Ngũ hành sơn là gì

Tên khác: Người dân địa phương còn gọi cụm núi này với những cái tên như: hòn Non Nước, Ngũ Uẩn Sơn [núi năm chòm], Phổ Đà Sơn, Bạch Hoa Ngũ Chỉ Sơn [năm ngón tay - vì đứng trên nhìn xuống nó giống như một bàn tay khổng lồ có 05 ngón cắm xuống đất].

Trong đó, cái tên hòn Non Nước là phổ biến và lâu đời hơn cả. Cả dao xứ Quảng có câu:

“Chiều chiều mây phủ Sơn Trà,

Sấm rền Non Nước trời đà chuyển mưa”

Trong các thư tịch cổ, địa danh núi Non Nước đã xuất hiện hơn 5 thế kỷ.

Trong Giáp Ngọ bình Nam đồ do Đoan quốc công Nguyễn Hoàng lập năm 1594, sau khi được vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa, vẽ đường đi từ Chiêm Thành đến biên giới Chân Lạp có ghi địa danh “Non Nước Sơn”.

Cũng như trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá Công Đạo, tự Đạo Phủ, quê Nghệ An, soạn vào năm Bính Dần [1686], vẽ đường đi từ Thăng Long đến Chiêm Thành đều có ghi “Non Nước Sơn tam đỉnh” bằng chữ Nôm.

Người Tây phương trong những chuyến vượt biển sang vào năm 1749 đã gọi nhóm núi này là “Montagne des Singes” tức núi Khỉ [vì trước kia có nhiều khỉ ở]. Vào năm 1845 họ gọi đây là “Rochers de Faifo” [Núi Faifo] và sau cùng có tên gọi “Motagne de Tourane” [Núi Đà Nẵng] hoặc “Montagne de Narbe” [Núi Cẩm Thạch].

Ngoài ra, từng ngọn núi trong cụm núi Ngũ Hành Sơn cũng có những cái tên dân dã rất riêng như ngọn Thủy Sơn ở hướng Đông Bắc được gọi là núi Chùa hoặc núi Tam Thai; ngọn Mộc Sơn ở hướng Đông được gọi là núi Mồng Gà; ngọn Thổ Sơn ở hướng Tây Bắc được gọi là núi Đá Chồng; ngọn Kim Sơn ở hướng Tây được gọi là núi Đùng và ngọn Hỏa Sơn ở hướng Tây Nam được gọi là núi Ông Chài.

Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí [1806] đã viết về Ngũ Hành Sơn như sau: “Phía đông bến đò xã Hoàn Ký Đông có núi Ngũ Hành Sơn, năm tòa núi chia làm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi là núi Non Nước”[1]

Sách Đại Nam dư địa chí ước biên đã viết:

  • Ngũ Hành Sơn ở huyện Diên Phước...Tục gọi là hòn Non Nước. Năm Minh Mạng thứ 18 [1837] có sắc chỉ, ban cho ngọn núi phía đông bắc [núi Tam Thai] là Thủy Sơn. Ba ngọn núi phía tây nam là núi Mộc Sơn, núi Dương Hỏa, núi Âm Hỏa. Hai ngọn phía tây là Thổ Sơn, Kim Sơn, [cho] khắc tên núi                   lên đá...”[2].

Mô tả về cụm núi này Đại Nam nhất thống chí đã viết:

 “Ngũ Hành Sơn ở địa phận 2 xã Hóa Khuê và Quán Khái, phía Đông Bắc huyện Diên Phước. Ở trong động cát đội khởi 6 hòn núi đá, sông dài quanh ở phía Tây, biển cả bao bọc ở phía Đông, hình thành núi nhọn cao, lúc trời tạnh ở xa trông có màu sắc như bức vân cẩm thạch thật đáng yêu, tục gọi là hòn Non Nước. Một núi ở phía Đông Bắc hình như sao Tam Thai, xưa gọi là núi Tam Thai, có tên nữa gọi là núi ngũ chỉ [năm ngón tay]”[3].

