Lưu biệt khi xuất dương phân tích

7 mẫu phân tách Lưu biệt lúc xuất dương hay nhất

Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – Hoatieu xin san sẻ tới các bạn dàn ý phân tách Lưu biệt lúc xuất dương và các bài văn mẫu phân tách bài Lưu biệt lúc xuất dương của tác giả Phân Bội Châu hay và cụ thể. Mời các bạn cùng tham khảo.

Top 8 mẫu phân tách bài Phú sông Bạch Đằng siêu hay

1. Dàn ý phân tách bài Lưu biệt lúc xuất dương 1. Mở bài: Trình bày nói chung những nét cốt yếu nhất về cuộc đời và sự nghiệp Phan Bội Châu: Đôi nét về cuộc đời hoạt động cách mệnh và sự nghiệp văn học… Giới thiệu nói chung nội dung và nhấn mạnh tầm quan trọng của bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương: Bài thơ đó là điển hình cho ý thức yêu nước của chính tác giả 2.Thân bài: – Phân tích 2 câu thơ đầu [2 câu đề]: Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu + Tác giả nêu lên quan niệm mới: là đấng đại trượng phu phải sống với khát vọng, mong muốn làm nên điều kì dị : “ yếu hi kì”, ko cam chịu để cho trời đất xoay chuyển mình. ⇒ Tư thế, 1 tâm thế đẹp về chí đại trượng phu phải tin cậy ở chừng độ và tài năng của mình ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai. – Hai câu thực: Khẳng định tinh thần phận sự của tư nhân trước thời cục + Câu 3: “Tu hữu ngã” [phải có trong cuộc đời] → tinh thần phận sự của cái tôi tư nhân trước thời cục, tinh thần rõ vai trò, tầm quan trọng của tư nhân đối với vận mệnh trăm 5. Điều này đối lập với sự tự kiêu tư nhân. + Câu 4: Tác giả lại chuyển giọng nghi vấn “cánh vô thùy” [há ko người nào?] ⇒khẳng định kiên quyết hơn khát vọng sống hiển hách, phi thường, phát huy hết tài năng trí não hiến dâng cho đời. → Tinh thần thâm thúy trình bày vai trò tư nhân trong lịch sử: chuẩn bị đảm trách mọi phận sự nhưng mà lịch sử phó thác. – Hai câu luận : Quan niệm về nguyên lý hành xử mới của Phan Bội Châu trước vận mệnh non sông + Cảnh ngộ non sông: “Non sống đã chết”, non sông đã rơi vào tay giặc + Quan niệm mới mẻ, đối lập với các tín điều xưa cũ: tinh thần về lẽ vinh nhục gắn với sự tồn vong của non sông: “sống thêm nhục : “Hiền thánh còn đâu cũng học hoài” + Người cách mệnh cảm nhận sự tồn vong của mình trong mối quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc ⇒ hành động linh hoạt, luôn tiếp nhận những tư tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên bậc nhất, đối lập với ý kiến cứu nước bê trệ, lỗi thời của các nhà Nho đương thời. – Hai cấu kết: Tư thế và khát vọng buổi lên đường + Tư thế lên đường của người chí sĩ thật sự hoành tráng: “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ Tiên trùng bạch lãng đồng loạt phi” + Những hình tượng kì vĩ được sử dụng: “trường phong”- ngọn gió dài, mập; “Thiên trùng bạch lãng” [nghìn lớp sóng bạc] ⇒ Tư thế hiên ngang, mong muốn mập lao mang tầm vũ trụ của người cách mệnh. ⇒ Tầm vóc của ý chí con người đã mập lao hơn, ko cam chịu trói mình trong phạm vi, vượt ra ngoài vòng kiểm tỏa III. Kết bài: Khái quát về những nét rực rỡ nghệ thuật đem đến thành công cho tác phẩm.

