Năng lực mô hình hóa toán học của học sinh tiểu học

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 21/2018 149 PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC MÔ HÌNH HÓA TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG Phạm Thị Diệu Thùy, Dương Thị Hà Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Tóm tắt: Nghị quyết số 29 ngày 4/11/2013 của Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn sau 2018 đó là thực hiện định hướngphát triển năng lực người học.Nghiên cứu các biện pháp cụ thể để phát triển những năng lực đặc thù của mỗi môn học trong nhà trường có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu nói trên.Trong bài báo này, chúng tôi sẽ trình bày một số vấn đề lí luận về sự hình thành năng lực mô hình hóa trong quá trình dạy học môn Toán – một trong những năng lực cần thiết để giúp người học gắn được kiến thức đã học trong nhà trường vào thế giới thực tiễn. Từ đó, chúng tôi đề xuất một số biện pháp sư phạm cần thiết nhằm hỗ trợ giáo viên tổ chức qúa trình dạy học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực mô hình hóa ở học sinh. Từ khóa: Năng lực, mô hình hóa, Toán học, học sinh phổ thông. Nhận bài ngày 16.11.2017; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 15.12.2017 Liên hệ tác giả: Phạm Thị Diệu Thùy; Email: 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục toán học gắn với thực tiễn là một xu hướng của hoạt độnggiáo dục toán học trong nhà trường hiện nay của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.Xu hướng này gắn liền với quan điểm học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn; thể hiện mức độ cao nhất về sự chiếm lĩnh các kiến thức của người học mà mọi quá trình giáo dục đều hướng tới. Trong nhiều các nghiên cứu quốc tế về giáo dục toán học, phát triển năng lực mô hình hóa chính là một trong các giải phápđặc biệt quan trọngđể thực hiện thành công định hướng nói trên. Tuy nhiên, năng lực này của HS Việt Nam thể hiện trong kết quả của hai kì thi PISA (2012 và 2015) đều xếp ở thứ hạng thấp trong tổng số 65 và 72 quốc gia tham gia. Kết quả đóphản ánh một thực tế là, trong nhà trường Việt Nam vẫn chưa giành được sự quan tâm nhiều tới phát triển năng lực mô hình hóa ở người học.Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc về phát triển năng lực mô hình hóa ở người học trong quá trình dạy học các bộ môn, đặc biệt là môn toán là một việc làm cần thiết, giống như một bước chuẩn bị quan trọng cho việc thực hiện thành công định hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam của nghị quyết số 29.
  2. 150 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 2. NỘI DUNG 2.1. Quan niệm về mô hình hóa toán học Nghiên cứu về năng lực mô hình hóa toán học đã thu hút được sự tham gia của cộng đồng quốc tế về giảng dạy toán học như hội nghị ICMI (International Commission on Mathematical Instruction) lần thứ 14 về “Mô hình hóa và ứng dụng trong giáo dục toán học”, các hội thảo ICTMA (International Conferences on the Teaching of Mathematical Modelling and Application) tổ chức hai năm một lần đã đưa ra nhiều vấn đề mô hình hóa trong dạy học Toán. Ở nhiều nước kết quả của PISA cũng được thảo luận để đổi mới chương trình môn Toán trong nhà trường và đặc biệt là về mô hình hóa toán học. Những hoạt động trên cho thấy, ngày nay phát triển năng lực mô hình hóa đang trở nên có ý nghĩa quan trọng trong mục tiêu phát triển giáo dục, ở Việt Nam việc phát triển năng lực mô hình hóa toán học là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của dạy học môn toán từ tiểu học cho tới trung học phổ thông. Ý tưởng về việc sử dụng phương pháp mô hình hóa Toán học xuất hiện từ những năm 70 của thế kỉ trước. Mô hình hóa là quá trình tạo ra các mô hình để giải quyết các vấn đề nào đó. Mô hình hóa toán học là một cấu trúc toán học mô tả gần đúng đặc trưng của một hiện tượng nào đó, một mô hình toán học bao gồm các đối tượng toán học và mối quan hệ giữa các đối tượng đó.