Nghĩa của từ mẹ là người phụ nữ, có con, nói trong quan hệ với con vì sao

Dì ghẻ hay kế mẫu

Nghĩa của từ mẹ là người phụ nữ, có con, nói trong quan hệ với con vì sao

>>> Bản tin số 257

>>> Dì ghẻ hay kế mẫu (pdf)

Dì ghẻ, có lẽ có một xuất phát điểm về nguồn gốc là từ “dì”. Trong tiếng Việt, dì dùng để chỉ em gái (hoặc có nơi là chị gái) của mẹ. Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì (tục ngữ). Dì gần với mẹ và nhiều khi chẳng khác gì mẹ. Vì vậy, khi ai đó, do không may vợ mất, hay do hoàn cảnh phải chia tay vợ cũ để lấy vợ mới, các con của bố (với người vợ trước) thường gọi vợ mới của bố là “dì” (có lẽ là vì ít tuổi hơn mẹ). Khi người cha lấy một phụ nữ khác làm vợ hai (hay vợ lẽ) thì sự tình trở nên khó xử. Từ đây, câu chuyện “con anh con tôi” bắt đầu có chiều hướng phức tạp. Cũng bởi, do những xung khắc về tình cảm, về lợi ích bị chia sẻ mà mối quan hệ giữa vợ mới với con chồng ít khi “xuôi chèo mát mái”, thậm chí xung đột nặng nề. Dân gian đã có khá nhiều câu nói phản ánh điều này: Em ơi cởi áo giả dì/ Đến mai anh dẫn em đi ăn mày; Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng (ca dao). Thế là người dì kia tự nhiên lại có thêm một định ngữ mới (ghẻ, thành dì ghẻ) chẳng hay ho gì. Chính những điều không hay của cuộc sống đã dẫn đến ngữ nghĩa không hay của tổ hợp từ mới này.

Không rõ từ “dì ghẻ” có mặt trong kho từ vựng tiếng Việt từ khi nào. Nhưng tra Từ điển Việt - Bồ - La của A. de Rhodes (1651) thì lúc đó tiếng Việt mới có duy nhất một từ “dì” đơn độc. Xuất hiện sớm muộn thế nào thì ta cần có thêm tư liệu, nhưng điều chắc chắn là, nghĩa của chữ “ghẻ” (tức ghẻ lạnh) làm cho nhân vật vốn dĩ có một từ Hán Việt đồng nghĩa là “kế mẫu” (và một từ đồng nghĩa nửa Hán nửa Việt khác là “mẹ kế”) trở nên rất thiếu thiện cảm trước mắt mọi người. Truyện Tấm Cám nổi tiếng năm xưa chính là một minh chứng rõ rệt nhất về sự xấu xa, tồi tệ của mụ dì ghẻ ác nghiệt. Để cho hả cơn giận, người kể chuyện đã bắt mụ phải ăn chĩnh mắm làm từ xác của con gái mình để rồi uất lên lăn đùng ra chết. Sự ác cảm của người đời lại có cơ hội nhân lên từ chuyện đó.

Nhưng thực tế, không phải ai là “mẹ kế” cũng đều xấu, cũng có cách ứng xử của “dì ghẻ” trong tâm tưởng dân gian. Nhất là bây giờ, cuộc sống có nhiều thay đổi, không thiếu những bà vợ mới của chồng lãnh trách nhiệm nuôi dưỡng đàn con, thương yêu chúng hết mực. Nhiều người đã trở thành ‘cứu tinh” cho lũ trẻ. Họ đã trở thành “kế mẫu” theo đúng nghĩa của từ này.

Vậy mà đây đó, trên báo chí, có nhiều bài viết “vô tâm vô tình” đã cố ý dẫn từ “dì ghẻ” trong những trường hợp không đáng dẫn. Ví dụ: Cháu A sống rất tốt với dì ghẻ của mình; Khi dì ghẻ đi vắng, mấy chị em lại cùng nhau gánh vác việc nhà; Mặc dù là dì ghẻ, nhưng cô rất thương yêu lũ trẻ,... Họ không biết rằng, viết như vậy là xúc phạm tới nhiều người, chứ không riêng gì “đương sự” mà được gán cho từ “dì ghẻ”. Khi đọc lên, ta cứ thấy một điều gì không ổn, gợn gợn trong lòng. Chính người viết đã vô tình “khoét sâu” nghĩa tiêu cực của từ này.

Trong một lần hội giảng, cô giáo dạy văn của một trường trung học cơ sở nọ đã quyết định không giảng bài “Tấm Cám” như dự định (mà chuyển giáo án sang bài khác). Vì cô biết trong số những người ngồi dưới nghe hôm đó, có cô trưởng phòng giáo dục. Cô trưởng phòng này đã vào vai mẹ kế khi kết duyên với một đàn ông vợ mất sớm. Cô vốn là một giáo viên dạy giỏi và là một phụ nữ đảm đang. Chính cô đã thay chồng dạy dỗ cậu con trai tật nguyền của vợ trước nên người. Cô giáo trẻ không muốn “bài tủ” Tấm Cám của mình chạm vào nỗi đau đồng nghiệp. Đó là một cách ứng xử rất người, rất nhân văn. Dù thực tế, nếu cô cứ thản nhiên dạy bài học kia thì cũng chẳng ai trách cứ điều gì.