Khẳng định lại nội dung tư tưởng của tác phẩm và liên hệ về ý chí, khát vọng của con người trong thời đại ngày nay.

2. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 1 Phan Bội Châu [1867-1940], quê tại Làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ngay từ bé ông đã trình bày là mình là 1 người tài giỏi xuất chúng, lại sớm có lòng yêu nước và tinh thần về việc giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu cũng là 1 người mang quan niệm nhập thế hăng hái hết sức thâm thúy, nặng lòng với nghiệp công danh cùng món nợ của phận đại trượng phu. Ông tham dự hăng hái vào nhiều phong trào chống Pháp và sau nhiều lần thất bại rốt cuộc ông đã nhận thức được sự sai trái, yếu kém trong cá tính tổ chức của các phong trào yêu nước thời bấy giờ, từ ấy đề ra chủ trương cứu nước theo trục đường tư sản. Ông nấu nung ý định cho các thanh niên ưu tú của sơn hà sang các nước như Nhật Bản, Trung Quốc để học hỏi rồi trở về tương trợ non sông, còn gọi là phong trào Đông Du, với tên gọi tổ chức là Duy Tân hội. Sự văn minh trong tư tưởng cứu quốc của Phan Bội Châu chừng như đã mở ra 1 trục đường sáng cho cách mệnh Việt Nam giai đoạn đầu, vào những 5 cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, dẫu rằng kết quả ko như mong chờ. Kế bên vai trò là 1 nhà hoạt động cách mệnh tuyệt vời, có nhiều đóng góp bự mập trong công cuộc giải phóng non sông thì Phan Bội Châu còn được biết tới với nhân cách là 1 thi sĩ, nhà văn mập trong nửa đầu thế kỷ 20, với số lượng tác phẩm mập, được xem là người mở màn cho nền văn chương cách mệnh Việt Nam, nhưng mà sau Tố Hữu chính là người đưa nó bước đến đỉnh cao. Lưu biệt lúc xuất dương là 1 bài thơ điển hình cho cá tính sáng tác của Phan Bội Châu, nó ko chỉ thuần tuý là 1 bài thơ trình bày lý tưởng cách mệnh của chí sĩ yêu nước, nhưng mà còn ghi lại mốc quan trọng mở màn công cuộc tìm đường cứu nước theo chủ nghĩa tư bản của thi sĩ. Lưu biệt lúc xuất dương được viết vào 5 1905, trước lúc Phan Bội Châu cùng 1 số thanh niên ưu tú khác lên tàu vượt biển sang Nhật Bản học tập. Tác phẩm có ý nghĩa cổ vũ, khích lệ ý thức cho người ra đi, cùng lúc cũng có tính năng củng cố ý thức, niềm tin, hướng người hầu lại về 1 mai sau tốt đẹp hơn, sáng lạn hơn của non sông. Thể hiện được rõ chí khí làm trai của 1 nhà nho, với ý thức yêu nước thâm thúy, phấn đấu trả món nợ công danh cho đời lúc Đất nước lâm nguy, lịch sử có nhiều bất định. Trong 2 câu thơ đầu tác giả đã trình bày rất rõ ý kiến của mình về chí làm đại trượng phu trong thời đại mới, 1 thời đại đầy bất định, buộc con người ta phải có những chuyển đổi về ý chí để kiến lập 1 trục đường riêng cho bản thân và cho dân tộc, non sông nhưng mà vẫn giữ được khí tiết của 1 nhà nho chân chính, trong vai trò 1 nhà cách mệnh sôi nổi. “Làm trai phải lạ ở trên đờiHá để càn khôn tự chuyển dời” Phan Bội Châu quan niệm rằng thân đại trượng phu “vai 5 tấc rộng, thân mười tấc cao” sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, nghĩa là ko cam chịu cuộc sống tầm thường mờ nhạt, quẩn quanh bên chốn “ao tù nước đọng”, nhưng mà phải tự khiến cho mình có điểm nổi bật, nổi trội phê chuẩn những lý tưởng cao đẹp, những