Để vận dụng kiến thức toán học vào việc giải quyết những tình huống của thực tế, chúng ta phải xây dựng một mô hình toán học thích hợp cho phép tìm câu trả lời cho tình huống. Một vài cấu trúc toán học cơ bản có thể dùng để mô hình hoá là các đồ thị, phương trình (công thức) hoặc hệ phương trình hay bất phương trình, chỉ số, bảng số hay các thuật toán. Mô hình hóa toán học cho phép học sinh kết nối toán học nhà trường với thế giới thực, chỉ ra khả năng áp dụng các ý tưởng toán, đồng thời cung cấp một bức tranh rộng hơn, phong phú hơn về toán học, giúp việc học toán trở nên ý nghĩa hơn [2]. Quá trình mô hình hóa toán học được trình bày trong chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA được thể hiện trong sơ đồ sau đây: Thế giới thực Thế giới toán học Lời giải thực tế Lời giải toán học Vấn đề thực tế Vấn đề toán học
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 21/2018 151 Bước 1: Bắt đầu từ một vấn đề thực tế được đặt ra trong thế giới thực; Bước 2: Nhận ra các kiến thức toán học phù hợp với vấn đề, tổ chức lại vấn đề theo các khái niệm toán học; Bước 3: Không ngừng chọn lọc các yếu tố thực tế để chuyển vấn đề thành một bài toán thể hiện cho tình huống. Bước 4: Giải quyết bài toán; Bước 5: Làm cho lời giải bài toán có ý nghĩa đối với tình huống thực tế, xác định những hạn chế của lời giải. Sơ đồ trên đã thể hiện rất rõ mối liên hệ giữa thế giới thực và thế giới toán học thông qua việc chuyển từ tình huống thực tiễn thành một vấn đề toán học và việc chuyển lời giải toán học thành một lời giải của thực tiễn. Vì vậy, thực hiệndạy học gắn với thực tiễn về thực chất là dạy cho học sinh tự mình thực hiện được 4 giai đoạn: chuyển tình huống thực tiễn thành tình huống toán học; giải quyết bài tập toán học; chuyển kết quả bài tập toán thành kết quả của lời giải thực tiễn, kết luận cho vấn đề thực tiễn ban đầu. 2.2. Quan niệm về năng lực mô hình hóa Toán học Có nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà nghiên cứu về năng lực mô hình hóa và các kĩ năng thành phần. Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với quan điểm của Bloomhoj và Jensen [4] khi cho rằng năng lực mô hình hóa là khả năng thực hiện đầy đủ các giai đoạn của quá trình mô hình hóa trong một tình huống cho trước. Các biểu hiện của năng lực mô hình hóa được thể hiện thông qua các chỉ báo hành vi của người học [2] đó là, người họcnhận ra được mối quan hệ và biết tạo dựng sự kết nối giữa các khái niệm toán học, ý tưởng toán học và các tình huống đời sống thực tiễn hằng ngày; người học biết chuyển đổi một vấn đề từ các tình huống thực tế giả định hoặc tình huống thực trong cuộc sống sang một mô hình toán học; người học biết cách giải quyết các vấn đề toán học trong các mô hình được thiết lập; người học thể hiện và đánh giá lời giải trong ngữ cảnh thực tế và cải tiến mô hình nếu cách giải quyết không phù hợp. Các chỉ báo hành vi này sẽ là một cơ sở quan trọng để xây dựng các biện pháp sư phạm hỗ trợ giáo viên trong quá trình hình thành năng lực mô hình hóa ở học sinh. Các kĩ năng thành phần của năng lực mô hình hóa Toán học Nhiều nhà nghiên cứu đã thiết kế hệ thống các tình huống và bài tập mô hình hóa để xác định những kĩ năng HS cần đạt được để giải quyết tình huống thực tiễn dựa theo quy trình mô hình hóa. Từ đó, các nghiên cứu đã chỉ ra các kĩ năng thành phần của năng lực mô hình hóa toán học đó là:
  4. 152 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI - Đơn giản giả thiết; - Làm rõ mục tiêu (yêu cầu của đề bài) - Thiết lập rõ vấn đề Toán học - Xác lập biến số, hằng số (kèm theo điều kiện) - Thiết lập mệnh đề Toán học - Lựa chọn mô hình - Biểu diễn mô hình bằng đồ thị - Liên hệ lại vấn đề trong thực tiễn. Các cấp độ trong năng lực mô hình hóa của học sinh (theo Ludwig và Xu [5] Các kĩ năng Mức Biểu hiện của học sinh có thể thực hiện Mức 0 Khi đọc không hiểu tình huống, không thể viết, vẽ, phác thảo những gì liên quan tới vấn đề, ngộ nhận bởi các tình huống gây nhiễu Mức 1 Chỉ hiểu được tình huống thực tiễn theo bối cảnh, nhưng không cấu trúc hoặc chưa tìm được mối liên hệ giữa các giả thiết, không thể tìm được sự kết nối với một ý tưởng toán học nào. Mức 2 HS cần đạt 2 kĩ năng mô Sau khi tìm hiểu vấn đề thực tiễn, học sinh biết tìm hình hóa (1) và (2) mô hình thật qua cấu trúc và đơn giản hóa, nhưng chưa biết chuyển đổi thành vấn đề toán học. Mức 3 HS cần đạt được các kĩ năng Không chỉ tìm ra mô hình thật mà còn phiên dịch nó (1), (2), (3) và (4) thành vấn đề Toán học, nhưng không thể làm việc với nó một cách rõ ràng trong thế giới toán học Mức 4 HS cần đạt các kĩ năng (1), HS có thể thiết lập vấn đề Toán học từ tình huống (2), (3), (4), (5), (6) và (7) thực tiễn, làm việc với bài toán với các kiến thức toán học và có kết quả cụ thể Mức 5 HS cần đạt được tất cả 8 kĩ HS có thể trải nghiệm quá trình mô hình hóa Toán năng thành phần nói ở trên học và kiểm nghiệm lời giải bài toán trong mối quan hệ với tình huống đã cho Từ các căn cứ ở trên điều quan trọng nhất để phát triển năng lực mô hình hóa ở học sinh đó là tạo các cơ hội để học sinh được rèn luyện các kĩ năng thành phần của năng lực này. Từ đó, chúng tôi đề xuất các biện pháp nhằm hỗ trợ cho giáo viên môn toán hình thành ở học sinh những kĩ năng tương ứng.
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 21/2018 153 2.3. Các biện pháp hỗ trợ giáo viên hình thành năng lực mô hình hóa ở người học Biện pháp 1: Tăng cường sự nhận thức của giáo viên về phát triển năng lực mô hình hóa ở học sinh Giáo viên là lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng giáo dục, vì thế sự thay đổi chất lượng của giáo dục phải bắt nguồn từ sự thay đổi của chính đội ngũ này. Nhận thức về dạy học toán gắn với sự phát triển các năng lực cốt lõi, năng lực đặc thù của môn học là một trong những giải pháp đầu tiên nhằm thực hiện hóa mục tiêu giáo dục trong giai đoạn đổi mới. Sự phổ biến nhận thức về dạy học phát triển năng lực đặc biệt là năng lực mô hình hóa ở người học cần được thực hiện thông qua nhiều hình thức: sự chỉ đạo của các cấp quản lí giáo dục đặc biệt là của ban giám hiệu nhà trường, tổ trưởng chuyên môn để quán triệt tư tưởng về đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường; sự trao đổi và thảo luận trong các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ; đề tài trao đổi trong các buổi sinh hoạt chuyên đề; nội dung của các bài tham luận hay các sáng kiếnkinh nghiệm của giáo viên…Từ đó, giáo viên nhận ra việc dạy học phát triển năng lực mô hình hóa có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với sự phát triển tư duy của đứa trẻ mà còn có ý nghĩa sau này đối với cuộc sống của các em. Thực tế, trong các cuộc phỏng vấn với trên 300 giáo viên các khối tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở các tỉnh Hà Giang, Phú Thọ, Hà Nội ở các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ, chúng tôi thu được kết quả là tất cả các giáo viên đều có nguyện vọng được dạy học phát triển năng lực người học, đều khẳng định dạy học năng lực mô hình