Từ ngữ phản ánh hiện thực cuộc sống một cách khách quan. Nhưng việc chọn lựa từ ngữ trong ứng xử, nói năng lại là một việc mà ta phải cân nhắc. Điều này không chỉ là kĩ năng thuần túy mà là một vấn đề mang tính văn hóa. Nói trước công chúng, viết cho công chúng xem, chính là một cách ứng xử văn hóa mà người cầm bút không thể bỏ qua.


Mẹ thông thường được dùng để chỉ người phụ nữ mang thai, sinh ra và nuôi lớn đứa trẻ. Tuy nhiên, vì sự phức tạp và các khác biệt trong các định nghĩa và vai trò của người mẹ về mặt văn hóa, xã hội và tôn giáo nên rất khó có thể có một định nghĩa chung về mẹ được chấp nhận rộng khắp. Tương đương về phía nam giới là người cha.

Nghĩa của từ mẹ là người phụ nữ, có con, nói trong quan hệ với con vì sao

Tranh vẽ quảng cáo về mẹ và con khoảng năm 1900

Nghĩa của từ mẹ là người phụ nữ, có con, nói trong quan hệ với con vì sao

Tranh vẽ Charity (Từ thiện) của William-Adolphe Bouguereau, năm 1878

Mẹ còn có các cách gọi khác theo từng địa phương như là: má, mế, u, bầm, bu, đẻ, ví, cái, mẫu, vú, v.v. Chẳng hạn như trong các câu thơ sau:

Nàng về nuôi cái cùng con Để anh đi trảy nước non Cao Bằng. (Ca dao) Bầm ơi có rét không bầm! Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn. Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non. (Tố Hữu)

 

Monumento a la Madre ở thành phố Mexico. Dòng chữ đề trên tượng đài có thể dịch như sau: Tặng người yêu thương chúng ta trước khi gặp chúng ta.

 

Mẹ và con gái trong trang phục truyền thống vùng Bregenz, Áo

Hiện tại, với các tiến bộ trong công nghệ sinh sản, chức năng làm mẹ sinh học có thể được chia ra giữa mẹ di truyền (người phụ nữ cung cấp trứng) và mẹ mang thai (người phụ nữ có thai, nói chung được biết đến như là mang thai hộ), cũng như mẹ xã hội (người nuôi dưỡng đứa trẻ). Mối liên hệ lành mạnh giữa người mẹ và đứa con tạo ra một nền tảng an toàn để sau này đứa trẻ có thể tự tin bước chân vào đời.

Mẹ đẻ

Mẹ sinh học

Trong trường hợp của con người, trước khi có sự mang thai hộ thì mẹ đẻ đồng nhất với mẹ sinh học. Mẹ sinh học là một phụ nữ mang thai (hay mang bầu) mang quả trứng đã được thụ tinh của chính mình (có thể thông qua giao hợp hay thụ tinh trong ống nghiệm). Bào thai phát triển từ trứng đã thụ tinh có thể sống được (tức là 'phôi thai'). Quá trình thai nghén diễn ra trong dạ con của người phụ nữ từ khi thụ thai cho tới khi bào thai (giả định rằng bào thai được phát triển cho tới kỳ ở cữ) phát triển đầy đủ để được sinh ra. Người phụ nữ trải qua cơn đau đẻ và sinh ra đứa trẻ. Thông thường chỉ một đứa trẻ được sinh ra trong mỗi ca đẻ. Sau đó người mẹ tiết sữa để nuôi con. Sữa mẹ là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết nhất để nuôi đứa trẻ trong khoảng thời gian khoảng một năm (hoặc hơn thế). Bên cạnh đó, sữa non (loại sữa tiết ra nhiều nhất trong vòng 3 ngày đầu sau khi sinh con) cũng là nguồn cung cấp các kháng thể cho hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh.

Mẹ mang thai hộ

Mẹ mang thai hộ là khái niệm mới xuất hiện gần đây ở phương Tây. Mẹ mang thai hộ nói chung là người phụ nữ mang một phôi thai từ trứng đã được thụ tinh của người phụ nữ khác (thường là của các cặp vợ chồng không thể sinh con vì nhiều lý do khác nhau) cho tới khi sinh ra đứa trẻ. Vì thế mẹ mang thai hộ mang và sinh ra đứa trẻ mà về mặt sinh học thì bà không phải là mẹ của đứa trẻ ấy. Lưu ý rằng trường hợp này là không đồng nhất với trường hợp người phụ nữ mang thai thông qua thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro).