mong ước và hy vọng mập, tráng chí ở 4 phương. Người đại trượng phu phải dám tự thử thách bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được trở lực chi ly, được mất, vượt ra khỏi mọi giới hạn mực thước 1 cách mạnh bạo và can đảm, để đạt được những thành công mập, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác biệt nhưng mà hiếm kẻ làm được. Để “thà 1 phút huy hoàng rồi vụt tắt/Còn hơn le lói suốt trăm 5”, để cuộc đời đại trượng phu sống sao cho xứng với 2 chữ “đại trượng phu”, có hiến dâng cho cuộc đời, trả cho kỳ được món nợ công danh, chớ để hoài phí 1 cuộc đời mờ nhạt bất nghĩa. Cái quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới của Phan Bội Châu tiếp diễn được làm rõ phê chuẩn câu “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh bạo, thái độ hiên ngang, ý muốn thử thách, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời 1 cách quyết liệt và mạnh bạo. Chứ chẳng phải là ý muốn cuộc sống thảnh thơi, chấp thuận sự xếp đặt của tạo hóa, biểu hiện khẩu khí mạnh bạo, ngang tàn của bậc nam nhi, mang khí thế tự tin, táo tợn và hiên ngang hết sức. Ý thơ của Phan Bội Châu ko chỉ nằm ở việc trình bày tráng chí của bản thân nhưng mà kế bên ấy còn mang ý nghĩa cổ vũ các thanh niên trong thời đại mới, biết đứng lên tự lực, tự cường, đeo đuổi lý tưởng cao đẹp, phụng sự cho Đất nước, nâng tầm vóc của bản thân mình ngang tầm vũ trụ, tạo hóa, rũ bỏ cuộc đời phổ biến, quẩn quanh ao vườn, ruộng cá, để kiến thân lập nghiệp. Trong 2 câu thơ tiếp “Trong khoảng trăm 5 cần có tớ/Sau này muôn đời há ko người nào” chính là nhận thức của tác giả về phận sự của người làm trai với non sông, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền. Đặc trưng là trong thời buổi lịch sử dân. tộc có nhiều chuyển đổi, giặc dữ nhăm nhe xâm phạm chủ quyền thì thanh niên lại càng phải biết đứng ra phụng sự cho Đất nước. Tác giả đã vẽ ra khoảng thời kì “trăm 5”, trước là hàm ý chỉ về 1 kiếp người như quan niệm của cha ông ta từ bao đời nay, 1 đời tức chỉ trăm 5. Thứ 2 nữa khoảng thời kì trăm 5 còn là để gợi nhắc về 1 thế kỷ bất định của dân tộc, sự thế đã biết bao lần thay đổi, sự suy vong của cơ chế phong kiến, sự xâm lăng của đế quốc phương Tây khiến dân chúng biết bao phen lầm than. “Trong khoảng trăm 5 cần có tớ” là hàm ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ non sông. Nhưng người làm trai, sức dài vai rộng trong giữa sự xếp đặt của tạo hóa, đã ban cho ta 1 khoảng thời kì đầy bất định, thì bản thân người chí sĩ phải làm sao cho xứng với sự hy vọng của tạo hóa, cũng như xứng đáng với cái danh đại trượng phu của mình. Ví như câu trước là khẳng định tầm quan trọng của đấng đại trượng phu trước thời cục, là sự nhận thức về lý tưởng cũng như vai trò của bản thân với non sông thì câu thơ “Sau này muôn đời há ko người nào?” lại là 1 câu hỏi ngỏ, trình bày sự hy vọng, cũng như sự cổ vũ của tác giả đối với tầng phân khúc lớp các lứa tuổi thanh niên và tương lai nữa. Phan Bội Châu đã dùng chính tráng chí, lý tưởng cao đẹp của mình làm tấm gương sáng, cũng như đặt những bước chân trước nhất cho trục đường cách mệnh đương đại của dân tộc, của thanh niên Việt Nam. Thức