, mỗi khi làm bài
kiểm tra tại lớp thường cẩu thả, không có ý thức kiểm tra lại bài làm. Cô giáo nhắc nhở
13
thì xem lại qua loa cho xong chuyện. Bài tập và bài học ở nhà không chuẩn bị chu đáo
trước khi đến lớp. Tóm lại, đối với diện học sinh này cần có sự kết hợp chặt chẽ với phụ
huynh nhằm quản lý việc học ở nhà và việc kiểm tra nhắc nhở thường xuyên ở lớp để
từng bước đưa các em vào nền nếp học tập.
2.4. Với đối tượng loại 4:
Các em này thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm. Giáo viên bố trí thời gian kèm cặp,
lấp dần lỗ hổng kiến thức, hình thành dần phương pháp học toán cho các em. Luôn khích

lệ động viên để các em không bị mặc cảm, tự ti mà tự tin vào bản thân mình để từ đó
vươn lên trong học tập. Với các em này, cô giáo phải hết lòng thương yêu, giúp đỡ. Cô là
chỗ dựa tinh thần và tình cảm của các em. Sự tiến bộ của các em chính là phần thưởng vô
giá đối với người giáo viên chủ nhiệm.
Riêng những học sinh phát triển thể chất bình thường nhưng năng lực tư duy yếu thì
giáo viên phải mất rất nhiều thời gian kèm cặp các em mới đạt được mức trung bình.
3. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp
khắc phục:
+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 2, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Như
em Phùng Lỳ Phơ, em Lý Go Xá Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa
đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu [em Xá], ví dụ: đọc tiếng
“buông” thành “buôn”, “bão” thành “báo”… chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp
2, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào
khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một văn bản còn hạn
chế.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu
thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của
14
từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa
đúng nên dẫn đến viết sai.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn:
Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết.
Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp
khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các
kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn.
4. Biện pháp cụ thể để giúp học sinh yếu có kỹ năng học tập ở môn Tiếng Việt.
4.1 Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:
Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên

gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện
đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ
cho các em luyện đọc thêm vào buổi 2.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập
đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét đánh
giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh
thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách
học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp
đỡ.
Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích
đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của
15
mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự
tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em
rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy
thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và
hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc,
từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
4.2. Chính tả:
Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần:
Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày
viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh
viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em
viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo
viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời.
Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em
sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết
đúng chính tả.
Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa,

giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho
các em có chọn từ để luyện viết thêm.
Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể
chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả.
4.3 Luyện từ và câu:
16
4.3.1. Hướng dẫn HS làm bài tập
- GV giúp HS nắm vững yêu cầu của bài tập [bằng câu hỏi, bằng lời giải thích].
- GV giúp HS chữa một phần của bài tập làm mẫu [một HS chữa mẫu trên bảng lớp
hoặc cả lớp làm bài vào vở hay bảng con].
- HS làm bài vào bảng con hoặc vào vở. GV uốn nắn.
- GV tổ chức cho HS trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ về tri
thức.
4.3.2. Cung cấp cho HS một số tri thức sơ giản về từ, câu và dấu câu
- Về vốn từ: Ngoài những từ được dạy qua các bài tập đọc, những thành ngữ được
cung cấp qua các bài tập viết, tăng cường tiếng Việt cho HS theo chủ điểm, ví dụ:
+ Đơn vị thời gian [ngày, tháng, năm, năm học …];
+ Đơn vị hành chính [xã, [phường], huyện [quận]];
+ Đồ dùng học tập;
+ Đồ dùng trong nhà;
+ Việc nhà;
+ Họ hàng;
+ Vật nuôi.
4.3.3. Cách cung cấp tri thức:
Học sinh ở đây, đặc biệt là học sinh yếu, khi giao tiếp các em thường nói
17
không đầy đủ câu, ví dụ: Em học lớp mấy? - Học sinh: lớp ba,….Vì vậy, giáo viên cần
phải tăng cường tiếng Việt cho học sinh để giúp các em hoàn thiện về câu và biết sử dụng
từ đúng.
Về từ loại: nhận ra và biết dùng các từ chỉ người, con vật, dồ vật, hoạt động, trạng

thái, đặc điểm để đặt câu; bước đầu có ý niệm và biết viết hoa tên riêng.
Về kiểu câu: nhận ra và biết đặt các kiểu câu đơn Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế nào?
Về dấu câu: có ý thức và bước đầu biết đặt câu dấu chấm, chấm hỏi, chấm than,
phẩy vào đúng chỗ.
Các tri thức nói trên được cung cấp qua các bài tập. GV chỉ cần nêu những tổng kết
ngắn như trong SGK, tránh giải thích dài dòng hoặc sa vào lí thuyết
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
Hướng dẫn các em đối với những từ khó hiểu phiên dịch ra tiếng mẹ đẻ, giúp các
em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu [tránh lạm dụng tiếng mẹ đẻ].
4.4. Tập làm văn:
Đối với học sinh đặc biệt là học sinh yếu, giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan
trong tiết học thật sinh động, hướng dẫn các em một cách cụ thể, chi tiết rõ ràng và tăng
cường tiếng Việt cho các em để các em có vốn từ khi làm văn.
Các loại bài Tập làm văn được bố trí xen kẽ trong từng tuần, góp phần tô đậm nội
dung chủ điểm học tập của từng tuần. Vì thế dạy Tập làm văn cần gắn với dạy các phân
môn Tiếng Việt khác trong tuần [đặc biệt là Tập đọc , Luyện từ và câu [LTVC ] nhằm
mục đích giúp HS nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức đã học ở các phân môn Tiếng
Việt khác ứng dụng vào phân môn Tập làm văn.
Ví dụ1:
18
Tuần 12: Bài Tập đọc: Điện thoại rất có tác dụng trong việc giúp HS học giờ Tập
làm văn: Gọi điện.
Ví dụ 2:
Tuần 16: LTVC: Bài:Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào? Mở rộng vốn từ: từ ngữ
về vật nuôi.
Qua giờ LTVC, HS quan sát tranh vẽ các con vật nuôi, nắm được một vốn từ phong
phú hơn về vật nuôi. Đó chính là những kiến thức cần thiết giúp các em học tốt giờ Tập
làm văn: Khen ngợi. Kể ngắn về con vật. Lập thời gian biểu.
Không chỉ kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác trong Tiếng Việt mà khi dạy Tập
làm văn người GV cần kết hợp chặt chẽ với các môn học khác như: Đạo đức, Tự nhiên xã

hội [ TNXH ]…
Vì thế nếu các em nắm vững được những kiến thức này thì khi học Tập làm văn các
em sẽ thấy rất nhẹ nhàng, quen thuộc và gần gũi.
Khi dạy các bài Tập làm văn về bốn mùa, kể về người, con vật [thú, chim… ], cây
cối GV có thể cho HS xem thêm tranh [ảnh ] hoặc băng hình về các chủ đề này nhằm
giúp HS nắm được rõ hơn về các hình ảnh của các sự vật. Từ đó làm cho bài văn của các
em thêm sống động, có hình ảnh.
Cung cấp thêm cho HS những đoạn văn hay về các chủ đề [bốn mùa, người, con vật,
cây cối… ] để HS học tập về bố cục đoạn văn, cách kể [cách tả ] sao cho sinh động, phù
hợp với đối tượng cần kể [tả ].
Ví dụ:
Ngay giữa sân trường, sừng sững một cây bàng. Mùa đông, cây vươn dài những cành
khẳng khiu, trụi lá. Xuân sang, cành trên cành dưới chi chít những lộc non mơn mởn. Hè
19
về, những tán lá xanh um che mát một khoảng sân trường.Thu đến, từng chùm quả chín
vàng trong kẽ lá.
Thông qua các câu đố cho HS học tập được cách kể [cách tả ] về bốn mùa, người,
con vật, cây cối.
Ví dụ:
Câu đố: Đầu xanh mũ vua
Mình vàng áo giáp
Một trăm con mắt
Nhìn quanh bốn bề.
Câu đố trên nói về quả dứa. Cho HS nêu nhận xét: quả dứa có màu vàng, cuống
xanh có vài cái lá non chĩa ra như cái mũ của vua [vương miện ] nhờ câu: Đầu xanh mũ
vua; mình vàng áo giáp .Quanh vỏ có nhiều mắt [Một trăm con mắt nhìn quanh bốn bề ].
4.5. Tập viết:
Để hướng dẫn các em viết đúng, giáo viên nghiên cứu các nét cơ bản cấu tạo chữ,
nắm vững các vị trí các chỗ đặt bút và vị trí của điểm dừng bút, trong một chữ hoa
thường xuyên luyện tập để khi dạy tập viết được nhanh và thành thạo – yêu cầu học sinh

phải nắm vững kích cỡ của từng chữ hoa, viết được những chữ cái hoa cũng như chữ viết
thường nào có cùng độ cao.
Giờ tập viết học sinh luyện tập trên bảng con, giáo viên luôn quan tâm kiểm tra học
sinh đặc biệt là học sinh yếu viết đúng qui trình trên dòng kẻ của bảng con đã kẻ sẵn dành
cho học sinh luyện viết, chú ý điểm đặt bút và dừng bút của nét chữ đó đã đúng vị trí
chưa, nếu chưa đúng cho viết lại một lần nữa để tập viết đúng trên bảng con trước khi
thực hành vào vở. khi tập viết trong vỡ giáo viên luôn nhắc nhở học sinh chú ý điểm đặt
20
bút [ đã chấm sẵn trên vỡ ] hay cầm tay đối với học sinh chưa định hình được điểm đặt
bút để học sinh trình bày bài viết được đúng, đẹp.
Trong quá trình thực hành, cần chú ý theo dõi học sinh về cách cầm bút, tư thế ngồi
viết, kỹ thuật viết, tốc độ viết tuỳ theo nhóm học sinh mà giáo viên có kế hoạch cụ thể
cho phù hợp.
5. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc
phục.
Trong khối lớp 2 của trường có nhiều em hầu như là không biết tính khi học toán.
Nguyên nhân thì có rất nhiều, tôi chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu:
Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm
Năng lực tư duy yếu
Phương pháp học tập toán chưa tốt
Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà
Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các
em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ,
giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực
hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với
những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào
sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo
thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các
bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có

các chữ số thuộc cùng một hàng.
21
Ví dụ: 12 + 13
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 + 9
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn
hoặc từ lớn đến nhỏ thì mới tính toán chính xác được.
Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên
nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia
trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các
phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả
theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải
toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không
biết tính hoặc tính thiếu chính xác.
Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức
độ đơn giản.
Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và
trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số
và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ rèn vào buổi chiều. Khi
các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai [nếu có] kịp thời.
Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản.
Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.
22
Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn
thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem
trước bài mới.

