Quá trình oxi hóa là quá trình nhường electron năm 2024
- Phản ứng oxi hóa - khử là phản ứng hóa học, trong đó có sự thay đội số oxi hóa của một số nguyên tố. Trong phản ứng oxi hóa - khử, sự oxi hóa - sự khử bao giờ cũng diễn ra đồng thời trong một phản ứng. Và luôn có chất oxi hóa - chất khử tham gia. Chú ý: Nhận biết chất khử - chất oxi hóa: Chất khử là chất có số oxi hóa tăng sau phản ứng. Chất oxi là chất có số oxi hóa giảm. II) Lập phương trình hóa học của phản ứng oxi hóa - khửCân bằng phương trình: theo phương pháp thăng bằng electron. Nguyên tắc: Tổng số electron do chất khử nhường phải đúng bằng tổng số electron mà chất oxi hóa nhận. Bước 1: Xác định số oxi hóa của các nguyên tố trong phản ứng để tìm chất oxi hóa và chất khử. Các đơn chất thì số oxi là 0. Trong hợp chất tổng số oxi hóa của hợp chất là 0. Trong hợp chất: Số oxi hóa của H là +1 (trừ các chất NaH, CaH2... H có số oxi hóa là -1); số oxi hóa của O là -2 (trừ các hợp chất peoxit H2O2, Na2O2... O có số oxi hóa là -1). Bước 2: Viết quá trình oxi hóa và quá trình khử, cân bằng mỗi phương trình. Bước 3: Tìm hệ số thích hợp cho chất oxi hóa và chất khử sao cho tổng số electron do chất khử nhường bằng tổng số electron mà chất oxi hóa nhận. Bước 4: Đặt các hệ số của chất oxi hóa và chất khử vào sơ đồ phản ứng, từ đó tính ra hệ số của các chất khác có mặt trong phương trình hóa học. Kiểm tra sự cân bằng số nguyên tử các nguyên tố ở hai vế. III) Ý nghĩa của phản ứng oxi hóa - khử trong thực tiễnPhản ứng oxi hóa khử là loại phản ứng hóa học phổ biến trong tự nhiên. Phần lớn năng lượng đang sử dụng là năng lượng của phản ứng oxi hóa - khử: sự cháy xăng dầu trong động cơ đốt trong; các phản ứng trong pin, ăc quy... Phản ứng oxid hóa khử hay còn được gọi là oxid hóa hoàn nguyên trong hóa học hữu cơ (không nên viết là oxi hóa vì khiến người đọc nhầm lẫn với các quá trình khác mà dùng đến oxygen phân tử) là một loại phản ứng hóa học có sự thay đổi trạng thái oxid hóa hay số oxid hóa của tác chất. Sự oxid hóa là sự nhường, cho, mất đi điện tử (electron) hay sự tăng số oxid hoá. Ngược lại, sự khử là sự nhận điện tử hay giảm số oxid hóa. Phản ứng oxid hóa khử được chia thành hai nhóm chính:
Số oxid hóa hay trạng thái oxid hóa (oxidation state) đặc trưng cho điện tích hình thức của một phân tử trong một nguyên tử (hay một ion). Chất oxid hóa lấy đi điện tử từ một chất khác, khi đó bản thân nó bị khử. Vì có khả năng nhận điện tử, chất oxid hóa còn được gọi là chất nhận điện tử (electron acceptor). Chất oxid hóa mạnh thường là các hợp chất có các nguyên tố ở trạng thái oxid hóa cao nhất, ví dụ như MnO− 4, CrO3, Cr 2O2− 7, OsO4, HNO3, CuO, ... hoặc là các nguyên tố có độ âm điện cao như O2, F2, Cl2, Br2, ... có khả năng nhận điện tử bằng cách oxid hóa chất khác. Ban đầu, sự oxid hóa được gắn cho các phản ứng có sự hiện diện của oxygen tạo thành một oxid. Sau này, thuật ngữ đó được mở rộng, bao hàm cả các hợp chất thực hiện phản ứng hóa học tương tự với oxygen. Hiện nay, thuật ngữ được dùng chung cho các phản ứng mà có sự nhường điện tử hay tăng số oxid hóa của các tiểu phân. Một chất có khả năng oxid hóa một chất khác (làm cho chúng mất đi điện tử) thì được cho là có tính oxid hóa và được gọi là chất oxid hóa, hay tác nhân oxid hóa. Những chất có khả năng khử chất khác (cho chúng điện tử) được cho là có tính khử và được gọi là chất khử, hay tác nhân khử, tác nhân hoàn nguyên. Chất khử nhường điện tử cho một chất khác, do đó bản thân nó bị oxid hóa. Vì có khả năng nhường điện tử, chất khử còn được gọi là chất nhường điện tử (electron donor). Chất khử trong hóa học rất đa dạng. Các nguyên tố kim loại đó độ âm điện dương như lithium, sodium, magnesium, sắt, kẽm, nhôm, là các chất khử tốt. Những kim loại đó nhường điện tử tương đối dễ dàng. Trong hóa học hữu cơ, các tác nhân cho hydride như NaBH4, LiAlH4, khử bằng sự chuyển dời phân tử, chúng chuyển dời một anion hydride H-. Các tác nhân đó được dùng nhiều trong các phản ứng hoàn nguyên hợp chất carbonyl thành alcohol. Một phản ứng liên quan khác là sự hoàn nguyên bằng khí hydrogen có xúc tác, trong đó có sự chuyển dời các phân tử hydrogen. Thuật ngữ "sự khử" ban đầu được gắn cho sự giảm khối lượng khi nung nóng quặng kim loại chứa các oxid kim loại để thu được kim loại. Nói cách khác, quặng "bị khử" thành kim loại. Antoine Lavoisier đã cho thấy sự giảm đi của khối lượng là do sự mất đi oxygen phân tử dưới dạng khí. Sau đó, các nhà khoa học nhận ra rằng phân tử kim loại đã nhận điện tử trong quá trình đó. Sau này, sự khử được mở rộng và bao hàm chung cho các quá trình có sự nhận điện tử. |