Quản lý nhà nước theo ngành ở Việt Nam

Bài viết khái quát thực trạng phân cấp và đưa ra các giải pháp thực hiện phân cấp quản lý hành chính có hiệu lực, hiệu quả; phù hợp với bối cảnh đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước ở Việt Nam.

Quản lý nhà nước theo ngành ở Việt Nam
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng chủ trì Hội thảo về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, do Bộ Nội vụ tổ chức tháng 7/2019. Ảnh minh họa

Tính tất yếu của phân cấp quản lý hành chính

Nền hành chính nhà nước là một hệ thống chặt chẽ và thông suốt từ Trung ương tới địa phương. Mỗi cấp hành chính, mỗi cơ quan và cán bộ, công chức (CBCC) hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được trao để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, để tạo sự chủ động, linh hoạt, việc xác lập thứ bậc phải gắn liền với nguyên tắc phân cấp hành chính. Trong quản lý, thuật ngữ “phân cấp” dùng để chỉ sự phi tập trung hóa của bộ phận cấp cao nhằm phát huy dân chủ, sáng tạo của cơ sở, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Phân cấp quản lý là quá trình hợp lý hóa sự phân chia chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của các cấp quản lý. 

Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, phân cấp trong hành chính nhà nước là tất yếu khách quan bởi những lý do sau:

Thứ nhất, phân cấp tạo ra sự thích ứng với chính quá trình hành chính. Mỗi cấp độ quản lý có những yêu cầu khác nhau đối với quá trình hành chính, do vậy cần những điều kiện và môi trường phù hợp. Ví dụ: cơ quan hành chính cấp cao cần tập trung cho định hướng và lập quy, còn cấp cơ sở phải hiện thực hóa cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh. Trong quá trình hoàn thiện quản lý nhà nước, do ảnh hưởng của nhiều nhân tố tác động, các cơ quan quản lý nhà nước có thể được điều chỉnh lại theo hướng một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan cấp trên được chuyển giao cho các cơ quan cấp dưới và ngược lại. Xét về bản chất, đây là những nội dung cơ bản trong cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ công chức, viên chức. 

Thứ hai, phân cấp làm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước. Nhiệm vụ phân cấp thường phù hợp với năng lực, điều kiện của địa phương theo phương châm: “Việc nào địa phương làm tốt hơn, hiệu quả hơn thì phân cấp”. Phương châm này được phát triển trên nguyên lý cạnh tranh theo cơ chế thị trường nên trực tiếp tác động đến hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước. Phát huy những tiềm năng, lợi thế của địa phương trong thực hiện nhiệm vụ phân cấp sẽ giúp gia tăng hiệu quả quản lý.

Thứ ba, phân cấp làm tăng trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước đối với người dân. Một khi công việc liên quan đến quyền, nghĩa vụ công dân được phân cấp cho địa phương thực hiện, chính quyền phải giải quyết trực tiếp với người dân, nên CBCC không thể đùn đẩy, hay trông chờ dựa dẫm cấp trên, mà cần nỗ lực hơn và ít sách nhiễu hơn để có được sự tín nhiệm.

Thứ tư, phân cấp giúp mở rộng tính công khai trong hoạt động hành chính, gia tăng sự kiểm soát và giảm thiểu các tiêu cực. Những việc phân cấp cho địa phương đều thuộc nội dung công khai để người dân được bàn luận và đóng góp vào việc ra quyết định, chủ động tham gia thực hiện những công việc được phân cấp cho chính quyền.

Thứ năm, phân cấp làm giảm bớt áp lực công việc của cơ quan cấp trên, giúp cho Chính phủ phản ứng nhanh nhạy hơn trước những nhu cầu của người dân và thay đổi của xã hội. Đồng thời, còn làm giảm áp lực về tài chính đối với chính quyền trung ương khi chính quyền địa phương được trao quyền trực tiếp trong việc thu ngân sách thông qua các khoản phí, lệ phí đối với những dịch vụ do chính quyền địa phương cung cấp; huy động sự đóng góp của các cá nhân, tổ chức trên địa bàn vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Thực trạng phân cấp hành chính ở Việt Nam

Những kết quả đạt được

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 76 ngày 21/12/1945 quy định về quyền hạn, phân công cho các cơ quan chính quyền địa phương ở nông thôn và đô thị. Hiến pháp năm 1946 quy định rõ về nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan, công chức hành chính. Đến nay, hệ thống thể chế về phân cấp, phân quyền trong nền hành chính ngày càng được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện. 