Lập danh sách các lỗi sai để làm rõ nguyên nhân gây ra những khó khăn trong tính
toán của học sinh.
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và
động viên kịp thời.
6. Dùng phương pháp động viên khích lệ học sinh trong quá trình dạy học:
Như chúng ta biết, tâm lý của các em học sinh lớp 2 rất nhạy cảm, các em muốn
được khen và rất hiếu thắng. Vì thế giáo viên cần phải có nhiều lời khen trong quá trình
dạy học, nhưng tuỳ từng đối tượng học sinh để khen.
Ví dụ: Với những học sinh chậm, yếu, kém thì giáo viên cần phải tìm được những
điểm tiến bộ tuy nhỏ để động viên các em.
- Bên cạnh việc khen, giáo viên cũng phải hết sức tế nhị trong vấn đề nhắc nhở, phê
bình học sinh. Làm sao để các em thấy được nhược điểm, sai sót của mình để cố gắng
khắc phục, vươn lên. Tránh tình trạng làm cho các em mặc cảm, thu mình, tự ti,
7. Trong công tác chủ nhiệm:
- Như ta đã biết, mỗi đối tượng học sinh; mỗi con người thì có đặc điểm tâm sinh lý
khác nhau. Nhất là đối với đối tượng học sinh yếu thì tâm sinh lí của các em càng khác
thường hơn. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng học tập của các em thì nhất thiết người
giáo viên phải hiểu rõ về em đó. Từ việc tìm hiểu và thống kê đặc điểm tâm sinh lí của
23
từng đối tượng học sinh yếu, nó sẽ giúp giáo viên đề ra các biện pháp và phương pháp
dạy học thích hợp.
- Bên cạnh việc tìm hiểu tâm sinh lí học sinh thì công tác liên hệ với PHHS cũng góp
phần rất quan trọng. Chính vì vậy, đầu năm học thông qua buổi họp PHHS giáo viên nên
tranh thủ tìm hiểu về việc làm, nơi làm việc của PHHS để tiện cho việc liên lạc. Nhưng
do đặc điểm kinh tế địa phương, thường thì trong mỗi lớp số PHHS đi làm xa rất nhiều và
khó liên lạc. Đối với những PHHS đi làm xa để con ở nhà với người thân thì giáo viên
yêu cầu mỗi tháng ít nhất PHHS phải đến lớp 1 lần để gặp giáo viên chủ nhiệm [GVCN].
Tranh thủ thời gian đó giáo viên báo cáo về tình hình học tập của học sinh đồng thời phối
hợp với PHHS đề ra các biện pháp giáo dục hay đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn
đề. Nhờ đó mà PHHS đã hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong công tác rèn học sinh yếu.

 Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta phối hợp một cách nhịp nhàng và chặt chẽ giữa gia
đình và nhà trường thì dù các em có học yếu, kém và không có ý thức trong học tập cỡ
nào thì dưới tác động của gia đình và nhà trường nhất định rằng việc học của các em
sẽ dần tiến bộ.
Theo kinh nghiệm những năm giảng dạy và làm công tác chuyên môn Phòng Giáo dục
của mình, tôi cho rằng 02 biện pháp sau đây là quan trọng nhất mà người giáo viên phải
nắm chắc là:
- Xây dựng động cơ học tập cho các em.
- Trong công tác chủ nhiệm.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Đối với giáo viên:
24
Hiểu rõ được tầm quan trọng của việc rèn học sinh yếu để nâng cao chất lượng giáo
dục.
Tập trung vào sự phát triển của học sinh và vào việc học sinh biểu hiện kết quả học
tập như là một phần của quá trình học tập; coi đánh giá kết quả học tập là nguồn thông tin
hữu ích để phản hồi lại cho việc dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh; công
nhận thành công trong học tập của học sinh hơn là nhấn mạnh sự thất bại.
2. Kết quả về chất lượng:
Môn TSHS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
Tiếng Việt44 1 2,27% 8 18,1% 33 75% 2 4,63%
Toán 44 4 9% 12 27,2% 27 61,3% 1 2,5%
PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Đầu năm học, giáo viên phải kiểm tra khả năng.
2. Tìm hiểu và theo dõi tâm sinh lí của từng đối tượng học sinh. Động viên các em học
yếu thông qua các tấm gương phấn đấu trong học tập của các lớp đàn anh đi trước.
3. Tổ chức nhiều trò chơi hứng thú cho học sinh.

4. Lựa chọn cho các em những bài tập phù hợp từ đơn giản đến khó dần.
5. Động viên, khuyến khích các em khi có sự chuyển biến tốt [dù chỉ là rất nhỏ].
6. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với
chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
25

SKKN BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HS YẾU LỚP 2 HIỆU QUẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [440.7 KB, 13 trang ]

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trang
1
II. Mục đích, phương pháp nghiên cúu 2
1. Mục đích nghiên cứu 2
2. Phương pháp nghiên cứu 2
III. Giới hạn của đề tài 2
IV. Kế hoạch thực hiện 3
B. PHẦN NỘI DUNG 4
I. Cơ sở lý luận 4
II. Cơ sơ thực tiễn 4
III. Thực trạng của việc bồi dưỡng học sinh yếu kém đạt hiệu quả
trong trường tiểu học
4
1. Thuận lợi 4
2. Khó khăn 4
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề 5
V. Hiệu quả áp dụng 8
C.KẾT LUẬN 9
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác 9
II Khả năng ứng dụng, triển khai 9
III. Bài học kinh nghiệm. 9
A-PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Hòa chung với sự đi lên của toàn cầu, đất nước ta đã và đang có những sự
chuyển mình trong xu thế đổi mới toàn diện trong mọi lĩnh vực để bước sang
một thời đại mới – Thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành giáo
dục nói riêng đã có những bước chuyển mình rõ rệt có những đầu tư lớn trong
việc cải cách vì đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định rằng: “Giáo dục vừa là


động lực, vừa là tiêu đề của sự phát triển xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước
ta”. Thật vinh dự và tự hào biết bao khi bản thân tôi được đứng trong hàng ngũ
là những kỹ sư tâm hồn – Những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa trong
sự nghiệp giáo dục và cả sự đổi mới của đất nước. Với những tự hào và trách
nhiệm đó tôi luôn tâm niệm lời Bác dạy “Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng
đáng là thầy giáo vẻ vang nhất dù tên tuổi không được đăng báo, không được
thưởng huân chương song những thầy giáo tốt là những người anh hùng vô
danh”. Những điều đó đã giúp tôi nhận thức được một cách đầy đủ hơn về
nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục về vai trò, vị trí là trọng trách của bản thân là người
giáo viên trực tiếp giảng dạy và giáo dục, là những người có vai trò quyết định,
người giữ vai trò then chốt trong việc tổ chức phát triển nhân cách, năng lực, trí
tuệ của học sinh đặc điểm đó là học sinh nhỏ tuổi, học sinh Tiểu học.
Chúng ta biết rằng học sinh ở bậc Tiểu học là nhân vật trung tâm của nhà
trường, là mục đích của nhà trường, hơn thế nữa đây là giai đoạn đầu phát triển
của cả một đời người là nền móng cho các em sau này. Ở lứa tuổi Tiểu học là từ
6 đến 11 tuổi thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học, mà yêu cầu
trước hết để các em thực hiện tốt hoạt động này là các em phải biết đọc thông,
viết thạo một yêu cầu tưởng chừng như là đơn giản nhưng lại rất quan trọng đối
với các em.
Hiện nay các trường đang thực hiện Chỉ thị số 33/2006 CT-TTG ngày
08/02/2006 của Thủ tướng chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành
tích trong giáo dục thông qua cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung.
2
Bản thân tôi cũng thấy rằng trong giảng dạy phải có chất lượng và thực hiện có
hiệu quả trong năm. Để đạt được điều đó tất cả các lớp, các cấp phải chú trọng
đến từng cấp học, phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh giỏi, khá, trung
bình và yếu. Mục tiêu trước mắt của giáo viên là làm sao nâng chất lượng dạy và
học để đưa học sinh trung bình lên học sinh khá, học sinh giỏi phải đạt kết quả
cao hơn nữa, đặc biệt là đưa học sinh yếu, kém đạt học sinh trung bình để cuối
năm không có học sinh yếu, học sinh lưu ban [vì hiện nay đang duy trì, củng cố

thành tựu phổ cập giáo dục Tiểu học - Chống mù chữ, đẩy mạnh thực hiện phổ
cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Đó là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu
của năm học đề ra cho từng lớp, từng cấp.
Nâng cao chất lượng văn hóa, rèn luyện và giáo dục tư cách đạo đức cho học
sinh tốt sẽ hạn chế được học sinh yếu kém, lưu ban. Do đó sự giúp đỡ của giáo
viên đối với học sinh là rất quan trọng, làm sao cho các em từng bước học tập có
kết quả, từ đó gây lòng tự tin hứng thú cố gắng học tập. Những học sinh phát
triển bình thường có đều có khả năng tiếp thu chương trình và đạt yêu cầu quy
định. Trong thực tế thì trong một lớp học số học sinh đạt kết quả thấp tương đối
nhiều? Nguyên nhân do đâu? Vì sao? Đó là những băn khoăn của bản thân tôi
và cũng là lý do mà tôi chọn làm đề tài “Phụ đạo học sinh yếu kém lớp 2 đạt
hiệu quả”.
II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu
1.Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu là mong muốn tập hợp nhiều ý kiến, nhiều giải pháp
và kinh nghiệm, để chia sẽ, trao đổi nhằm thực hiện có chất lượng hơn công tác
phụ đạo HS yếu; Giúp giáo viên dạy lớp dễ dàng áp dụng mang lại hiệu quả cao
hơn trong giáo dục HS yếu. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và
hạn chế học sinh lưu ban. Thực hiện tốt “Nói không với học sinh ngồi nhầm
lớp”, thực hiện đúng mục tiêu giáo dục đã đề ra.
2. Phương pháp nghiên cứu:
3
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thực hành.
III. Giới hạn của đề tài:
Tìm hiểu về các biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém HS lớp 2F trường

Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Đúc kết thành hệ thống
những kinh nghiệm dạy học đạt hiệu quả.
IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
- Chọn đề tài.
- Lập đề cương nghiên cứu.
- Đọc, thu thập tài liệu viết đề tài.
- Thâm nhập thực tế.
- Hoàn thành sáng kiến.
4
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
- Một học sinh bình thường về mặt tâm lý, không có bệnh tật đều có khả
năng tiếp thu kiến thức theo yêu cầu phổ cập của chương trình tiểu học hiện nay.
- Những học sinh yếu kém vẫn có thể đạt yêu cầu của chương trình nếu
được hướng dẫn một cách thích hợp.
II. Cơ sở thực tiễn:
Qua thực tế ở trường, tôi đã tìm ra các nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu
kém như sau:
- Trí tuệ của các em chậm, phát triển kém.
- Sức khoẻ yếu nên nghỉ học nhiều.
- Do hoàn cảnh khó khăn, điều kiện học tập thiếu thốn, cha mẹ chưa quan
tâm đến việc học của con.
- Do các em mắc bệnh tự ti.
- Do giáo viên chủ nhiệm phương pháp còn yếu, dạy học theo kiểu “đồng
loạt", chưa chú ý được hết tất cả các đối tượng học sinh, nhất là học sinh yếu
nên các em đã yếu lại càng yếu thêm vì bị giáo viên cho ra đứng bên lề trong các
tiết học.
III. Thực trạng của việc bồi dưỡng học sinh yếu kém trong trường tiểu học
1. Thuận lợi: Công tác phụ đạo HS yếu trong nhà trường cũng có những
thuận lợi nhất định đó là:

- Phía HS: Tinh thần và thái độ học tập có chuyển biến tốt, tham dự đầy
đủ các buổi học phụ đạo.
- Phía nhà trường và giáo viên: Cơ sở vật chất trường lớp phục vụ tốt cho
công tác phụ đạo, ngay đầu năm nhà trường đã có xây dựng kế hoạch phụ đạo
HS yếu và được giáo viên hưởng ứng tốt, tích cực tham gia giảng dạy.
5
2. Khó khăn: Bên cạnh đó còn những khó khăn bức xúc chung rất khó có
thể giải quyết triệt để nếu không có sự đồng tâm của tập thể giáo viên, cụ thể là:
- Học sinh: Đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai, học vẹt không có khả
năng vận dụng kiến thức, nói chung các kĩ năng cơ bản: nghe -đọc –nói -viết của
các em chưa hoàn chỉnh. Không biết làm tính, yếu các kĩ năng tính toán cơ bản,
cần thiết như [cộng, trừ nhân, chia]. Khả năng phân tích, so sánh còn hạn chế.
- Giáo viên: Chưa xác định được cách phụ đạo học sinh, chưa biết phải
bắt đầu từ đâu, luôn lúng túng khi xây dựng nội dung phụ đạo, nên kết quả
thường không cao.
Chính vì vậy công tác phụ đạo hiện nay luôn được các nhà trường và giáo
viên đặc biệt quan tâm.
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề
- Để rèn luyện cho học sinh có những thói quen và phương pháp học tốt, đáp
ứng và yêu cầu đặt ra là giáo viên phải tìm ra những biện pháp phù hợp kết hợp
với lòng yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lý của trẻ và bản thân phải nhiệt tình
trong công tác giảng dạy, phải thật sự là người mẫu mực, là tấm gương sáng cho
học sinh noi theo.
Nhưng một điều quan trọng để sớm đi đến đó là giáo viên phải nắm bắt
được hoàn cảnh, tình hình học tập của từng em, nắm rõ được những em học yếu,
yếu ở mức độ nào? Nguyên nhân do đâu? Từ đó tìm ra những phương pháp
giảng dạy để thu hút tuyệt đối sự chú ý của các em, cố gắng tạo niềm vui trong
lúc học không để các em nhàm chán. Đó có thể là phương pháp tốt mà tôi đã áp
dụng đầu tiên bằng cách luôn động viên khuyến khích các em kịp thời. Mọi cái
đối với các em đều gò bó vì ở nhà các em thích gì đều được, hay nhõng nhẽo,

nhưng khi đến lớp với tôi lại rất nghiêm khắc nhưng lại vừa nhẹ nhàng động
viên gần gũi.
VD : Sau câu trả lời của học sinh tôi khen ngợi ngay “Em rất cố gắng” hay
“Lần này bạn rất giỏi cả lớp khen bạn nào”. Sau mỗi lần khen là tôi đã gây
6
được lòng tin của các em. Có những lúc các em chưa viết đúng, đọc hay làm tính
còn sai tôi không phê bình mà vẫn khen động viên khuyến khích rằng “em cần
cố gắng hơn nữa” tránh thái độ, lời nói chạnh lòng tự ái hoặc mặc cảm đối với
các em.
- Tôi phân loại học sinh ra nhiều loại như: Đọc kém, viết kém hay làm toán
kém. Khi đã nắm được yếu điểm của học sinh tôi lập ngay kế hoạch theo dõi,
thường xuyên cụ thể kết quả học tập, làm bài tập, kết quả kiểm tra thật chặt chẽ .
- Hoặc phân loại học sinh theo 2 mức độ: sự phát triển trí tuệ chậm, kiến thức
không vững chắc.
Với những em trí tuệ phát triển chậm thì bản thân tôi phải kiên trì và tìm
hiểu biện pháp thích hợp, khắc sâu kiến thức cho các em.
Với những học sinh không nắm chắc kiến thức, trong giờ dạy phụ đạo tôi
phải tìm hiểu các em đọc sai, làm sai ở những phần nào? Thuộc mảng nào của
kiến thức. Từ đó tôi kèm cặp và gọi các em đọc, viết, làm toán.
VD: Khi làm bài toán tìm số bị chia : x : 5 = 5
Tôi cho học sinh nhớ thuần thục những tên gọi các thành phần trong phép
tính. Sau đó nhắc lại qui tắc tìm số bị chia cho học sinh đọc thầm bảng nhân 5,
chia 5. Sau dó mới giải : X : 5 = 5
X= 5 x 5
X = 25
Hoặc :
Khi hướng dẫn một bài văn tả ngắn về biển thì tôi lại phải hướng dẫn bằng
cách cho học sinh nhắc lại những từ ngữ tả về biển chẳng hạn tả sóng: bồng
bềnh, dào dạt, cuồn cuộn, trắng xóa,… tả về mặt biển: xanh biếc, phẳng lặng,…
Sau đó lại cho phép từ ngữ đó vào thành câu văn tả về sóng biển, tả mặt

biển,… Cuối cùng mới viết thành đoạn văn ngắn.
7
- Giáo viên luôn tạo ra niềm vui trong học tập cho các em thông qua trò chơi
để các em tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức dễ dàng hơn [vì khi đọc đã kém
thường các em hay chán nản, ít có hứng thú học tập, không chú ý nghe giảng].
VD: Có những bài toán tôi tổ chứa trò chơi “truyền điện” hoặc giờ luyện từ
và câu có những bài tìm từ có tiếng “biển” chẳng hạn.
Đối với những bài dạy trên lớp [không phải là giờ phụ đạo] tôi luôn tìm
tòi biện pháp giảng dạy thích hợp có trọng tâm như tự điều chỉnh nhịp độ giảng
dạy, tổ chức việc học tập bằng phương pháp phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh. Tổ chức hướng dẫn dìu dắt để các em được tiếp cận, chiếm lĩnh hoàn
toàn tri thức không áp đặt, các câu hỏi được sắp đặt rõ ràng có hệ thống trong
từng bài, từng đối tượng cụ thể trong những bài soạn. Với yêu cầu vừa sức các
em và nâng cao dần và không nản chí, thiếu tự tin, sốt ruột, khắc phục tính ngại
khó và những định kiến thiếu tin tưởng và sự tiến bộ của học sinh.
Trong khi giảng bài tôi thường xuyên theo dõi sự chú ý của những học sinh
yếu để kiểm tra kịp thời sự tiếp thu của học sinh.
VD: Khi học xong bài toán “Số có ba chữ số” với số 342 tôi tôi đặt câu hỏi
“Số 342 gồm mấy trăm, mấy chục, mấy đơn vị ? ”.
Phần hướng dẫn bài tập cần cụ thể hơn với học sinh kém. Mọi nhiệm vụ
được giao tôi kiểm tra cụ thể phân tích và sửa chữa kịp thời các sai lầm cho các
em.
- Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ học sinh kém bằng
cách bố trí cho học sinh giỏi ngồi gần học sinh yếu hay đọc sai, đọc chậm, làm
toán kém. Và giáo viên thường cho những học sinh yếu đó ngồi đầu bàn để các
em dễ chú ý và giáo viên thường xuyên kiểm tra và giúp đỡ kịp thời.
- Bên cạnh đó là biện pháp làm việc với sách giáo khoa và bảng con.
Học sinh làm việc với SGK đối với lớp đầu cấp là việc hết sức quan trọng.
Nên trong giờ học tôi đã dành thời gian nhất định để các em xem hình vẽ, mô
hình minh họa [cố gắng để cả lớp có SGK].

8
Hoặc khi làm toán dùng bảng con làm tôi có thể kiểm tra và sửa sai cho học
sinh một cách tương đối nhiều, bao quát nhanh những học sinh yếu làm bài như
thế nào để kịp thời uốn nắn.
- Khắc phục được hiện tượng một số học sinh không làm việc trong giờ học
đó là những học sinh không có đủ đồ dùng học tập, không thích ứng với nhịp độ
bài giảng. Giáo viên cần lôi cuốn học sinh bằng cách nhắc nhở lại câu hỏi của cô
hay câu trả lời của bạn hay kết luận của giáo viên. Tránh tình trạng không cho
các em tham gia hoạt động học tập vì không được giao nhiệm vụ bằng cách giáo
viên phải bao quát được lớp, nhắc nhở thường xuyên.
Để làm tốt đòi hỏi tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của những học sinh
yếu vì hầu như ở lớp tôi thường học sinh yếu lại rơi vào những gia đình có hoàn
cảnh khó khăn, bố mẹ không có tiền mua đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập,
hay không quan tâm đến sự học tập của con cái. Vì thế, tôi lại phải nhờ đến nhà
trường cho mượn sách vở và đồ dùng học tập khi đến lớp đó cũng là tạo những
ấn tượng tốt trong các em để các em có niềm tin ở trường lớp, thầy cô, bạn bè từ
đó có ý chí vươn lên.
- Ngoài những biện pháp trên [tổ chức giảng dạy đó là phần bắt buộc] tôi
luôn tổ chức trò chơi, văn nghệ, kể chuyện và những hoạt động khác để tạo dựng
nơi các em lòng tin yêu trường lớp, tha thiết học tập thích gần gũi với thầy cô,
bạn bè để từ đó các em luôn chấp hành tốt nhiệm vụ và kỷ luật của buổi học tập.
- Cuối cùng là biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia
đình bằng cách qua sổ liên lạc để gia đình tạo điều kiện đôn đốc các em thực
hiện tốt kết hoạch ở trường, ở nhà.
Hơn thế nữa bản thân tôi cũng đã gắn bó với học sinh thân yêu, từng thấy
trách nhiệm của mình đối với học sinh là cả một bước quan trọng không thể nhìn
thấy sau mỗi giờ học, buổi học mà nhìn thấy học sinh mình có nhiều em vẫn
chưa hiểu bài nên tôi đã nghĩ mọi phương pháp giảng dạy [như đã trình bày trên].
Ngoài ra, tôi còn dành thời gian1-2 buổi/ tuần phụ đạo cho các em yếu kém.
9

Tóm lại, tùy và từng đối tượng để giáo viên có biện pháp cụ thể thích hợp để
tổ chức dạy học chứ không theo phương pháp cứng nhắc, áp đặt. Đó là biện
pháp thiết thực nhất để nâng cao học, hạn chế được tối đa học sinh yếu kém,
không có học sinh lưu ban, không có học sinh ngồi nhầm lớp, đẩy nhanh tiến bộ
phổ cập giáo dục tiểu học mà kế hoạch năm học đã đề ra.
V. Hiệu quả áp dụng:
Qua một thời gian tôi tự tìm tòi, nghiên cứu ra những biện pháp để thực hiện
vào việc giảng dạy, phụ đạo học sinh yếu kém. . Với lòng yêu nghề, yêu trẻ với
những kinh nghiệm ít ỏi của mình tôi đã mạnh dạn áp dụng trong những năm
qua. Kết quả cho thấy rằng lớp tôi sau những đợt kiểm tra định kỳ tăng lên rõ
rệt. Những học sinh từ không biết đọc, không biết làm toán, không biết viết văn
bây giờ đã tiến bộ rõ nét đáng khen ngợi.
10
C.KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
- Những kinh nghiệm sau khi được tập hợp, phân loại và xếp vào quy
trình sẽ tạo điều kiện cho giáo viên tham khảo, áp dụng vào giảng dạy một cách
dễ dàng, làm cho việc phụ đạo HS yếu có hiệu quả hơn.
- Sáng kiến còn là nơi để giáo viên tập hợp kinh nghiệm, giải pháp,
chia sẽ với nhau trong quá trình tổ chức phụ đạo HS yếu. Nhưng thật ra không
có phương pháp nào là vạn năng hay tối ưu chỉ có lòng nhiệt tình, tinh thần trách
nhiệm của người thầy với nghề nghiệp là mang lại kết quả cao trong giảng dạy,
là chìa khóa vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì một ngày
mai tươi sáng. Đây là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. Đó cũng là
duyên nợ của người thầy.
II. Khả năng ứng dụng, triển khai:
Do đây là hệ thống những kinh nghiệm đã được áp dụng trong thực tế nên
khi ứng dụng và triển khai rất được giáo viên đồng tình, hưởng ứng. Khi triển
khai thực hiện các giải pháp sẽ được tập hợp nhiều hơn, khi đó đề tài sẽ là kinh
nghiệm chung cho tất cả giáo viên có HS yếu.