hóa ở học sinh là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, qua một số các bài tập tình huống do giảng viên đặt ra, chúng tôi nhận thấy rằng: ở các giáo viên vẫn còn thiếu có kĩ năng xây dựng các tình huống để hình thành năng lực mô hình hóa cho học sinh. Từ thực tế này, chúng tôi đề xuất biện pháp số 2 nhằm hỗ trợ cho giáo viên những điều kiện cần thiết để có thể dạy học phát triển năng lực mô hình hóa ở người học. Biện pháp 2: Hỗ trợ cho giáo viên các cơ sở về hình thành năng lực mô hình hóa ở người học Giai đoạn 1: Cung cấp cho giáo viên bản chất và quy trình hình thành năng lực mô hình hóa toán học Nội dung của giai đoạn này giúp giáo viên biết được bản chất của năng lực mô hình hóa, quy trình thực hiện mô hình hóa để các thầy cô hình dung được các giai đoạn hình thành năng lực này ở người học. Nội dung của vấn đề này chúng tôi cũng đã trình bày rất kĩ ở phần đầu của bài báo. Giai đoạn 2: Tổ chức thảo luận và chia sẻ với giáo viên về các bước dạy học để phát triển năng lực mô hình hóa
  6. 154 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Bước 1. Tập dượt cho học sinh chuyển tình huống thực tiễn thành bài tập toán học Mục đích của biện pháp này, chúng tôi muốn hình thành kĩ năng số 1, 2, 3 ở học sinh (đơn giản giả thiết, xác định mục tiêu, thiết lập rõ vấn đề toán học). Một tình huống thực tiễn thường chứa đựng trong đó nhiều yếu tố (ví dụ tên gọi, màu sắc, to, nhỏ…) không thuộc về bản chất toán học (bao gồm số, các đối tượng hình học và quan hệ giữa chúng). Những đặc điểm không bản chất này đôi khi lại trở thành những yếu tố gây nhiễu, phân tán sự tập trung của học sinh. Để chuyển thành một bài tập toán học đòi hỏi HS phải tách ra được những yếu tố mang bản chất toán học khỏi những yếu tố không bản chất, thiết lập mối quan hệ giữa chúng để chuyển thành một vấn đề toán học.Để chuyển các yếu tố của bài toán thành yếu tố toán học, trong quá trình dạy học, giáo viên nên sử dụng các mô hình để học sinh quan sát, yêu cầu học sinh mô tả tình huống và rút ra các đặc trưng toán học cần thiết. Ví dụ 1: Tình huống ca nô chuyển động trên dòng sông khi xuôi dòng và ngược dòng. Giáo viên yêu cầu HS mô tả khi đi xuôi dòng và ngược dòng thì vận tốc của ca nô thay đổi thế nào. Từ đó HS thấy đươc yếu tố toán học ẩn tàng trong các dữ kiện về ca nô,về dòng sông, ngược dòng, xuôi dòng được hiểu là một vật chuyển động với hai loại vận tốc khác nhau: một là vận tốc thực + vận tốc dòng nước; hai là vận tốc thực – vận tốc dòng nước. Ví dụ 2: Tình huống cần tính diện tích miếng tôn để gò một cái thùng nước hình trụ có độ cao và bán kính đáy cho trước, không có nắp đậy (giả thiết các mối nối không đáng kể), HS cần quan sát và chỉ ra được thực chất là tính tổng diện tích của hình chữ nhật với một chiều là chiều cao hình trụ, một chiều là chu vi của đường tròn đáy với diện tích của một hình tròn đáy. Để thiết lập được bài tập toán HS cần chỉ ra dữ kiện quan trọng trong tình huống cho phép thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố toán học và phát hiện. Điều này có thể được thực hiện qua các câu hỏi định hướng của giáo viên, ví dụ: trong tình huống này chỗ nào thể hiện mối quan hệ giữa các sự kiện. Bước 2. Rèn cho học sinh các kĩ năng giải quyết các nội dung toán học Biện pháp này sẽ giúp HS phát triển nhóm kĩ năng số 1, 2, 3, 4. Khi đã chuyển tình huống thực tiễn trở thành một bài tập toán học, HS cần phải sử dụng các kiến thức đã học để giải quyết bài toán đó. Học sinh phải xác lập các biến số, hằng số phù hợp và đặt điều kiện cho nó. Thông thường, yêu cầu của bài toán thường được đặt là ẩn số. Tuy vậy, cũng không phải mọi trường hợp đều làm như vậy, có khi đặt ẩn cho một yếu tố khác của bài toán có thể làm cho bài toán trở nên dễ dàng hơn. Đặt ẩn số cần làm cho việc biểu diễn các đại lượng còn lại trong bài toán thông qua ẩn và quan hệ giữa các đại lượng một cách dễ