Để phù hợp với yêu cầu phân cấp quản lý nhà nước trong mỗi thời kỳ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản, như: Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010; Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực... 

Như vậy, nhiều nội dung phân cấp đã được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành và các nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ; về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Qua đó đã tạo lập cơ sở pháp lý về phân cấp quản lý giữa các cơ quan Trung ương với chính quyền địa phương và được thực hiện một cách có hệ thống, thống nhất giữa các cấp, các ngành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Các địa phương được phân cấp đã xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên trong thực thi thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực ở địa phương. 

- Giai đoạn 2001-2010, Chính phủ đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong hệ thống hành chính, khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ và đạt được nhiều kết quả tích cực. Một số loại công việc trước đây do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết, nay được chuyển cho các bộ, ngành Trung ương và phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện. Đặc biệt, Chính phủ ban hành các nghị định về phân cấp cho thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm, đồng thời là mô hình thí điểm để tiếp tục mở rộng phân cấp cho các địa phương khác.

- Giai đoạn 2011-2020, bên cạnh việc rà soát để khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, các bộ, ngành đã có những đề xuất cụ thể với Chính phủ nhằm đẩy mạnh việc phân cấp. Chính phủ cũng tăng cường giải quyết các vấn đề có tính chiến lược, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các nhiệm vụ đã phân cấp cho địa phương. 

Nhằm tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế về tổ chức chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo quy định tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 về thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thực hiện từ ngày 01/7/2021. Theo đó, tại thành phố Hà Nội, các huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn là cấp chính quyền địa phương có HĐND và UBND; chính quyền địa phương ở 177 phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội là UBND phường. Tiếp đó, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 119/2020/QH14 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, trọng tâm là triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, các bộ, ngành và địa phương đã chủ động tổ chức thực hiện có hiệu quả đề án thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện sang cho doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đảm nhiệm. Theo số liệu thống kê, đến tháng 3/2020 có 36 địa phương(1) triển khai thí điểm việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính (TTHC) qua dịch vụ bưu chính công ích ở các mức độ khác nhau(2), từng bước góp phần cải tiến phương thức làm việc của cơ quan hành chính, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng giải quyết hồ sơ TTHC cho người dân, tổ chức. 

Từ năm 2004 đến nay, các bộ, ngành đã chuyển giao cho địa phương 163 loại công việc tập trung vào sáu (06) lĩnh vực: quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; quản lý ngân sách và tài sản nhà nước; quản lý đất đai, tài nguyên; quản lý doanh nghiệp; quản lý các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; quản lý tổ chức bộ máy và công chức, viên chức…

Một số hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện phân cấp quản lý hành chính vẫn còn những hạn chế. Đó là “Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ”(3). Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế...”(4). 

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do:     

Thứ nhất, việc phân cấp còn mang tính đại trà, không cụ thể cấp nào có thẩm quyền gì. Theo luật định, chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã cùng thực hiện nhiệm vụ gần giống nhau, chỉ khác về cấp độ và khu vực địa lý trong khi nguồn lực, năng lực khác nhau. Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện quy định thống nhất cho các địa phương không phân biệt quy mô dân số, diện tích, dẫn đến thiếu chủ động, linh hoạt trong hoạt động chuyên môn và yêu cầu quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương. Có tình trạng chính quyền địa phương không đủ năng lực song vẫn được phân cấp thực hiện, dẫn đến không kiểm soát được và để xảy ra không ít tiêu cực.

Việc cho phép cấp huyện ban hành quy hoạch và cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền sử dụng đất làm cho số lượng quy hoạch quá lớn, dẫn đến nhiều quy hoạch “treo”; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai quy định khá phổ biến. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa các địa phương còn hạn chế, chưa giải quyết hài hòa mối quan hệ phát triển vùng. Một số địa phương được xác định vai trò là hạt nhân, được ưu tiên hưởng các chính sách đặc thù nhằm tạo động lực phát triển cho vùng, nhưng chưa làm tốt vai trò của địa phương mình.

Thứ hai, việc phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương với chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương chưa hợp lý, thiếu nhất quán, chưa đáp ứng được xu thế phát triển, chưa xác định được việc gì giao cho cấp nào thực hiện thì hiệu quả hơn. Một số nội dung tuy đã phân cấp cho cấp dưới, nhưng sau một thời gian ngắn thực hiện lại có sự thay đổi. Ví dụ, trong lĩnh vực đầu tư công, xây dựng hoặc việc đăng ký quyền sử dụng đất (giao cho các Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện nhưng sau đó lại chuyển lên cấp tỉnh).