III. Bài học kinh nghiệm:
Từ những kết quả đạt được trong kết quả giảng dạy. Tôi tự thấy bồi dưỡng,
rèn luyện học sinh yếu kém là vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng học
cho học sinh trước hết giáo viên phải thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Người giáo viên phải yêu nghề, mến trẻ, phải hết lòng vì nghề nghiệp, vì học
sinh thân yêu, tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp, bồi dưỡng vốn sống
năng lực cho bản thân.
- Giáo viên phải nắm từng đối tượng, từng cá nhân thật cụ thể để có phương
pháp giáo dục cụ thể.
11
- Giáo viên phải gần gũi giúp đỡ các em vượt qua mọi khó khăn từ đó các em
có chỗ dựa vững chắc để vươn lên.
- Giáo viên phải kỳ công bày vẽ, từng ly từng tí cho học sinh.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần động viên, nhắc nhở kịp thời để các
em cố gắng, khắc phục kịp thời.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ xuất phát từ tình hình dạy học thực tế tôi rút ra
kinh nghiệm và thấy cũng mang lại những dấu hiệu tốt trong quá trình phụ đạo
cho những học sinh yếu kém.
HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT CỦA TRƯỜNG An Thạnh, ngày 15 tháng 04
năm 2012
Xếp loại:…………… Người viết
CTHĐ


12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- SÁCH TOÁN 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – ĐỖ ĐÌNH HOAN [Chủ
biên]- NGUYỄN ÁNG- ĐỖ TIẾN ĐẠT- ĐỖ TRUNG HIỆU- ĐÀO THÁI
LAN
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM

- SÁCH TIẾNG VIỆT 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO- NHÀ XUẤT BẢN
GIÁO DỤC
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thực hành.
13

Skkn một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán
học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu
về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có
lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu
tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán,
phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn
giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt
sáng tạo.
Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn
toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa
học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời
sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho
tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong
thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà
trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc
thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống
hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội.
Trong dạy - học toán ở lớp 2, việc cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100
chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy - học và cộng trừ là '' hòn đá thử
vàng''.
Xuất phát từ thực tiễn triển khai thực hiện chương trình và các bộ môn học lớp
2 theo chương trình do bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo ban hành mà ngành
giáo dục và đào tạo hiện nay đang được toàn xã hội quan tâm ở mức cao nhất về
nội dung chương trình, chất lượng dạy học.
1

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Chất lượng giáo dục đào tạo trong các nhà trường đã được nâng cao lên song
vẫn còn hạn chế : học sinh chưa khai thác hết khả năng tiềm ẩn trong nội dung
bài học để từ đó tìm ra chìa khoá giải quyết vấn đề .
Đối với giáo viên thời gian gần đây đã được tham gia các lớp học bồi dưỡng
thay sách. Nhiều thầy cô đã được công nhận là giáo viên dạy giỏi các cấp , tuy
nhiên còn không ít thầy cô chưa khuyến khích học sinh học tập một cách chủ
động, sáng tạo đặc biệt là vận dụng kiến thức đã học trong đòi sống.
Về nhận thức mỗi giáo viên phải thấy đổi mới phương pháp dạy học là góp
phần nâng cao chất lượng dạy học.
Đáp ứng việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học năm học 20... - 20... tôi
đã thực hiện đề tài này cho thấy kết quả dạy học đã được nâng lên , bước đầu
khuyến khích học sinh học tốt hơn. Qua một năm thử nghiệm bổ sung nhiều
thiếu sót, đúc rút kinh nghiệm , năm học 20... - 20... tôi tiếp tục vận dụng đề tài
“Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2” trong giảng dạy môn
toán 2 phần cộng , trừ có nhớ trong phạm vi 100, nhằm trang bị cho học sinh
một tư duy mới, một phương pháp mới khoa học và ưu việt.
II. Mục đích nghiên cứu
- Từ đầu năm học tôi đã chú trọng đến việc rèn kĩ năng thực hiện phép
tính cộng, trừ để học sinh tiếp thu tri thức có hệ thống, đó là việc rất quan trọng
và cần thiết của người giáo viên hiện nay nhằm giúp cho học sinh bắt kịp trình
độ khoa học kĩ thuật tiên tiến và sự đổi mới đất nước, sự cần thiết phải đổi mới
con người chính vì vậy tôi mới đặt vấn đề nghiên cứu.
III. Kết quả cần đạt

IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đề tài này áp dụng cho tập thể giáo viên lớp 2 trường Tiểu học THTH.
2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

- Rèn cho học sinh lớp 2 kĩ năng tính toán.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
- Học sinh có hứng thú học môn toán hơn vì trước đây bài làm của các em
thường bị điểm thấp.
- Làm thay đổi suy nghĩ trước đây của đồng nghiệp, xuất phát từ những quan
điểm trên, bản thân lựa chọn phương pháp dạy toán phù hợp với trình độ phát
triển của học sinh. Rèn kỹ năng toán để góp phần nâng cao chất lượng dạy –
học môn Toán .

3

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều
được giảng dạy thông qua việc hai phép tính cộng, trừ. Giúp học sinh củng cố,
vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc thực
hiện phép tính cộng, trừ của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện
những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để
giúp các em phát huy những ưu điểm khắc phục thiếu sót.
Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện
thông qua việc cho học sinh tính toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một
cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành
cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó
trong cuộc sống.
Việc tính toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những
cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật
biện chứng.
Việc tính toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực
tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán,
tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực. Hoạt động trí tuệ có trong
việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận,
chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm
tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v...
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, tăng cường luyện tập thực
hành , hình thành kĩ năng toán học cho học sinh , song việc khuyến khích học
sinh tính bằng nhiều cách, lựa chọn cách tính còn hạn chế. Học sinh thuộc bảng
4

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

cộng trừ , nắm được thuật tính, chưa thấy được sự đa dạng phong phú của các
bài tập , khả năng vận dụng cộng trừ nhẩm trong đòi sống chậm .
III. Mô tả nội dung
Đơn vị cơ bản của quá trình dạy học là các tiết dạy vì vậy trong uqá trình dạy
học giáo viên phải nghĩ đến từng tiết học .Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài
tập để củng cố , thực hành trực tiếp các kiến thức mới, giáo viên vừa giúp học
sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản nhất vừa hình thành được phương pháp
học tập cho các em .
Cùng với việc đổi mới về cấu trúc, nội dung sách giáo khoa, trong mỗi tiết học
giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập giúp các em nắm được
kién thức cơ bản về phép cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100, khuyến khích học
sinh tìm ra kết quả bằng nhiều cách .Đồng thời hình thành và rèn cho học sinh
các kĩ năng thực hành về cộng trừ, đặc biệt là kĩ năng tính và giải quyết vấn đề
thông qua cách cộng trừ nhẩm. Với cách cộng trừ nhẩm giúp học sinh khắc sâu
kiến thức thấy được sự đa dạng và phong phú của các bài tập , từ đó tập cho học
sinh thói quen khai thác nội dung tiềm ẩn trong từng bài tập, lựa chọn cách giải
tốt nhất cho bài làm của mình , vận dụng ngay cách cộng trừ nhẩm của tiết học
trước trong các tiết dạy tiếp liền, vận dụng trong đời sống một cách chủ động,
linh hoạt và sáng tạo.
Khi dạy toán cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 cho học sinh lớp 2 tôi luôn
yêu cầu học sinh tính bằng nhiều cách trong đó có vận dụng tính nhẩm để tìm
nhanh kết quả .
Các bước được tiến hành như sau:
A- phép cộng :
Các bài dạng 9 +5; 29+5;49+25
* Bài 9 cộng với một số : 9+5
- Học sinh thực hiện tính 9+5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời theo
nhiều cách để tìm ra kết quả 9+5 = 14
5

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

- Đặt tính rồi tính
9
+5
14
- Học sinh nắm được thuật tính
- Dựa vào hình vẽ sgk [trang 15] khuyến khích học sinh tìm ra cách làm nhanh
nhất : “tách 1 ở số sau để có 9 cộng với 1 bằng10 , lấy 10 cộng với số còn lại của
số sau”. Cách thực hiện này yêu cầu học sinh phải huy động các kiến thức đã
học ở lớp 1 [9+1=10, 5 gồm 1 và 4] để tự phát hiện nội dung mới và chuẩn bị cơ
sở cho việc lạp bảng cộng có nhớ.
- Lập bảng cộng dạng 9 cộng với một số và học thuộc chẳng hạn
9+2=
9+3=
9+4=
...
9+9=
+ Cách 1”
Học sinh tự tìm ra kết quả bằng các thao tác trên que tính .
+ Cách 2:
Cho học sinh nhận xét về các phép tính ? [ số hạng thứ nhất của các phép tính
đều là 9] khi cộng 9 với một số tách 1 ở số sau để có 9 +1 = 10 cộng với số còn
lại của số sau rồi tính nhẩm . Với cách này học sinh khắc sâu kiến thức, tránh
lạm dụng đồ dùng trực quan.
Học thuộc công thức cũng chỉ là bước đầu chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên giúp
học sinh nhận ra: học không phải chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dụng.
Thông qua hệ thống bài tập học sinh biết cách vận dụng những kiến thức cơ
bản đã học để làm bài, giáo viên khuyến khích học sinh tìm kết quả bằng nhiều
cách , nhận xét đưa ra cách giải nhanh nhất.
6

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

+ Chẳng hạn:
Bài tập 1: Tính nhẩm trang 15
9+3= 9+6= 9+8 =

9+7=

9+4=

3+9= 6+9= 8+9= 7+9= 4+9=

+ Cách 1: Trên cơ sở học thuộc bảng cộng học sinh tự tìm ra kết quả ở mỗi
phép tính.
+ Cách 2: Dựa vào cách tính nhẩm học sinh tự nêu kết quả rồi đọc [chẳng hạn :
9+1 =10, 10 +2 =12]
- Diền ngay 9+3=12 [vì khi đổi chỗ các số hạng trong một tổng thì tổng
không thay đổi]
- Bài tập 3 Tính [trang 15]
9+6+3= 9+9+1= 9+4+2=

9+5+3=

- Giáo viên yêu cầu học sinh chọn phương pháp giải, chẳng hạn : 9+9 +1 =18
+1 =19
- Hay 9+9+1=9+10=19
- Bài 29 +5
+ Cách 1 [SGK] 29 +5 =?
29

*9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1

+ 5

*2 thêm 1 bằng 3, viết 3.