tỉnh trong họ những nhận thức về ý thức cách mệnh, lòng yêu nước, tinh thần phận sự của người thanh niên, và sự tự tin chuẩn bị đương đầu với sóng gió của bậc nam nhi. Tới 2 câu thơ luận, Phan Bội Châu lại cho chúng ta thấy tầm nhận thức tiến bộ của 1 nhà nho yêu nước, 1 nhà cách mệnh kiểu mới trước tình hình dân tộc, trước sự suy thoái của cơ chế phong kiến và nền nho học đang dần mất đi vị thế vốn có của mình. “Non sông đã mất sống thêm nhụcHiền thánh còn đâu học cũng hoài” “Non sông đã chết” ấy là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền cương vực và sự suy vong của cơ chế phong kiến, non sông lầm than thế nhưng mà bọn đầu sỏ cầm quyền, những con người đứng đầu 1 non sông lại sợ sệt, chỉ dám chui luồn, nịnh hót đám giặc Tây để níu kéo những tháng ngày gấm vóc lụa, là hữu danh vô thực, còn kệ xác số mệnh dân tộc và non sông. 1 non sông nhưng mà ko có chủ quyền, ko có tự do, triều đình phong kiến chỉ là 1 mớ bù nhìn, thối nát tận xương thì còn cách bên bờ bại vong là mấy bước chân nữa đâu. Thế nên tác giả nói “tổ quốc đã chết” cũng chẳng có gì là ko đúng, đặc thù 1 người với tráng chí, với ý thức yêu nước mạnh bạo như Phan Bội Châu thì đứng trước viễn tượng đó thì quả thực là điếm nhục khôn xiết. Tới câu thơ sau “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, người ta lại càng bái phục cái tư cách và nhận thức của Phan Bội Châu. Bởi vốn dĩ Phan Bội Châu là 1 nhà nho chịu tác động rất mạnh bạo từ nền giáo dục phong kiến từ thuở thiếu thời, thế nhưng mà ông ko như 1 số những nhà nho câu chấp ôm bo bo giấc mộng hão huyền về việc phục hưng những thứ vốn đã cũ kỹ, lỗi thời nhưng mà ngược lại ông lại chính là 1 trong những người trước nhất nhìn thẳng vào vấn đề, vạch trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên do khiến non sông lâm vào trạng thái hèn yếu. Không phủ nhận rằng Nho học quả thật là 1 kho tàng bao la, đem lại cho con người sự giáo dục tốt đẹp, thế nhưng mà nhìn vào bối cảnh hiện nay nó chỉ mang lại những sự ảo vọng ko có thực, ko bổ ích trong việc diệt giặc thù, giành lại chủ quyền dân tộc. Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao lăm lâu đó quả thật là nỗi chua xót hết sức mập của tác giả, nhưng mà với tư cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng phấn đấu của 1 chí sĩ yêu nước, thì ko nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Nhưng với nhân cách người làm trai, ông lại càng phải trình bày vai trò phục hưng Đất nước bằng trục đường đương đại chứ chẳng phải là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua. Từ ấy ta thấy được tâm hồn hào phóng, mạnh bạo và tự do của 1 chí sĩ yêu nước chân chính, chuẩn bị hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau tư nhân vì ích lợi của dân tộc, của non sông, để hoàn trả món nợ công danh. Cuối cùng ở 2 câu thơ kết “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm đến chân mây mới, học hỏi những tri thức mới để trở lại phụng sự cho Đất nước, dân tộc với phong độ hiên ngang và tự tin hết sức. Những hình ảnh “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc” đã gợi ra 1 bối cảnh ko gian bao la, phóng khoáng, trình bày tâm hồn yêu