Nhiều luật chuyên ngành chưa thể hiện rõ chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; một số luật trong lĩnh vực kinh tế thậm chí còn có xu hướng tập trung nhiều quyền hơn cho các cơ quan ở Trung ương. Điều này gây nên những hạn chế nhất định, làm cho việc đổi mới bộ máy nhà nước chưa thực sự đồng bộ với cải cách thể chế kinh tế. Về phân định thẩm quyền tổ chức bộ máy và nhân sự, mô hình tổ chức chính quyền địa phương cả ba cấp tỉnh, huyện, xã, giữa chính quyền đô thị và nông thôn chưa có sự phân biệt rõ. Trong quản lý CBCC, pháp luật quy định về quyền tự chủ của chính quyền địa phương các cấp còn hạn chế.

Thứ ba, chính quyền địa phương được phân cấp, phân quyền nhiều hơn, nhưng chủ yếu vẫn theo chế độ hành chính cấp trên - cấp dưới. Điều này dẫn đến tình trạng cấp trên sẽ “ôm việc” và có xu hướng không muốn phân cấp, phân quyền cho cấp dưới. Hoặc có tình trạng cấp dưới đẩy việc cho cấp trên, dẫn đến không giải quyết kịp thời các yêu cầu của người dân, doanh nghiệp. Trên thực tế, phân cấp vẫn thực hiện một chiều “từ trên xuống”, chưa tạo sự chủ động cần thiết cho chính quyền địa phương, đồng thời làm cho Trung ương quá tải, khó kiểm soát, dễ xảy ra tiêu cực. Đặc biệt, các lĩnh vực quản lý ngân sách, đầu tư phát triển, huy động nguồn tài chính cho đầu tư phát triển, quản lý quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, hạ tầng đô thị, tổ chức bộ máy, biên chế... chủ yếu do cấp trên quyết định mà thiếu sự tham gia của bên thụ hưởng, nên nhiều trường hợp không đáp ứng đúng nhu cầu của địa phương.

Thứ tư, tình trạng phân cấp nhưng không kèm theo điều kiện bảo đảm khiến cho chính quyền địa phương gặp khó khăn trong việc chỉ đạo, điều hành. Cụ thể, Nghị quyết số 21/NQ-CP vẫn gặp nhiều vướng mắc, khó khăn do quyền phân bổ nguồn thu, nhiệm vụ chi tập trung ở cấp tỉnh mà không quy định cụ thể về việc phân cấp cho cấp huyện, xã nên có tình trạng nguồn lực tập trung ở cấp tỉnh, không tạo được sự chủ động về ngân sách của chính quyền cấp dưới để thực thi các nhiệm vụ được giao. 

Tình trạng phân cấp trong việc chi ngân sách chưa gắn liền với việc cung cấp dịch vụ công ở địa phương, chủ yếu vẫn được phân bổ dựa trên hệ thống tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách theo yếu tố đầu vào (dân số, biên chế…) mà chưa tính đến hiệu quả đầu ra của nhiệm vụ chi, hiệu quả phân bổ chưa cao, gây thất thoát, lãng phí... Có những vấn đề mang tính cụ thể của địa phương lại chưa được giải quyết triệt để vì không thuộc kế hoạch đã được phê duyệt, do vậy không có kinh phí thực hiện. Trong nhiều trường hợp, có bất cập có thể giải quyết ngay tại cấp xã hoặc cấp huyện, nhưng do các cấp chính quyền này thiếu nguồn lực, hoặc nguồn lực do cấp trên quyết định, dẫn đến sự chậm trễ, kéo dài.

Thứ năm, phân cấp hành chính nhà nước còn thiếu sự liên thông, kiểm soát và trách nhiệm giải trình. Luật Tổ chức Chính phủ chưa quy định về điều kiện, phạm vi của việc ủy quyền từ Chính phủ đến Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Bộ trưởng tới các đơn vị trực thuộc; Bộ trưởng đến chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh. Bên cạnh đó, việc phân cấp giữa Chính phủ với các bộ, ngành và chính quyền địa phương ở một số lĩnh vực chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực, dẫn đến thể chế quản lý nhà nước bị phân tán, khả năng thực thi chính sách từ Trung ương tới các địa phương kém hiệu quả.