34
+ Cách 2 Vận dụng cách tính nhẩm của bài 9+5 các em có thể tính như sau: 29
+5 =
29 +1+4=30+4=34
- Bài 49 +25
+ Cách 1 [SGK] 49 +25 =
49
+25

* 9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1.
*4 cộng 2 bằng 6, thêm 1 bằng 7, viết 7.

74
+ Cách 2 Tính nhẩm: 49+25=49+1+24=50+24=74
7

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

*Các bài dạng 8+5;7+5;6+5; 28+5;47+5;26+5; 38+25;47+25;36+15
+ Thực hiện tương tự dạng như trên :
Học sinh ghi nhớ: muốn cộng nhẩm hai số ta làm tròn chục một số. Khi thêm
vào số có hàng đơn vị lớn hơn bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải bớt
đi ở số hạng kia bấy nhiêu đơn vị.
B. Phép trừ
- Các bài dạng 11-5 ; 31- 5 ;51-15
+ Bài 11trừ đi một số 11-5
- Học sinh thực hiện tính 11-5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời
bằng nhiều cách để tìm ra kết quả 11-5
đặt tính rồi tính
11

[Học sinh nắm được thuật tính]

-5
6
- Dựa vào hình vẽ SGK trang 48 học sinh tìm ra cách tính nhẩm: 11-5 =11-14=10-4=6
- Hướng dãn thực hiện các thao tác
11-5 =[11+5]-[5+5]
= 16

- 10

= 6

- Phát hiện cách trừ nhẩm : muốn trừ nhẩm ta làm tròn chục số trừ: khi thêm
vào số trừ bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải thêm vào số bị trừ bấy
nhiêu đơn vị.
+ Bài tập 1: Tính nhẩm trang 48
9+2=

8+3=

7+4= 6+5= 2+9= 3+8= 4+7= 5+6=

11-9= 11-2= 11-8= 11-3= 11-7= 11-4= 11-5= 11-6=
- Cách 1 : trên cơ sở thuộc bảng cộng trừ học sinh tự tìm ra kết quả mỗi phép
tính
8

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

- Cách 2: Dựa vào kiến thức đã học học sinh có thể điền ngay 9 +2 = 11 ; 2 +9
=11
Còn 11-9 ; 11-2, cần được đặt trong mối quan hệ với phép cộng 9 +2=11; 2+9
=11 và cách tìm một số hạng khi biết số hạng kia và tổng. Các cột còn lại thực
hiện tương tự.
Dựa vào cách tính nhẩm bài 11-5, học sinh vận dụng tính nhẩm trong các bài
tiếp theo.
+ Bài 31-5
- Cách 1 Đặt tính 31-5 =?
31

*1 không trừ được 5 lấy 11 trừ 5 bằng 6 viết 6 nhớ 1

- 5
26

*3 trừ 1 bằng 2 viết 2

- Cách 2 tính nhẩm
31-5 =[31+5] -[5+5]=
36 -

10 = 26

+ Bài 51-15
- Cách 1 [SGK] 51 -15=?
52

*1 không trừ được 5 lấy 11-5 bằng 6 viết 6 nhớ 1.

-15

*1 thêm 1 bằng 2, 5 trừ 2 bằng 3, viết 3

36
- Cách 2 tính nhẩm:
51-15 =[51+5] -[15+5]=
56 -

20

= 36

* Các bài dạng 12-8;32-8; 52-28;13-5;33-5;53-15;14-8;34-8;54-18
Thực hiện tương tự như trên.
IV. Kết quả nghiên cứu
9

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Với cách dạy cộng trừ nhẩm lồng vào từng bài học phần cộng trừ có nhớ , học
sinh hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh
biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng
tạo.
Học sinh có thói quen lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, tạo
điều kiện phát triển tư duy, năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng
Ở cuối học kì một chất lượng cả khối đạt như sau:

Thời gian

Tổng số

kiểm tra

học sinh

Kết quả
Giỏi

Khá

TB

Đầu năm

199

SL
65

Giữa kỳ I

199

81

44,1

85

52,7

33

Cuối kỳ I

199

53,5

64

32,3

29

14,2

Yếu

%
16,4

SL
71

%
45,1

SL
54

%
32,9

SL
9

3,2

0

%
5,6

106
Qua thực nghiệm dạy tính nhẩm ta thấy hiệu quả rất khả quan, số học sinh giỏi
được tăng lên đáng kể, số học sinh yếu không còn.
V. Bài học kinh nghiệm:
Hướng dẫn và giúp học sinh cộng, trừ nhanh nhằm giúp các em phát triển
tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn
luyện tốt phương pháp suy luận lôgric.
Do vậy, việc giảng dạy tính toán một cách hiệu quả giúp các em trở thành
những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc
sống thực tế hàng ngày.

10

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu
không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bậc tiểu học, song
lại là cái mới đối với tổ khối 2. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã phát
hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học môn toán
có lời văn ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng. Chúng tôi cảm thấy
mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì, nhẫn nại, sự ham muốn, say xưa với
việc giảng dạy. Tuy nhiên đề tài này của chúng tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu
trong lĩnh vực khoa học nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng
tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các bạn
đồng nghiệp.
Qua thời gian nghiên cứu, đồng thời áp dụng trong thực tế giảng dạy trên
lớp, chúng tôi nhận thấy đề tài có thể áp bước đầu trong khối lớp 2 và có thể
nhân rộng ra ở các khối lớp khác đặc biệt là khối 3.
Qua cách dạy đã nêu trên đây, so với các lớp học theo chỉ dẫn của sách
giáo khoa và sách giáo viên, tôi nhận thấy học sinh dễ hiểu bài hơn, dễ áp dụng

11

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

hơn. Qua kết quả học tập của học sinh lớp 2, các đồng nghiệp trong khối cũng
nhận thấy cách hướng dẫn trên là hay và có hiệu quả.
Nếu tính khả thi cao có thể áp dụng trong cụm chuyên môn bằng hình
thức báo cáo chuyên đề, thao giảng … để chúng tôi cùng với các anh chị đồng
nghiệp ở các trường bạn rút kinh nghiệm, giúp đề tài ngày càng hoàn thiện hơn,
tính khả thi ngày càng được nâng cao hơn.
II. Một số kiến nghị, đề xuất:
Qua thực tế giảng dạy môn toán ở Trường tiểu học nói chung và lớp 2 nói
riêng, chúng tôi thấy người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trau dồi
kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như:
trò chơi, đố vui.... phù hợp với đối tượng học sinh của mình: " Lấy học sinh để
hướng vào hoạt động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ
động trong việc tính toán ''.
Không nên dừng lại ở kết quả ban đầu, mà nên có yêu cầu cao hơn đối với
học sinh. Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: ''Làm phép tính đó để
làm gì ?'' , từ đó có hướng cách tính đúng, chính xác.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà chúng tôi đã nghiên cứu và vận dụng
trong quá trình giảng dạy thực tế của khối lớp mình. Tuy kết quả bước đầu
chưa cao lắm, nhưng với nhiệt tình và nổ lực theo khả năng, chúng tôi cũng
đã tích lũy được một số bài học thực tiễn. Rất mong được nhận ý kiến đóng
góp của Ban giám hiệu cùng các bạn đồng nghiệp, để việc rèn cho học sinh kĩ
năng giải toán có lời văn ngày càng được quan tâm hơn, giúp các em tư duy
một cách toàn diện hơn.
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết
12

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

MỤC LỤC
[Bạn có thể thay đổi - thêm bớt nên số trang thay đổi do vậy chúng tôi chỉ để
sẵn danh mục. Bấm phím tab sẽ ra các dấu … cách đều]
PHẦN I. MỞ ĐẦU
.........................................................................................................................
Trang 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................4
2.......................................................................................................................
3.......................................................................................................................
4.......................................................................................................................
5.......................................................................................................................
13

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2
PHẦN II. NỘI DUNG .....................................................................................

1.......................................................................................................................
2.......................................................................................................................
3.......................................................................................................................
4.......................................................................................................................
PHẦN III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ........................................................
1. KẾT LUẬN ...............................................................................................
2. KIẾN NGHỊ...............................................................................................
PHỤ LỤC.......................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 2, NxbGD
2. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 2 [Sách Giáo Viên], NxbGD
3. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng [Lớp 2] , NxbGD
4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học
5. Giáo trình tâm lý học Tiểu học
6. Giáo trình giáo dục học ở Tiểu học
7. Chuyên đề giáo dục Tiểu hoc
8. Thế giới trong ta 101 câu hỏi – đáp về dạy môn Toán lớp một mới.
9. Báo Toán học tuổi trẻ.
10. Bộ GD&ĐT, Các đề thi có ma trận mẫu, www.thi.moet.gov.vn
11. Bộ GD&ĐT, Hướng dẫn nhiệm vụ năm học.
14

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

12. Nguyễn Cảnh Toàn, Luận bàn và kinh nghiệm về tự học, Tủ sách tự học,
1995
13. Nguyễn Cảnh Toàn, Tự giáo dục, tự nghiên cứu, tự đào tạo, NXB ĐHSP,
2001
14. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên môn toán chu kỳ 2004-2007
15. Trần Phương và Nguyễn Đức Tấn, Sai lầm thường gặp và các sáng tạo khi
giải toán, NXB Hà Nội – 2004
16. Số học bà chúa của toán học – Hoàng Chúng.
17. Một số tài liệu khác và tranh ảnh sưu tầm trên internet.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

BẢN CAM KẾT
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ
Họ và tên: ………………………
Ngày, tháng, năm sinh: …………
Đơn vị: Trường tiểu học ………..
Địên thoại: 0912345678
E-mail:
II. TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
15

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Tên SKKN:
III. NỘI DUNG CAM KẾT
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng thành công trong
giảng dạy tại trường ………………………………... . Trong trường hợp có xảy
ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sản phẩm sáng kiến
kinh nghiệm này mà tôi là người vi phạm, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo sở GD&ĐT. Sáng kiến kinh nghiệm này tôi cũng đã
phổ biến cho đồng nghiệp nên nếu có bạn đọc học tập, nghiên cứu, sử dụng, áp
dụng sáng kiến này tôi cũng không khiếu nại hay đòi hỏi quyền sở hữu.
…………, ngày … tháng … năm
20….
Người cam kết
[Ký, ghi rõ họ tên]

1. HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG
A.

Bảng so sánh sự giống và khác nhau giữa SKKN và NCKHSPƯD

Nội dung
Mục đích

Sáng kiến kinh nghiệm
Cải tiến/tạo ra cái mới nhằm thay
đổi hiện trạng, mang lại hiệu quả
cao
Căn cứ
Xuất phát từ thực tiễn, được lý
giải bằng lý lẽ mang tính chủ quan
cá nhân
Quy trình Tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của
mỗi cá nhân
Kết quả

Mang tính định tính chủ quan

NCKHSPƯD
Cải tiến/tạo ra cái mới nhằm thay
đổi hiện trạng, mang lại hiệu quả
cao
Xuất phát từ thực tiễn, được lý giải
dựa trên các căn cứ mang tính khoa
học
Quy trình đơn giản mang tính khoa
học, tính phổ biến quốc tế, áp dụng
cho mọi GV/CBQL.
Mang tính định tính/ định lượng
16

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

khách quan.
B. HƯỚNG DẪN CỤ THỂ
B1. Xác định đề tài nghiên cứu
Khi xác định đề tài nghiên cứu, cần tiến hành theo các bước sau:
1. Tìm hiểu hiện trạng
Căn cứ vào các vấn đề đang nổi cộm trong thực tế giáo dục ở địa phương như
những khó khăn, hạn chế trong D&H, QLGD làm ảnh hưởng đến kết quả dạy và
học/giáo dục của lớp mình, trường mình, địa phương của mình:
Ví dụ:
Hạn chế trong thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra đánh giá;
Hạn chế, yếu kém trong sử dụng thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học;
Chất lượng, kết quả học tập của học sinh ở một số môn học còn thấp [ví
dụ: môn Toán ; Tiếng Việt …];
Học sinh chán học, bỏ học;
Học sinh yếu kém, HS cá biệt trong lớp/ trường;
Sự bất cập của nội dung chương trình và SGK đối với địa phương

Trong rất nhiều vấn đề nổi cộm của thực tế giáo dục ở địa phương, chúng ta
chọn một vấn đề để tiến hành NCKHSPƯD nhằm cải thiện/ thay đổi hiện trạng,
nâng cao chất lượng.
Ví dụ:
Làm thế nào để giảm số học sinh bỏ học…?;
Làm thế nào để tăng tỉ lệ đi học đúng giờ đối với số học sinh hay đi học
muộn?;
Làm thế nào để nâng cao kết quả học tập của học sinh học kém môn Toán ?
Làm thế nào để giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt hơn môn Tiếng
Việt?.


17

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Sau khi chọn vấn đề nghiên cứu chúng ta cần tìm hiểu liệt kê các nguyên nhân
dẫn đến những hạn chế trong thực trạng và chọn một nguyên nhân để tìm biện
pháp tác động.
Ví dụ:
Nguyên nhân của việc học sinh học kém môn toán là:
Do chương trình môn toán chưa phù hợp với trình độ của học sinh;
Phương pháp dạy học sử dụng trong môn toán chưa phát huy được tính tích
cực của HS;
Điều kiện, đồ dùng, thiết bị dạy học Toán chưa đáp ứng;
Phụ huynh HS chưa quan tâm đến việc học của con em mình;

Từ các nguyên nhân trên, ví dụ ta chọn nguyên nhân thứ hai để nghiên cứu, tìm
biện pháp tác động.
2. Tìm các giải pháp thay thế
Khi tìm các giải pháp thay thế nên tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo các kinh
nghiệm của đồng nghiệp và các tài liệu, bài báo, SKKN, báo cáo NCKH có nội
dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của mình. Đồng thời suy nghĩ, điều chỉnh,
sáng tạo tìm ra các biện pháp tác động phù hợp, có hiệu quả.
Ví dụ: Giải pháp thay thế cho nguyên nhân thứ hai ở trên là:
Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn toán.
3. Xác định vấn đề nghiên cứu
Sau khi tìm được giải pháp tác động ta tiến hành xác định vấn đề NC, câu hỏi
cho vấn đề nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu.
Với ví dụ trên ta có tên đề tài là:
Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn toán sẽ nâng cao kết quả
học tập môn toán của HS tiểu học [ lớp 2B trường … tỉnh…] hoặc
Nâng cao kết quả học tập môn toán cho HS thông qua việc sử dụng PP trò
chơi [ lớp 2B trường … tỉnh…]
Với đề tài này chúng ta có các câu hỏi cho vấn đề nghiên cứu sau:
Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn toán có nâng cao kết
quả học Toán cho HS tiểu học không?
18

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Giả thuyết của Vấn đề nghiên cứu trên là: Có, sử dụng phương pháp trò chơi
trong dạy học môn Toán sẽ nâng cao kết quả học Toán cho HS tiểu học.
B2. Lựa chọn thiết kế
Trong phần thứ nhất, tài liệu đã giíi thiÖu các dạng thiết kế. Tuỳ vào điều kiện
thực tế: quy mô lớp học, thời gian thu thập dữ liệu, đặc điểm cấp học/m«n häc và
vấn đề nghiên cứu ®Ó lựa chọn thiết kế phù hợp.
- Thiết kế 1: Thiết kế kiểm tra trước và sau tác động đối với nhóm duy nhất.
Là thiết kế đơn giản, dễ thực hiện, đặc biệt đối với giáo viên tiểu học. Bởi vì
thiết kế này không làm ảnh hưởng ®Õn kÕ ho¹ch d¹y häc cña líp/ trêng, có thể sử
dụng học sinh của cả lớp, tất cả học sinh đều được tham gia vào nhóm nghiên
cứu. Hơn nữa với thiết kế này, ngoài việc thu thập dữ liệu qua bảng hỏi/bài kiểm
tra, người NC dễ quan sát nhận biết sự thay đổi qua hành vi, thái độ cña HS...
Tuy vậy, thiết kế này chứa đựng nhiều nguy cơ ảnh hưởng, kết quả kiểm tra sau
tác động tăng lên so với trước tác động có thể do một số yếu tố khác [ví dụ như
học sinh có kinh nghiệm hơn trong việc làm bài kiểm tra; tâm trạng của người sử
dụng công cụ đo ở những thời điểm khác nhau nên kết quả khác nhau,…]. Do
đó, nếu sử dụng thiết kế này thì nên kết hợp c¨n cø vµo kÕt qu¶ cña bộ phiếu
hỏi/bài kiểm tra và qua quan sát, lập hồ sơ cá nhân.
VÝ dô đề tài: “Tác động của việc học sinh THCS hỗ trợ lẫn nhau trong lớp học
đối với hành vi thực hiện nhiệm vụ môn Toán” [do GV Singapore thùc hiÖn]. Ở
đề tài này, nhóm NC đã tiến hành khảo sát trước tác động và sau tác động [qua
bảng phiếu hỏi và qua nhật kí của học sinh] về hành vi của học sinh trong việc
thực hiện nhiệm vụ trong học tập môn Toán đối với tất cả học sinh tham gia vào
qu¸ tr×nh nghiên cứu.
- Thiết kế 2: Thiết kế kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm tương
đương.
Thiết kế này sử dụng 2 nhóm nguyên vẹn [toàn bộ 2 lớp học sinh] có sự tương
đương để làm nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. .
Đây là thiết kế mang tính thực tế, dễ thực hiện đối với giáo viên, đặc biệt là
giáo viên THCS, THPT. Song đối với giáo viên tiểu học thì sẽ gặp khó khăn. Bởi
mỗi giáo viên chỉ dạy học trong một lớp [trừ giáo viên các môn ®Æc thï: Mĩ
thuật, Âm nhạc…].
VÝ dô đề tài: “Nâng cao kết quả học tập các bài học về không khí thuộc chủ đề
“Vật chất và năng lượng” cho học sinh thông qua việc sử dụng một số tệp có
19

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

định dạng FLASH và VIDEO CLIP trong dạy học”. Nhóm NC chọn 2 lớp: lớp
4A1 làm nhóm thực nghiệm và lớp 4A2 làm nhóm đối chứng. Hai nhóm có sự
tương đương nhau về khả năng học tập và tỉ lệ giới tính, dân tộc…
- Thiết kế 3: Thiết kế kiểm tra trước tác động và sau tác động đối với các nhóm
được phân chia ngẫu nhiên.
Yêu cầu bắt buộc là các nhóm ngẫu nhiên phải đảm bảo sự tương đương.
Có thể tạo lập 2 nhóm ngẫu nhiên ở các lớp khác nhau hoặc có thể phân lớp
thành 2 nhóm ngẫu nhiên nhng vÉn ph¶i ®¶m b¶o sù t¬ng ®¬ng. Đây là một thiết
kế hiệu quả nhưng rất khó thực hiện, vì nó ảnh hưởng tới hoạt động bình thường
của lớp học.
VÝ dô ®ề tài: “Nâng cao khả năng đánh giá và khả năng giải toán cho học sinh
lớp 8 thông qua việc tổ chức cho học sinh đánh giá chéo bài kiểm tra môn
Toán”. Nhóm nghiên cứu: chia lớp [trong lớp có 30 em HS] thành 2 nhóm, mỗi
nhóm 15 HS. Trình độ của học sinh trong 2 nhóm được xem là tương đương trên
cơ sở lựa chọn từ kết quả học tập do giáo viên bộ môn đánh giá. Nhóm nghiên
cứu tổ chức kiểm tra trước tác động và sau tác động cho cả nhóm đối chứng và
nhóm thực nghiệm.
- Thiết kế 4: Thiết kế chỉ kiểm tra sau tác động đối với các nhóm được phân chia
ngẫu nhiên. Không cần khảo sát/kiểm tra trước tác động vì các nhóm đã đảm bảo
sự tương đương [c¨n cø vµo kÕt qu¶ häc tËp cña häc sinh tríc khi t¸c ®éng ].
Người NC chỉ kiểm tra sau tác động và so sánh kết quả.
VÝ dô ®ề tài: “Tăng kết quả giải bài tập toán cho học sinh lớp 5 thông qua việc tổ
chức cho học sinh học theo nhóm ở nhà”. Nhóm nghiên cứu đã: phân chia lớp
[lớp có 30 học sinh] thành 2 nhóm ngẫu nhiên [đảm bảo sự tương đương], mỗi
nhóm 15 học sinh và chỉ kiểm tra sau tác động để so sánh kÕt qu¶ cña 2 nhãm.
- Thiết kế cơ sở AB/thiết kế đa cơ sở AB
Trong lớp học/trường học nào cũng có một số học sinh được gọi là “ HS cá
biệt”. Những HS này thường có các biểu hiện khác thường như không thích tham
gia vào các hoạt động tập thể; không thích học; thường xuyên đi học muộn; bỏ
học hoặc hay gây gổ đánh nhau; kết quả học tập yếu kém…Vậy làm thế nào để
có thể thay đổi thái độ, hành vi, thói quen không tốt của học sinh? Đây là một
20

Tải về bản full

Skkn rèn học sinh yếu lớp 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"RÈN HỌC SINH YẾU LỚP 2"