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 21/2018 155 dàng. Để thực hiện tốt bước này, HS cần phải nắm vững hệ thống các kiến thức toán học, vận dụng một cách linh hoạt và tính toán cẩn thận, chính xác. Trong mỗi tiết học toán, giáo viên cần phải chú ý đến những yếu tố này. Bước 3. Chuyển kết quả toán học trở thành lời giải thực tiễn Sau khi đã giải quyết được bài tập toán học, giai đoạn tiếp theo là cần phải chuyển kết quả sang lời giải thực tiễn. Yếu tố thực tiễn là một trong những điều kiện quyết định việc lựa chọn kết quả cho bài toán. Để thực hiện điều này, học sinh cần phải có hiểu biết nhất định về thực tiễn: chẳng hạn, vận tốc thì phải lớn hơn 0; số công nhân trong một công ti thì không thể là một phân số…, mặc dù là kết quả về mặt toán học có thể có số âm và phân số. Để có những hiểu biết như vậy, giáo viên thường xuyên giao cho học sinh nhiệm vụ quan sát và rút ra nhận xét từ tình huống thức tiễn. Bước 4. Kết luận cho tình huống của thực tiễn Học sinh cần phải căn cứ vào yêu cầu của bài toán để đưa ra những kết luận phù hợp. Giai đoạn 3: Giáo viên tổ chức thực hành và chia sẻ kết quả cũng như các kinh nghiệm thu được về hình thành năng lực mô hình hóa ở người học Đây là giai đoạn quan trọng để tạo ra sự phát triển chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên. Từ thực tiễn dạy học, các thầy cô sẽ chia sẻ với nhau những kinh nghiệm cần thiết để có những điều chỉnh phù hợp với học sinh của mình. 3. KẾT LUẬN Phát triển năng lực mô hình hóa ở người học là một trong những mục tiêu của dạy học môn Toán trong nhà trường nhằm thực hiện hóa định hướng giáo dục toán học gắn với thực tiễn. Sự thay đổi về nhận thức, sự hỗ trợ các kĩ thuật cần thiết để giúp giáo viên thấy rõ vai trò cũng như tính khả thi của dạy học phát triển năng lực mô hình hóa trong dạy học môn Toán ở nhà trường là một việc làm cần thiết. Nội dung của bài báo trên chúng tôi đã phân tích và làm rõ vấn đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Chương trình giáo dục phổ thông (Chương trình tổng thể), công bố ngày 28 tháng 7 năm 2017. 3. Nguyễn Danh Nam (2016), Phương pháp mô hình hóa trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông, - Nxb Đại học Thái Nguyên, 2016.
  8. 156 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 4. Blomhoj, M., Jensen, T. (2007), “What’s all the fuss about competencies?” In W.Blum, P. L. Galbraith, H.Henn, M. Niss, (Eds.): Modelling and Applications in Mathematics Education (ICMI Study 14), 45-56, Springer. 5. Ludwig, M.,Xu, B. (2010), “A comparative study of modelling competencies among Chinese and German students”, Journal for Didactics of Mathematics, 31, 77-79. DEVELOPING COMPETENCIES OF MODELIZATION IN TEACHING MATHEMATICS TO STUDENTS Abstract: The Resolution No. 29 dated November 4th, 2013 of the XI Party Congress has clearly indicated the key task of Vietnam education in the period after 2018 aiming to implement the orientation of developing learners competencies. Studying methods to develop the specific competencies of each subject in the school is critical to achieving this goal. In this article, we will present some problems about the formation of competencies modelization to students in teaching of Mathematics. From there, we propose pedagogical methods to support teachers in to develop students ’ modelization competencies. Keywords: Competence, modelization, Mathematics, students

nguon tai.lieu . vn