Trong tác phẩm “Ngũ Hành Sơn lục” do Tú tài Hồ Thăng Doanh biên soạn dưới sự chứng nghĩa của Hòa thượng Tăng Can Thích Từ Trí vào năm Bính Thìn 1916, đã có giới thiệu Ngũ Hành Sơn như sau:

“Ngũ Hành Sơn là danh thắng thứ nhất của phương Nam, đương thời thuộc địa phận xã Hóa Khuê Đông, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Núi non trùng điệp, thế như bàn tay dựng ngửa lên trời, xưa là đất của Chiêm Thành, nay vẫn còn dấu tích…”

Ngoài ra, danh thắng, Ngũ Hành Sơn là cũng đã được đề cập, phản ánh trong nhiều tập du ký, hồi ký, tranh vẽ... của những người nước ngoài từng du hành đến đây vào các thế kỷ XVII - XIX, như: Bá tước Macartney, John Barrow, William Alexander, Thomas Bowyear, James Bean, Piere Loti, Thuyền trưởng Rey, Jean-Baptiste Chaigneau... Trong số đó, đáng chú ý là hai tác phẩm: Hải ngoại ký sự của Thiền sư Thích Đại Sán và Les Montagnes des Marbre [Ngũ Hành Sơn] của bác sĩ Albert Sallet.

Hải Ngoại ký sự được Thích Đại Sán biên soạn trong thời gian lưu lại Đàng Trong vào năm 1695, tác phẩm gồm có 6 quyển, trong đó quyển IV có miêu tả cảnh quan danh thắng Ngũ Hành Sơn đương thời, về những ngôi chùa tàng ẩn trong núi và sinh hoạt của tăng chúng trong chùa.

Trong thiên khảo cứu Les Montagnes des Marbre được in trong tập san Những người bạn cố đô Huế [B.A.V.H, số 1, năm 1924], Albert Sallet đã  miêu tả ngắn gọn nhưng đầy đủ về vị trí, lai lịch, cảnh quan của 6 hòn núi: Kim Sơn, Thổ Sơn, Âm Hỏa Sơn, Dương Hỏa Sơn, Mộc Sơn và Thủy Sơn theo một lộ trình đặc biệt, tiếp cận bằng đường thủy, theo sông Trường Giang nối liền Đà Nẵng với Hội An chảy vào mạn tây của Kim Sơn, từ đó thâm nhập quần thể núi non này.

Albert Sallet tôn Thủy Sơn là núi Thánh và nhận xét: “So với các núi khác thì núi này là của nhà nước, cho nên chùa miếu, hang động và thờ cúng đều được đúc kết lại trong cái tên dân gian duy nhất là “chùa Non Nước”[4],  “Thủy Sơn xưa kia là địa điểm hành hương của vua chúa, của dân chúng mộ đạo, là địa điểm của các lời thề thốt hơn thua long trọng, cũng như của các lời cầu xin cho gia đình giàu có vinh hạnh”[5].

[1] Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, bản dịch của Phan Đăng, Nhà xuất bản. Thuận Hóa, 2005, tr. 227

[2] Cao Xuân Dục, Đại Nam dư địa chí ước biên. TS. Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Nxb Văn học, 2003, tr. 95

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn [1964], Đại Nam nhất thống chí, quyển 5, phần tỉnh Quảng Nam, Nha văn hóa -Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn. Hoặc tập 7, Nxb Giáo dục, 2006.

[4] Albert Sallet, “Les Montagnes des Marbre”, B.A.V.H., No.1/1924, in trong: Những người bạn của cố đô Huế, Tập XI, 1924 [Phan Xưng dịch], Nxb Thuận Hóa, 2002, tr. 81,

[5] Albert Sallet, “Les Montagnes des Marbre”, B.A.V.H., No.1/1924, in trong: Những người bạn của cố đô Huế, Tập XI, 1924 [Phan Xưng dịch], Nxb Thuận Hóa, 2002, tr. 81,

Chủ Đề