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc
phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo
viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn
với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng
trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho
học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Thật vậy, tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục nhưng mỗi học
sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, có điều kiện hoàn cảnh sống và
sự quan tâm chăm sóc ở gia đình là khác nhau, có động cơ và thái độ học tập khác nhau,
môi trường giáo dục khác nhau mà trong đó có sự dạy dỗ của thầy cô giáo thì năng lực
học tập, khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải khác nhau. Từ đó, dẫn
đến có học sinh yếu, kém. Vậy chúng ta phải rèn luyện các em học sinh này như thế nào?
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách
nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc
phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số
mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở
địa phương.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng
dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc chỉ đạo, tư vấn các đơn vị trường chú trọng
giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy
đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Từ

2

những suy nghĩ trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số kỹ năng phụ đạo học sinh yếu lớp 2” để
tiếp tục áp dụng vào thực tế học sinh khối 2 trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử nói riêng và
học sinh toàn huyện nói chung.
II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi
Một số Kỹ năng phụ đạo học sinh yếu lớp 2.
2. Đối tượng
Giáo viên và học sinh khối 2 trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử về việc giúp đỡ các em
là học sinh yếu.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí
lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan
tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say
mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp
các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn,
để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là
của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc “trồng người”
luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học
sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp.
- Nhằm giúp đỡ các em học sinh yếu, kém vươn lên trong học tập; nâng cao chất
lượng dạy, học; hạn chế tối thiểu tỉ lệ học sinh yếu, kém. Đồng thời cũng để trang bị cho
giáo viên kiến thức sau này áp dụng trong quá trình giảng dạy; hy vọng qua đề tài này sẽ

3

nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ phía các cấp lãnh đạo cũng như giáo viên trong và
ngoài trường.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lí luận
Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2.
2. Nghiên cứu thực nghiệm
Tìm hiểu thực trạng dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2; áp dụng một số kỹ
năng trong quá trình dạy học và rèn kĩ năng đối với học sinh yếu ở hai môn Toán và
Tiếng Việt tạo công cụ vững chắc cho trẻ học tập góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
3. Nghiên cứu ứng dụng
Đề xuất những giải pháp phù hợp mang tính khả thi nhằm áp dụng có hiệu quả để
nâng cao chất lượng dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Công tác quản lí:
- Quán triệt chủ trương của ngành về đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao
nhận thức cho cán bộ quản lý các cấp và giáo viên đứng lớp: “Tổ chức các giờ học, các
hoạt động giáo dục đảm bảo nhẹ nhàng - tự nhiên – hiệu quả và chất lượng” tránh tình
trạng để học sinh “ngồi nhầm lớp”.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra chuyên môn, dự giờ rút kinh nghiệm và tổ chức
cho giáo viên giao lưu trao đổi và học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài trường.

4

- Tổ chức các cuộc thi giáo viên dạy giỏi các cấp về thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học, đánh giá đúng chất lượng dạy của giáo viên.
- Đổi mới cách đánh giá xếp loại học sinh.
1.Đội ngũ giáo viên:
Cần từng bước chuẩn hoá đội ngũ giáo viên: trang bị giáo viên những kiến thức về
đổi mới phương pháp dạy học cụ thể qua các chuyên đề, các loại bài học, các hình thức tổ
chức dạy học. Đổi mới sinh hoạt chuyên môn hàng tuần ở từng khối lớp, ở tổ chuyên
môn...
2.Cơ sở vật chất:
Trang bị đầy đủ sách khoa, đồ dùng học tập cho cho học sinh, tăng cường sách
hướng dẫn giảng dạy, thiết bị dạy học tối thiểu cho giáo viên.
Trở về với mỗi giáo viên, hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học đang thu hút
và tác động đến từng cá nhân. Mỗi tiết dạy để đảm bảo sự thành công, việc đổi mới
phương pháp dạy học ở tiểu học đang được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, cần lựa chọn
sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh
Với nhu cầu của một xã hội hoá GD đòi hỏi ngành GD phải đổi mới
phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu
sắc,

biết

tự

giác

chủ

động

sáng

tạo

trong

công

việc.

Nhìn

lại

việc

học của con em ở địa phương, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều
hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn.

Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không
ham học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn khoăn

5

là làm thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học
sinh trong học tập. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện
nhanh và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo là những người
làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dựng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn
dân đi lên. Đặc biệt là giáo dục ở các vùng miền núi.

Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh,
dân tộc thiểu số mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá
việc học của mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn
khác. Từ đó các em có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu
thi đua nhau để việc học có kết quả cao hơn.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi:
Cơ sở vật chất ngày càng được ổn định; các chế độ cho học sinh nghèo theo QĐ
112, chế độ cho học sinh bán trú dân nuôi được đảm bảo kịp thời, đội ngũ cán bộ quản lý
và giáo viên phần đa trẻ khoẻ, nhiệt tình năng nổ, có tâm huyết và trách nhiệm với nhiệm
vụ được phân công.
2. Khó khăn:
2.1. Thực tế về địa bàn:
- Trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử thuộc xã Pa Vệ Sử là một xã dân cư là 100% dân
tộc La Hủ còn nhiều khó khăn về mặt kinh tế, nên ảnh hưởng lớn đến việc học của học
sinh từ đó gây khó khăn trong việc thực hiện dạy và học của nhà trường.

6

- Phần lớn kinh tế gia đình học sinh còn nhiều khó khăn, tỷ lệ học sinh thuộc hộ
nghèo toàn xã còn nhiều.
2.2. Thực tế về phụ huynh học sinh [PHHS]:
- Do tình hình khó khăn như nêu ở trên, nên phụ huynh học sinh phần lớn không
quan tâm đến việc học của con em mình, phó thác cho nhà trường và thầy cô giáo [có
nhiều phụ huynh đã được nhà trường và giáo viên chủ nhiệm mời nhiều lần đến để trao
đổi, bàn bạc về việc học tập của con em mình nhưng vẫn không đến]. Do đó, hầu hết các
em học sinh của xã thường không có ý thức trong học tập thậm chí các em không hề xem
bài hay học bài ở nhà. Mà như ta đã biết, học sinh học tốt hay không còn phụ thuộc vào
bản thân của các em có tự giác trong học tập hay không?, giáo viên có nắm được đặc
điểm tâm sinh lí của học sinh hay không?, trong quá trình giảng dạy giáo viên có đề ra
các biện pháp, phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí đối tượng học
sinh hay không?. Đó là vấn đề mà nhiều giáo viên trong ngành gặp rất nhiều khó khăn
trong trong công tác giảng dạy cho đối tượng học sinh này.
2.3. Thực tế về học sinh:
- 100% số học sinh là học sinh dân tộc La Hủ, vì vậy các em đến trường, học
tập bằng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ 2. Các em học tiếng Việt - một ngôn ngữ
mới và học bằng công cụ mới. So với học sinh dân tộc Kinh, học sinh dân tộc thiểu số sử
dụng tiếng Việt- ngôn ngữ học tập một cách khó khăn vì:
- Học sinh học ngôn ngữ thứ hai nói chung bằng tư duy giao tiếp, thông qua việc
tiếp cận - từ việc hiểu ngôn ngữ có chủ định [qua bài học] đến việc vận dụng nó trong
sinh hoạt hằng ngày, do đó học sinh thường không tự tin nên dẫn đến học lực yếu.
- Hầu hết việc học bài ở nhà của học sinh hình như không có nếu có thì cũng chỉ học
qua loa cho xong.

7

- Trong một lớp học tỉ lệ học sinh yếu, kém chiếm khá đông, dẫn đến tiến trình học
tập chậm rãi.
- Tính tự quản, tự giác của học sinh trong học tập còn rất nhiều hạn chế chưa nhận
thức đúng đắn về động cơ và mục đích học tập, các em còn ham chơi, lười học.
 Xuất phát từ tình hình khó khăn thực tế như đã nêu ở trên dẫn đến có nhiều học
sinh yếu, kém trong một lớp học.
2.4. Khảo sát chất lượng đầu năm học:
Môn

TSHS

Giỏi

Khá

Trung bình Yếu

SL

%

SL

%

SL %

Tiếng Việt 44

0

0%

4

9,09%

12

27,2% 28

63,71%

Toán

0

0%

5

11,3%

15

34,09% 24

54,61%

44

SL

%

Căn cứ kết quả xếp loại học lực cuối năm học qua, so sánh với kết quả khảo sát
chất lượng học sinh đầu năm học này từ đó nắm được số liệu về học sinh yếu của trường.
3. Tìm hiểu nguyên nhân học sinh học yếu:
3.1. Về phía học sinh:
- Môi trường học tiếng Việt bị bó hẹp. học sinh dân tộc hầu như không thể có được số
lượng và mật độ các cuộc giao tiếp bằng tiếng Việt nhiều như học sinh người Kinh. Ở
trường học, học sinh dân tộc chỉ tiếp xúc duy nhất với thầy, cô giáo - những người nắm
vững tiếng Việt. Do số học sinh trong lớp thì đông mà lại chỉ có một giáo viên nên cơ hội
giao tiếp bằng tiếng Việt giữa học sinh và giáo viên rất có hạn. Nguyên nhân trên ảnh
hưởng không nhỏ đến học lực của học sinh.
- Lười biếng, chán học.

8

- Hoàn cảnh gia đình khó khăn.
- Cha mẹ không quan tâm.
- Xa điểm trường, đi lại khó khăn.
- Mất cha [mẹ].
- Nhiều nguyên nhân khác…
3.2. phía giáo viên:
Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần
ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có
thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có
trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà quan trọng giáo viên phải
biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với
từng nội dung kiến thức.
Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa
chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều
phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự
quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân
nhận thấy trong quá trình làm công tác chuyên môn. Qua việc phân tích những nguyên
nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp, kỹ năng để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu.
Trong phạm vi của bài viết, tôi chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở hai môn
công cụ: Toán và Tiếng Việt và công tác chủ nhiệm.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

9

1. Những biện pháp chung
1.1 Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn
nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản
thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh
mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo
viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực.
Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà
em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu
thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Bông hoa điểm
tốt”, “Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
1.2 Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn
có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của
từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu
bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát, vốn từ tiếng Việt hạn chế…
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức
năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.