đời, cùng những khát vọng, lý tưởng cao mập muốn vươn ra biển mập của người chí sĩ. Tầm vóc con người phát triển thành kì vĩ, mập lao nổi trội hẳn trên cái nền của tự nhiên bởi sự tự hào, tráng chí hùng mạnh bên trong tâm hồn đối tượng trữ tình. Lưu biệt lúc xuất dương là 1 bài thơ hay, có nội dung và ý nghĩa mập, ko chỉ biểu hiện những khát vọng, lý tưởng cao đẹp của 1 nhà hoạt động cách mệnh thời đại mới, nhưng mà còn là lời cổ vũ cổ vũ, khơi dậy ý thức yêu nước, lòng tự trọng dân tộc, cũng như thức tỉnh sự tự tin, lý tưởng và khát vọng cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh non sông có nhiều bất định. Có thể nói rằng Lưu biệt lúc xuất dương là 1 trong những bài thơ mang thiên hướng trữ tình cách mệnh trước nhất, khơi nguồn cho nền văn chương cách mệnh của dân tộc đạt tới đỉnh cao về sau này. 3. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 2 “Thi dĩ ngôn chí” – thơ để nói chí, tỏ lòng. Cho nên tầm vóc của loại thơ này chung cuộc, lệ thuộc vào tầm vóc của chí. Nhưng chí khí chẳng phải là những bộc phát nhất thời, càng chẳng thể là những chí hướng vay mượn. Chí cần phải được bảo đảm bằng nghiệp. Có thể có những sự nghiệp ko thành, nhưng mà sự dang dở đó cũng chứng tỏ về 1 chí mập đã lao vào, chẳng phải thứ chí suông. Chính nó là sự bảo đảm cho thơ. Vì vậy. thơ sẽ chỉ còn là những lời lẽ phô trương sáo rỗng, là sự phóng đại đao bự búa mập rẻ tiền, ví như ko có 1 chí mập, hơn thế ví như chí mập đó ko gắn với 1 cốt cách mập, 1 cuộc đời mập. Tiếng thơ biểu hiện trực tiếp các chí mập bấy lâu thường gắn với những bậc anh kiệt, những đấng lang quân. Thơ của họ là lời tuyên ngôn của cuộc đời họ. Trước lúc họ tạc con người mình vào trong thơ, thì họ đã tạc con người mình vào núi sông. Người đời thường ví họ như chim hồng, chim hộc và đối lập với những chim sẻ, chim ri. Và trong thơ của mình, họ xuất hiện đúng như những cánh đại bàng vùng vẫy trong mênh mang trời biển. Tư thế của họ là tư thế kì vĩ, tư thế vũ trụ, chẳng “Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu’ [Cấp ngang ngọn giáo bảo vệ sơn hà đã mấy. thu – Phạm Ngũ Lão], thì cũng “Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma” [Bao phen mang gươm báu mài dưới trăng – Đặng Dung], chảng “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư” [Kêu bự 1 tiếng làm lạnh cả hư vô – Không Lộ thiền sư] thì cũng “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô” [Nguyễn Hữu cầu]… như thế dã chứa đựng trong ấy hào khí của cả nòi giống. Nằm trong mạch ngôn chí trực tiếp đó, Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là hùng tâm tráng chí của 1 trong những người con ưu tú nhất của giống nòi giống Việt Nam. Thực ra cái quan niệm làm trai ở trong bài thơ này ko phú của riêng Phan Bội Châu. Nó là quan niệm chung về chí làm trai của nhà Nho thuở trước. Và ít ra ta cũng thấy nó từng vang lên rất mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Song, điều đáng nói chính là ở chỗ, chẳng phải Phan Bội Châu đang ném ra cuộc đời 1 quan niệm lí thuyết như 1 người có ý đồ lập thuyết, nhưng mà ông là người đã sống cái quan niệm đó 1 cách đủ đây trước lúc viết thành thơ. Có nhẽ vì vậy nhưng mà Xuất dương lưu biệt ko chỉ chứa đựng 1 lẽ sống nhưng mà đầu tiên là chứa đựng chân dung 1 con người – 1 con người lỗi lạc, kiệt xuất. Hai câu đề: Làm trai phải lạ ở trên đời,Há để càn khôn tự chuyển dời. Tôi ko nghĩ chữ “lạ” trong bản dịch này đã trình bày được hết cái ý thức của chữ “kì”. Bởi chữ “kì” muốn nhắc đến cái điều: làm trai phải làm được những điều kì dị, kiệt xuất, phi thường. 