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phân cấp hành chính nhà nước 

Tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương về tình hình kinh tế - xã hội sáu tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ sáu tháng cuối năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Phải phân cấp, phân quyền mạnh hơn, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân rõ ràng hơn, phải căn cứ thực tiễn tình hình địa phương để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện mục tiêu kép linh hoạt, sáng tạo, đúng hướng, hiệu quả; chống dịch tốt thì mới phát triển kinh tế - xã hội tốt”(5). Vì vậy, để khắc phục những hạn chế và thực hiện thắng lợi các mục tiêu phân cấp quản lý hành chính trong tình hình mới, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng để CBCC đổi mới tư duy về phân cấp trong bối cảnh quản trị nhà nước, từ đó giảm thiểu tâm lý ỷ lại, đùn đẩy trách nhiệm của một số cơ quan, đơn vị và một bộ phận CBCC... từ đó tự giác nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có ý thức trách nhiệm đối với người dân, doanh nghiệp khi tiếp nhận công việc phân cấp quản lý. Đưa nội dung thực hiện phân cấp vào kế hoạch hoạt động hàng năm của mỗi cơ quan, đơn vị nhằm đảm bảo công khai, minh bạch và hiệu quả. 

Hai là, xây dựng hệ thống thể chế về tổ chức bộ máy hành chính phù hợp với điều kiện thực tiễn ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương; xác định phạm vi, trách nhiệm rõ ràng của chính quyền các cấp trong phân cấp. Cần giao cho chính quyền địa phương quản lý những lĩnh vực như: ngân sách, kế hoạch, quy hoạch, đầu tư, đất đai, khoáng sản, các hoạt động sự nghiệp công... Trong những trường hợp cần thiết, Trung ương có thể ủy quyền cho chính quyền địa phương, kèm theo các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó. Chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm thực hiện và hoàn thành những nhiệm vụ mà cấp trên giao cho. 

Việc thực hiện phân cấp là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác cải cách hành chính. Vì vậy, mỗi cơ quan, đơn vị cần có một đơn vị làm đầu mối để triển khai thực hiện nhiệm vụ được phân cấp và tham mưu cho lãnh đạo cơ quan phân cấp một số nhiệm vụ cho các đơn vị thuộc và trực thuộc theo quy định. Định kỳ cần rà soát nhiệm vụ được phân cấp và những nhiệm vụ phân cấp cho cấp dưới để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, thay thế đúng theo chỉ đạo của Trung ương và phù hợp với tình hình mới.

Ba là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CBCC; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công vụ và cung ứng dịch vụ công để các địa phương sẵn sàng tiếp nhận và hoàn thành những nhiệm vụ được phân cấp. Chính quyền cấp trên cần có sự chỉ đạo quyết liệt; tạo điều kiện, giải quyết những vấn đề vướng mắc cho chính quyền cấp dưới đối với việc thực hiện những nhiệm vụ được phân cấp để hoàn thành mục tiêu đề ra.

Bốn là, có kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ và hàng năm đối với các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện phân cấp nhằm kịp thời phát hiện hạn chế để kiến nghị điều chỉnh, bổ sung các nội dung phân cấp đảm bảo hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Cần có chế tài đủ mạnh đối với việc tuân thủ kỷ luật, kỷ cương và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nội dung phân cấp của các cấp để giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh từ thực tiễn./.

--------------------------

Ghi chú:

(1) Các tỉnh gồm: Đồng Tháp, Kiên Giang, Vĩnh Long, An Giang, Hậu Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Lào Cai, Hà Tĩnh, Hưng Yên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hải Dương, Tây Ninh, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ, Sơn La, Thái Nguyên.

(2) 1) Kết hợp đặt trụ sở Bộ phận một cửa các cấp tại trụ sở của Bưu điện (đã triển khai tại 14 Trung tâm Hành chính công, 28 Bộ phận một cửa cấp huyện, 48 Bộ phận một cửa cấp xã); 2) Bố trí nhân viên bưu điện hỗ trợ công chức, viên chức tại Bộ phận một cửa các cấp trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả (tại 16 Trung tâm Hành chính công, 36 Bộ phận một cửa cấp huyện, 38 Bộ phận một cửa cấp xã); 3) Hỗ trợ, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ công trực tuyến.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.88-89.

(5) Phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương về tình hình kinh tế - xã hội sáu tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ sáu tháng cuối năm 2021, ngày 02/7/2021.

PGS.TS Nguyễn Hữu Hải, Học viện Hành chính Quốc gia

TS Trịnh Thị Thủy, Học viện Hành chính Quốc gia

tcnn.vn