10

Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học
bài: Bảng chia 3 [Toán–lớp 2 ], đối với các em học sinh yếu thì các em chỉ cần nắm mục
tiêu thứ nhất: “Học sinh thuộc bảng chia 3 và biết vận dụng bảng chia 3 để tính nhẩm
đúng” là đạt yêu cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được
tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình
trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1,
2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện
pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi
trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi,
hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề.
1.3 Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên
nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan
trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm
tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình
và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng
ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm

11

cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia
đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do. Bản thân giáo viên cần phân tích để các
bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình,
thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
1.4 Kèm cặp học sinh yếu:
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu
là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 2 điểm trường Thò ma, Seo Thèn B, Sín
Chải A, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 100% học sinh yếu và lên kế
hoạch phụ đạo cho các em.
Lập danh sách học sinh yếu [theo mẫu dưới đây] và chú ý quan tâm đặc biệt đến
những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu
hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…

DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP 2
Tiếng Việt
STT
Họ và tên

Điểm

Toán

Đọc

Viết

Không

Tính

yếu

yếu

biết

yếu

Con

ông

bản

[bà]

tính
1

Phùng Lỳ Phơ x

x

x

12

Phùng

Lỳ Thò Ma

Phạ
2

Ly Phý Lu

x

x

x

Thò Ma



2. Những biện pháp để giảm dần số lượng học sinh học yếu môn Toán.
2.1. Với đối tượng loại 1:
Vì kiến thức ở lớp dưới của các em bị hổng, không thể nào bù đắp ngay được trong
một thời gian ngắn. Giáo viên phải đặt quyết tâm trong suốt cả năm học, đặc biệt là học
kì I để giúp nhóm học sinh loại này lấp dần các lỗ hổng kiến thức. Đối với những học
sinh này phải có thêm thời gian học dưới sự hướng dẫn lại tỉ mỉ những kiến thức cơ bản,
trọng tâm theo một hệ thống riêng và yếu tố dẫn đến thành công là nắm chắc, luyện kĩ.
Trong các buổi học trên lớp thường được kiểm tra, rà soát và củng cố các kiến thức, chấm
bài song song trong tiết luyện tập, thường xuyên khích lệ động viên mỗi khi các em được
điểm cao hơn. Do đó các học sinh này có nhiều tiến bộ; cụ thể là: thích học toán, hay
xung phong lên bảng…
2.2. Với đối tượng loại 2:
Vấn đề cơ bản là giúp các em lấy lại lòng tự tin, phát huy được những tố chất cơ bản
đang tiềm ẩn trong mỗi em trong việc học tập môn Toán. Phương pháp trực quan, hệ
thống các bài tập từ dễ đến khó, tìm các cách giải khác nhau cùng với các câu hỏi vừa
sức, các bài toán vui, các bài toán gắn với thực tế chính là chìa khoá để giải quyết vấn đề.
2.3. Với đối tượng loại 3:
Những học sinh này trong lớp thường không chú ý nghe giảng, mỗi khi làm bài
kiểm tra tại lớp thường cẩu thả, không có ý thức kiểm tra lại bài làm. Cô giáo nhắc nhở

13

thì xem lại qua loa cho xong chuyện. Bài tập và bài học ở nhà không chuẩn bị chu đáo
trước khi đến lớp. Tóm lại, đối với diện học sinh này cần có sự kết hợp chặt chẽ với phụ
huynh nhằm quản lý việc học ở nhà và việc kiểm tra nhắc nhở thường xuyên ở lớp để
từng bước đưa các em vào nền nếp học tập.
2.4. Với đối tượng loại 4:
Các em này thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm. Giáo viên bố trí thời gian kèm cặp,
lấp dần lỗ hổng kiến thức, hình thành dần phương pháp học toán cho các em. Luôn khích
lệ động viên để các em không bị mặc cảm, tự ti mà tự tin vào bản thân mình để từ đó
vươn lên trong học tập. Với các em này, cô giáo phải hết lòng thương yêu, giúp đỡ. Cô là
chỗ dựa tinh thần và tình cảm của các em. Sự tiến bộ của các em chính là phần thưởng vô
giá đối với người giáo viên chủ nhiệm.
Riêng những học sinh phát triển thể chất bình thường nhưng năng lực tư duy yếu thì
giáo viên phải mất rất nhiều thời gian kèm cặp các em mới đạt được mức trung bình.
3. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp
khắc phục:
+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 2, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Như
em Phùng Lỳ Phơ, em Lý Go Xá Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa
đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu [em Xá], ví dụ: đọc tiếng
“buông” thành “buôn”, “bão” thành “báo”… chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp
2, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào
khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một văn bản còn hạn
chế.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu
thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của

14

từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa
đúng nên dẫn đến viết sai.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn:
Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết.
Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp
khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các
kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn.
4. Biện pháp cụ thể để giúp học sinh yếu có kỹ năng học tập ở môn Tiếng Việt.
4.1 Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:
Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên
gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện
đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ
cho các em luyện đọc thêm vào buổi 2.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập
đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét đánh
giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh
thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách
học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp
đỡ.
Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích
đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của

15

mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự
tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em
rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy
thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và
hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc,
từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
4.2. Chính tả:
Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần:
Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày
viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh
viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em
viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo
viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời.
Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em
sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết
đúng chính tả.
Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa,
giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho
các em có chọn từ để luyện viết thêm.
Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể
chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả.
4.3 Luyện từ và câu:

16

4.3.1. Hướng dẫn HS làm bài tập
- GV giúp HS nắm vững yêu cầu của bài tập [bằng câu hỏi, bằng lời giải thích].
- GV giúp HS chữa một phần của bài tập làm mẫu [một HS chữa mẫu trên bảng lớp
hoặc cả lớp làm bài vào vở hay bảng con].
- HS làm bài vào bảng con hoặc vào vở. GV uốn nắn.
- GV tổ chức cho HS trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ về tri
thức.
4.3.2. Cung cấp cho HS một số tri thức sơ giản về từ, câu và dấu câu
- Về vốn từ: Ngoài những từ được dạy qua các bài tập đọc, những thành ngữ được
cung cấp qua các bài tập viết, tăng cường tiếng Việt cho HS theo chủ điểm, ví dụ:
+ Đơn vị thời gian [ngày, tháng, năm, năm học …];
+ Đơn vị hành chính [xã, [phường], huyện [quận]];
+ Đồ dùng học tập;
+ Đồ dùng trong nhà;
+ Việc nhà;
+ Họ hàng;
+ Vật nuôi.
4.3.3. Cách cung cấp tri thức:
Học sinh ở đây, đặc biệt là học sinh yếu, khi giao tiếp các em thường nói

17

không đầy đủ câu, ví dụ: Em học lớp mấy? - Học sinh: lớp ba,….Vì vậy, giáo viên cần
phải tăng cường tiếng Việt cho học sinh để giúp các em hoàn thiện về câu và biết sử dụng
từ đúng.
Về từ loại: nhận ra và biết dùng các từ chỉ người, con vật, dồ vật, hoạt động, trạng
thái, đặc điểm để đặt câu; bước đầu có ý niệm và biết viết hoa tên riêng.
Về kiểu câu: nhận ra và biết đặt các kiểu câu đơn Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế nào?
Về dấu câu: có ý thức và bước đầu biết đặt câu dấu chấm, chấm hỏi, chấm than,
phẩy vào đúng chỗ.
Các tri thức nói trên được cung cấp qua các bài tập. GV chỉ cần nêu những tổng kết
ngắn như trong SGK, tránh giải thích dài dòng hoặc sa vào lí thuyết
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
Hướng dẫn các em đối với những từ khó hiểu phiên dịch ra tiếng mẹ đẻ, giúp các
em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu [tránh lạm dụng tiếng mẹ đẻ].
4.4. Tập làm văn:
Đối với học sinh đặc biệt là học sinh yếu, giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan
trong tiết học thật sinh động, hướng dẫn các em một cách cụ thể, chi tiết rõ ràng và tăng
cường tiếng Việt cho các em để các em có vốn từ khi làm văn.
Các loại bài Tập làm văn được bố trí xen kẽ trong từng tuần, góp phần tô đậm nội
dung chủ điểm học tập của từng tuần. Vì thế dạy Tập làm văn cần gắn với dạy các phân
môn Tiếng Việt khác trong tuần [đặc biệt là Tập đọc , Luyện từ và câu [LTVC ] nhằm
mục đích giúp HS nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức đã học ở các phân môn Tiếng
Việt khác ứng dụng vào phân môn Tập làm văn.
Ví dụ1:

18

Tuần 12: Bài Tập đọc: Điện thoại rất có tác dụng trong việc giúp HS học giờ Tập
làm văn: Gọi điện.
Ví dụ 2:
Tuần 16: LTVC: Bài:Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào? Mở rộng vốn từ: từ ngữ
về vật nuôi.
Qua giờ LTVC, HS quan sát tranh vẽ các con vật nuôi, nắm được một vốn từ phong
phú hơn về vật nuôi. Đó chính là những kiến thức cần thiết giúp các em học tốt giờ Tập
làm văn: Khen ngợi. Kể ngắn về con vật. Lập thời gian biểu.
Không chỉ kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác trong Tiếng Việt mà khi dạy Tập
làm văn người GV cần kết hợp chặt chẽ với các môn học khác như: Đạo đức, Tự nhiên xã
hội [ TNXH ]…
Vì thế nếu các em nắm vững được những kiến thức này thì khi học Tập làm văn các
em sẽ thấy rất nhẹ nhàng, quen thuộc và gần gũi.
Khi dạy các bài Tập làm văn về bốn mùa, kể về người, con vật [thú, chim… ], cây
cối GV có thể cho HS xem thêm tranh [ảnh ] hoặc băng hình về các chủ đề này nhằm
giúp HS nắm được rõ hơn về các hình ảnh của các sự vật. Từ đó làm cho bài văn của các
em thêm sống động, có hình ảnh.
Cung cấp thêm cho HS những đoạn văn hay về các chủ đề [bốn mùa, người, con vật,
cây cối… ] để HS học tập về bố cục đoạn văn, cách kể [cách tả ] sao cho sinh động, phù
hợp với đối tượng cần kể [tả ].
Ví dụ:
Ngay giữa sân trường, sừng sững một cây bàng. Mùa đông, cây vươn dài những cành
khẳng khiu, trụi lá. Xuân sang, cành trên cành dưới chi chít những lộc non mơn mởn. Hè

19

về, những tán lá xanh um che mát một khoảng sân trường.Thu đến, từng chùm quả chín
vàng trong kẽ lá.
Thông qua các câu đố cho HS học tập được cách kể [cách tả ] về bốn mùa, người,
con vật, cây cối.
Ví dụ:
Câu đố:

Đầu xanh mũ vua
Mình vàng áo giáp
Một trăm con mắt
Nhìn quanh bốn bề.

Câu đố trên nói về quả dứa. Cho HS nêu nhận xét: quả dứa có màu vàng, cuống
xanh có vài cái lá non chĩa ra như cái mũ của vua [vương miện ] nhờ câu: Đầu xanh mũ
vua; mình vàng áo giáp .Quanh vỏ có nhiều mắt [Một trăm con mắt nhìn quanh bốn bề ].
4.5. Tập viết:
Để hướng dẫn các em viết đúng, giáo viên nghiên cứu các nét cơ bản cấu tạo chữ,
nắm vững các vị trí các chỗ đặt bút và vị trí của điểm dừng bút, trong một chữ hoa
thường xuyên luyện tập để khi dạy tập viết được nhanh và thành thạo – yêu cầu học sinh
phải nắm vững kích cỡ của từng chữ hoa, viết được những chữ cái hoa cũng như chữ viết
thường nào có cùng độ cao.
Giờ tập viết học sinh luyện tập trên bảng con, giáo viên luôn quan tâm kiểm tra học
sinh đặc biệt là học sinh yếu viết đúng qui trình trên dòng kẻ của bảng con đã kẻ sẵn dành
cho học sinh luyện viết, chú ý điểm đặt bút và dừng bút của nét chữ đó đã đúng vị trí
chưa, nếu chưa đúng cho viết lại một lần nữa để tập viết đúng trên bảng con trước khi
thực hành vào vở. khi tập viết trong vỡ giáo viên luôn nhắc nhở học sinh chú ý điểm đặt

20

Tải về bản full

Video liên quan

Chủ Đề