Mẹ dưỡng

Từ mẹ cũng được dùng để chỉ người phụ nữ không phải là mẹ về mặt sinh học (người mẹ cung cấp gen di truyền) hay người mẹ sinh ra trong trường hợp mang thai hộ, đặc biệt nếu như người phụ nữ ấy thực hiện vai trò xã hội chính trong việc nuôi dạy đứa trẻ kể từ sau khi đứa trẻ được sinh ra. Thường thì đó là mẹ nuôi (tức người nuôi dưỡng đứa trẻ, mặc dù định nghĩa mẹ nuôi về mặt luật pháp không nhất thiết phải là người nuôi dưỡng chính đối với đứa trẻ ấy) hoặc mẹ kế (còn gọi là mẹ ghẻ hay dì ghẻ, tức là người vợ của cha đứa trẻ nhưng không liên quan về mặt sinh học với đứa trẻ).

 

Mẹ có công lớn nhất là nuôi dưỡng và giáo dục đối với đứa con mình sinh ra. Quá trình nuôi dưỡng bắt đầu sau khi mang thai và sau khi sinh cho đến khi trưởng thành. Chính vì đặc điểm đó mà người mẹ có vai trò đặc biệt với mỗi chúng ta.

Vai trò xã hội

Vai trò tôn giáo

Là tình cảm thiêng liêng của người mẹ và người con, thể hiện sự gắn bó, quan tâm, chăm sóc, dưỡng dục...

 

Có rất nhiều câu thơ, câu ca về tình mẹ.

Mẹ già như chuối ba hương Như xôi nếp mật, như đường mía lau (Ca dao) Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu Mới là đạo con Ai ơi hãy nhớ ơn này... (ca dao) Con dù lớn vẫn là con của mẹ, Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con (Chế Lan Viên) Ta mê mãi trên bàn chân rong ruổi Mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng (Đỗ Trung Quân)

Âm nhạc

  • Bà mẹ Ô Lý (Trịnh Công Sơn)
  • Bài hát ru của mẹ (Nguyễn Văn Chung)
  • Bông hồng cài áo (Phạm Thế Mỹ)
  • Bông hồng trắng (Nhật Ngân)
  • Bữa cơm mẹ nấu (Nguyễn Văn Chung)
  • Ca dao mẹ (Trịnh Công Sơn)
  • Cảm ơn thiên thần (Thiên thần của mẹ) (Nguyễn Văn Chung)
  • Chỉ có một mà thôi (Trương Quang Lục)
  • Chiều xuân xa nhà (Nhật Ngân)
  • Cho mẹ cho em (Trịnh Lâm Ngân)
  • Cô và mẹ (Phạm Tuyên)
  • Gà mái và đàn con (Nguyễn Văn Chung)
  • Gia tài của mẹ (Trịnh Công Sơn)
  • Huyền thoại mẹ (Trịnh Công Sơn)
  • Lời dặn dò của mẹ (Nhật Ngân)
  • Lời mẹ ru (Trịnh Công Sơn)
  • Khi vắng mẹ (Nguyễn Văn Chung)
  • Khúc hát ru của người mẹ trẻ (Phạm Tuyên)
  • Mấy giờ con về? (Nguyễn Văn Chung)
  • Mẹ bỏ con đi (Đường xa vạn dặm) (Trịnh Công Sơn)
  • Mẹ đi vắng (Trịnh Công Sơn)
  • Mẹ là quê hương (Nguyễn Quốc Việt)
  • Mẹ mang xuân về (Nguyễn Văn Chung)
  • Mẹ nắm tay con (Nguyễn Văn Chung)
  • Mẹ ơi có biết (Nguyễn Văn Chung)
  • Mẹ tôi (Nhị Hà)
  • Mẹ tôi (Trần Tiến)
  • Mùa xuân của mẹ (Trịnh Lâm Ngân)
  • Mùa xuân nhớ mẹ (Nhật Ngân & Bruce Đoàn)
  • Mừng tuổi mẹ (Trần Long Ẩn)
  • Ngày mai con khôn lớn (Nguyễn Văn Chung)
  • Nghĩa mẹ (Lâm Hùng)
  • Ngọt ngào quê mẹ (Nhật Ngân)
  • Ngủ đi con (Nguyễn Văn Chung)
  • Ngủ đi con (Trịnh Công Sơn)
  • Nhật ký của mẹ (Nguyễn Văn Chung)
  • Nhớ mẹ lý mồ côi (Trương Quang Tuấn)
  • Rước xuân về nhà (Nhật Ngân)
  • Thế giới bé của mẹ (Nguyễn Văn Chung)
  • Thư của mẹ (Nguyễn Văn Chung)
  • Tình mẹ (Nguyên Hải)
  • Xa vắng mẹ (Thơ: Thái Tú Hạp & Nhạc: Nhật Ngân)
  • Xin lỗi mẹ (Nguyễn Văn Chung)
  • Xuân nào con sẽ về (Nhật Ngân)
  • Xuân này con không về (Trịnh Lâm Ngân)
  • Xuân này con về, mẹ ở đâu? (Nhật Ngân)

Kịch

  • Bông hồng cài áo (Kim Cương)

Cải lương

  • Bông hồng cài áo (Hoàng Khâm)

Tình mẫu tử ở giới động vật

  • Ngày của Mẹ
  • Vu lan

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Mẹ&oldid=69131907”