Quê của hai bà trưng ở đâu
Khám phá Show
Nhị Vị Thánh Vương - Hai Bà Trưng (Kì 6): Quê hương, gia đình và những trang lý lịch đầu tiên (phần 2)
Trong tất cả các thư tịch cổ đều ghi rõ quê quán của Hai Bà Trưng là huyện Mê Linh. Nhưng đất Mê Linh xưa rất rộng lớn, vậy, sinh quán cụ thể của Hai Bà là vùng nào?
Hai Bà Trưng. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, hai bà nguyên là họ Lạc, con
gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, Phong Châu. Mẹ hai bà là bà Man Thiện, theo
truyền thuyết và thần tích bà là người làng Nam Nguyễn (Ba Vì, Hà Tây), có tên
là Trần Thị Đoan, chồng mất sớm. Bà có công dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng
Nhị giỏi võ, có tinh thần yêu nước, có chí lớn.
Cũng theo các truyền thuyết dân gian và khá nhiều tờ thần tích thì thân mẫu của Hai Bà Trưng là cháu chắt
nhiều đời bên ngoại của Hùng Vương.
Lúc bấy giờ, chế độ phụ quyền
và gia đình phụ hệ tuy đã được thiết lập và khẳng định một cách chắc
chắn từ khá lâu trước đó, nhưng ảnh hưởng của dòng họ ngoại
(nhất là dòng họ ngoại thuộc hàng giàu quyền thế và ảnh
hưởng xã hội rộng lớn như dòng Hùng Vương)
vẫn còn rất mạnh mẽ.
Nguồn gốc xuất thân đó đủ để thân mẫu của Hai Bà Trưng được dân đương thời bày tỏ sự kính trọng.
Và hơn thế nữa, điều đáng
nói là bà Man Thiện
đã nuôi dạy
hai người con gái của mình theo
những tiêu chí đánh
giá đại đạo làm người
rất đặc biệt.
Nhờ sự nuôi dạy của người mẹ khả kính ấy, những tố chất anh
hùng đã liên tục được nhen nhúm trong tình cảm cũng như nhận thức của Hai Bà Trưng : thiết
tha yêu nước và thương
nòi, sục sôi lòng căm thù giặc, bừng bừng tinh thần thượng võ và
ý thức nuôi chí cả để tập hợp bốn phương thiên hạ vùng dậy cứu nước và cứu dân . Các bộ chính sử của Trung Quốc cũng đã phải thừa nhận thực tế này. Hai Bà Trưng được thư tịch cổ
cua Trung Quốc mô tả là "rất hùng dũng", "can đảm và dũng lược".
Ở chừng mực nhất định nào đó, chúng
ta cũng có thể nói rằng chính
thân mẫu của Hai Bà Trưng là linh hồn đầu tiên của
quá trình chuẩn bị khởi nghĩa. Biệt danh Man Thiện
tuy rất giản dị nhưng cũng đủ để hàm chứa thái độ thực sự cảm phục và trân
trọng của hậu thế đối với Bà. Hiện chưa rõ Trưng Trắc và Trưng Nhị sinh vào năm nào, nhưng căn cứ vào những sự kiện lớn trong cuộc đời của Hai Bà, chúng ta
có thể ước đoán Hai Bà sinh vào khoảng cuối thời nhà Tân. Trước khi dựng cờ khởi nghĩa (năm 40), Trưng Trắc đã kết hôn. Chồng của Trưng Trắc tên là Thi Sách con trai của Lạc
Tướng huyện Chu Diên. Vào đầu thời Hậu Hán, địa giới của huyện Chu Diên là vùng ngày
nay đại để tương ứng với khu vực kéo dài từ huyện Đan Phượng của tỉnh Hà Tây về đến huyện Từ
Liêm của Hà Nội. Như vậy, đất đai của huyện Chu Diên tiếp giáp với đất đai của huyện Mê Linh. Đây là hai huyện lớn, nằm án ngữ
ngay ở khu vực trung tâm lại có dân cư đông đúc và kinh tế rất
phát đạt, do vậy, cuộc hôn nhân
của hai gia
đình Lạc Tướng
Chu Diên và Mê Linh
dẫn đến sự liên kết tự nhiên nhưng cũng rất chặt chẽ giữa hai huyện có
tiềm lực mạnh mẽ này đã khiến cho chính quyền đô hộ của nhà Hậu Hán đương thời dù đang hồi cường thịnh nhất vẫn luôn
cảm thấy thật sự lo sợ. Đây vừa là thuận lợi rất to lớn lại cũng vừa là khó khăn rất nặng nề
đối với Hai Bà Trưng trong sự nghiệp phát động nhân dân khắp cõi vùng lên khuấy
nước chọc trời. Thuận
lợi vì nhân dân (mà trước hết là nhân dân hai huyện Chu Diên và Mê Linh) sẵn sàng hưởng ứng và tham gia. Sưu tầm: Nguồn Nguyễn Khắc Thuần - Danh tướng Việt Nam 4
Biên Tập: Nguyễn Thy Nga
Trong tất cả các thư tịch cổ đều ghi rõ quê quán của Hai Bà Trưng là huyện Mê Linh. Nhưng đất Mê Linh xưa rất rộng lớn, vậy, sinh quán cụ thể của Hai Bà là vùng nào?
Hai Bà Trưng. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, hai bà nguyên là họ Lạc, con
gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, Phong Châu. Mẹ hai bà là bà Man Thiện, theo
truyền thuyết và thần tích bà là người làng Nam Nguyễn (Ba Vì, Hà Tây), có tên
là Trần Thị Đoan, chồng mất sớm. Bà có công dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng
Nhị giỏi võ, có tinh thần yêu nước, có chí lớn.
Cũng theo các truyền thuyết dân gian và khá nhiều tờ thần tích thì thân mẫu của Hai Bà Trưng là cháu chắt
nhiều đời bên ngoại của Hùng Vương.
Lúc bấy giờ, chế độ phụ quyền
và gia đình phụ hệ tuy đã được thiết lập và khẳng định một cách chắc
chắn từ khá lâu trước đó, nhưng ảnh hưởng của dòng họ ngoại
(nhất là dòng họ ngoại thuộc hàng giàu quyền thế và ảnh
hưởng xã hội rộng lớn như dòng Hùng Vương)
vẫn còn rất mạnh mẽ.
Nguồn gốc xuất thân đó đủ để thân mẫu của Hai Bà Trưng được dân đương thời bày tỏ sự kính trọng. Và hơn thế nữa, điều đáng nói là bà Man Thiện đã nuôi dạy hai người con gái của mình theo những tiêu chí đánh giá đại đạo làm người rất đặc biệt. Nhờ sự nuôi dạy của người mẹ khả kính ấy, những tố chất anh hùng đã liên tục được nhen nhúm trong tình cảm cũng như nhận thức của Hai Bà Trưng : thiết tha yêu nước và thương nòi, sục sôi lòng căm thù giặc, bừng bừng tinh thần thượng võ và ý thức nuôi chí cả để tập hợp bốn phương thiên hạ vùng dậy cứu nước và cứu dân . Các bộ chính sử của Trung Quốc cũng đã phải thừa nhận thực tế này. Hai Bà Trưng được thư tịch cổ cua Trung Quốc mô tả là "rất hùng dũng", "can đảm và dũng lược". Ở chừng mực nhất định nào đó, chúng ta cũng có thể nói rằng chính thân mẫu của Hai Bà Trưng là linh hồn đầu tiên của quá trình chuẩn bị khởi nghĩa. Biệt danh Man Thiện tuy rất giản dị nhưng cũng đủ để hàm chứa thái độ thực sự cảm phục và trân trọng của hậu thế đối với Bà. Hiện chưa rõ Trưng Trắc và Trưng Nhị sinh vào năm nào, nhưng căn cứ vào những sự kiện lớn trong cuộc đời của Hai Bà, chúng ta có thể ước đoán Hai Bà sinh vào khoảng cuối thời nhà Tân. Trước khi dựng cờ khởi nghĩa (năm 40), Trưng Trắc đã kết hôn. Chồng của Trưng Trắc tên là Thi Sách con trai của Lạc Tướng huyện Chu Diên. Vào đầu thời Hậu Hán, địa giới của huyện Chu Diên là vùng ngày nay đại để tương ứng với khu vực kéo dài từ huyện Đan Phượng của tỉnh Hà Tây về đến huyện Từ Liêm của Hà Nội.
Đây vừa là thuận lợi rất to lớn lại cũng vừa là khó khăn rất nặng nề
đối với Hai Bà Trưng trong sự nghiệp phát động nhân dân khắp cõi vùng lên khuấy
nước chọc trời. Thuận
lợi vì nhân dân (mà trước hết là nhân dân hai huyện Chu Diên và Mê Linh) sẵn sàng hưởng ứng và tham gia. Sưu tầm: Nguồn Nguyễn Khắc Thuần - Danh tướng Việt Nam 4 Biên Tập: Nguyễn Thy Nga
Trở về đầu trang Hạ Lôi Mê Linh Hà Tây Nam Nguyễn Suối Ngọc vua Bà
Các tin khác
|