1 mình chữ “lạ” ko tải hết ý của Phan tiên sinh. Tôi cũng ko nghĩ rằng người dịch dùng 3 chữ “ở trên đời” là đã diễn được thực ý của nguyên tác. “Đời” là 1 ko gian tưởng là rộng nhưng mà hóa ra lại hẹp, bởi nó có xu thế co vào cái khuôn khổ của toàn cầu người thôi. Trong nguyên văn, Phan Bội Châu ko dùng những chữ đó. Chỉ tới câu thứ 2 ta mới thấy yêu tố ko gian hiện ra. Và tức tốc bậc tu mi nam tử theo quan niệm của Phan Sào Nam đã xuất hiện trong tương quan kì vĩ nhất: ko gian vũ trụ. Đấng đại trượng phu sinh ra ở trong vũ trụ này là đương đầu với càn khôn [trời đất], tức là với tất cá những gì mập lao nhất trong vũ trụ này, chứ ko riêng gì toàn cầu người. Vậy là ngay từ 2 câu đề, hình ánh nói chung về 1 bậc anh kiệt đã hiện lên đầy ấn tượng: Ấy chẳng phải là kẻ sống tiêu cực phó mặc đường đời mình cho trời đất, và cũng ko phó mặc cõi đời này cho sự xoay vần của trời đất. Đấng nam tử phải là người chủ động thay đổi cả càn khôn. Cái chí ngang dọc trời đất, chọc trời khuấy nước, cải tạo vũ trụ ấy mới là điều xứng với 1 đời làm đại trượng phu. Quan niệm con người của Phan Bội Châu ở đây là quan niệm con người vũ trụ rất không xa lạ của văn học Nho giáo trung đại. Nếu 2 câu đề gợi ra hình ảnh nam tử trong ko gian kì vĩ, thì 2 câu thực đã tăng trưởng hình ảnh đó trong 1 chiều kích khác: thời kì. Thời gian ở đây cũng là thời kì thuộc tầm cỡ vĩ mô: Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,Sau này muôn đời há ko người nào? Ở câu đề tuy khẩu khí tư nhân đã rõ, nhưng mà quan niệm vẫn là quan niệm chung. Tới đây thì con người tư nhân Phan Bội Châu đã hiện ra ngay trên bề mặt câu chữ. Ông đã tinh thần về vai trò lịch sử của mình thật hùng dũng đầy tự trọng, tự tin. Mình phải biến thành 1 đối tượng chẳng thể thiếu trong cái khoảng thời kì 1 trăm 5 nay. Nói 1 cách khác, ông tự lãnh nhận sứ mệnh của mình: 1 con người nhu yếu của thế kỉ. Đối diện với càn khôn, đối diện với cả thế kỉ, tầm vóc của bậc nam tử này thật là tầm vóc vũ trụ. Không phải ông muốn chiếm lấy 1 chỗ đứng chỉ mất khoảng như 1 kẻ vĩ cuồng háo danh. Nhưng chính là làm nên cái việc trọng đại, kiệt xuất là xoay chuyển càn khôn để làm thay đổi khuôn mặt của thế kỉ. Chữ “tớ” là cách dịch thoát của chữ “ngã“ [tôi]. Dù dịch là tôi, là ta, là “tớ” thì ngã vẫn cứ là cái tinh thần mãnh liệt về tư nhân mình trên cõi nhân gian này. Hình ảnh tác giả xuất hiện trong mênh mang thời kì, lồng lộng ko gian như thế là 1 vẻ đẹp tư nhân thật hoa lệ nguy nga. Phcửa ải thấy rằng, ít có người nào đã tự họa mình trong 1 ko gian và thời kì hoành tráng tương tự! Dầu sao trong 4 câu đầu này mới nhắc đến điều phải “lạ”, nhưng mà chưa nói rõ “việc lạ” cần làm là gì! 4 câu tiếp theo sẽ dần dần làm sáng lên điều ấy. Hai câu luận là 1 sự nhìn nhận phi thường: Non sông đã sống chết thêm nhục,Hiền thánh còn đâu học cũng hoài Câu trên khẳng định: Non sông đã chết! Khi chủ quyền đã về tay kẻ ngoại quốc, thì tổ quốc đã chết. Sống nhưng mà ko có quyền làm chủ là sống nhục. 4 chữ “Giang sơn tử hĩ” chất đầy đớn đau và căm uất. Câu dưới tiếp diễn Hiền thánh đã vắng bóng thì có đọc sách cũng ngu thôi! Tất cả là những lời phủ định dứt khoát, quyết liệt rằng: Còn học đòi sách vở, còn sống ở trong nước thời buổi này là điều điếm nhục đối với 1 trang đại trượng phu. Bởi ấy là đã nhắm mắt nhắm mũi quay lưng cho “càn khôn tự chuyển đi”, là phó mặc mình cho đời xoay vần. Tất cả những gì thiêng liêng xứng đáng với 1 bậc nam tử coi như đã chết. Vì vậy nhưng mà thiết yếu hành động xứng đáng. Hành động xứng đáng, hành động kiệt xuất phi thường đó hiện giờ chính là: Xuất dương. Những câu trên ta thấy cái tôi [ngã] xuất hiện trước “càn khôn”, trước “ Bách niên trung”, “Thiên tải hậu” những chiều kích vĩ của ko gian và thời kì, ở đây, nó tiếp diễn được tô đậm bằng: “Giang sơn” và “Thánh hiền”. Con người đó đương đầu với sơn hà non sông, đương đầu với toàn thể nền học thức. Cho nên, càng về sau chân dung của con người đó, cái tôi đó càng sắc nét với tất cả những gì mập lao nhất. Cái ko gian độc nhất vô nhị có thể chứa đựng được con người đó là vũ trụ. Tới 2 cấu kết thì những nét bút kì vĩ rốt cuộc đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của 1 cuộc đời kiệt xuất: Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. 6 câu trên gợi ra những suy nghĩ, những chọn lọc, những sẵn sàng trong tâm lí, trong tư tưởng của 1 con đại bàng. Ở 2 câu này, chúng ta thấy con đại bàng đó đang tung đôi cánh mênh mang của mình bay thẳng ra trùng dương, đương đầu với hết thảy những giông tố bão bùng. Câu thơ gợi ta nhớ tới tư thế của con chim mập trong thư Quận He: “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô”. Nhưng câu thơ của Phan Bội Châu ko còn là 1 hình ảnh ước lệ nữa. Bởi phong trào Đông du nhưng mà ông là người chủ trương, bởi việc xuất dương nhưng mà ông là người cử sự chính là những hành động phi thường của những bậc lang quân chuẩn bị ném đời mình vào muôn trùng sóng bạc ra khơi tìm đường làm sống lại “sơn hà đã chết”, tìm cách xoay chuyển càn khôn. Bài thơ kết bằng câu thơ đầy hùng tâm tráng chí nhưng mà câu thơ dịch chưa thể truyền tải hết được: Thiên trùng bạch lãng đồng loạt phi. Như vậy, làm trang đại trượng phu chẳng phải là bằng mọi cách để lưu danh sử sách, khẳng định tư nhân. Nhưng tư nhân đó phải làm nên việc phi thường, đó là việc kinh bang, tế thế, cứu dân cứu nước. Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu ở đây, 1 lần nữa, giúp ta hiểu được cái cốt cách lớn lao của con người kiệt xuất này. 4. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 3 Phan Bội Châu [1867 – 1940] tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra và mập lên trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần Vương chống Pháp. Chế độ phong kiến suy vong kéo theo sự sụp đổ của cả 1 hệ thống tư tưởng phong kiến già cỗi, lạc hậu. Tình hình ấy đặt ra cho các chí sĩ yêu nước 1 câu hỏi mập: Phcửa ải cứu nước bằng trục đường nào? Trong ko khí ảm đạm bao trùm khắp non sông thời ấy, những tia sáng hi vọng hé rạng qua nguồn sách Tân thư quảng bá tư tưởng cách mệnh dân chủ tư sản của phương Tây với nội dung khác hẳn với các sách thánh hiền thuở trước. Người ta có thể tìm thấy ở ấy những gợi ý quyến rũ về 1 trục đường cứu nước mới, những viễn tượng đầy hẹn hứa cho mai sau. Vì vậy, các nhà Nho đương đại của thời đại như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã đi đầu dấn bước, bất chấp nguy khốn, gian khó. Phan Bội Châu là 1 trong những chí sĩ yêu nước trước nhất mở ra trục đường cho sự nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc theo thiên hướng dân chủ tư sản. Mặc dầu sự nghiệp ko thành, nhưng mà ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lòng yêu nước tha thiết và ý chí chiến đấu kiên trì, quật cường. Sinh thời, Phan Bội Châu ko coi văn học là mục tiêu của cuộc đời mình nhưng mà trong công đoạn hoạt động cách mệnh, ông đã chủ động nắm lấy thứ vũ khí tinh khí sắc bén đó để tuyên truyền, cổ động, cổ vũ ý thức yêu nước của đồng bào ta. Năng khiếu văn học, bầu tâm huyết sục sôi cùng sự trải đời trong bước đường cách mệnh là cơ sở để Phan Bội Châu biến thành 1 nhà văn, thi sĩ mập với những tác phẩm tuyệt vời như: Việt Nam vong quốc sử [1905], Hải ngoại huyết thư [1906], Ngục trung thư [1914], Trùng Quang tâm sử [1913 -1917], Phan Bội Châu niên biểu [1929]… 5 1904, ông cùng các đồng đội của mình lập ra Duy Tân hội. 5 1905, hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để sẵn sàng lực lượng cốt cán cho cách mệnh và tranh thủ sự tương trợ của các thần thế bên ngoài. Trước khi lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để giã từ bè bạn, đồng đội. Phiên âm chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì,Khẳng hẹn càn khôn tự vận động.Ư bách niên trung tu hữu ngã,Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,Thiên trùng bạch lãng đồng loạt phi. Dịch thơ: Làm trai phải lạ ở trên đời,Há để càn khôn tự chuyển dời.Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,Sau này muôn đời, há ko người nào?Non sông đã chết, sống thêm nhục,Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. Bằng giọng thơ nhiệt huyết có sức biến chuyển mạnh bạo, Lưu biệt lúc xuất dương đã khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mệnh Phan Bội Châu, với tư tưởng mới mẻ, táo tợn, bầu tâm huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Bài thơ mở màn bằng việc khẳng định chí làm trai: Làm trai phải lạ ở trên đời,Há để càn khôn tự chuyển dời. Câu thơ chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì. Hai từ hi kì có tức là hiếm, lạ, khác lạ cần được hiểu như những từ nói về thuộc tính mập lao, trọng đại, kì vĩ của công tác nhưng mà kẻ làm trai phải đảm trách. Đây cũng là lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thời phong kiến. Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã nhắc đến tới chí làm trai trong thơ ca. Phạm Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn: Công danh nam tử còn vương nợ,/ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu [Tỏ lòng]. Trong bài Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ khẳng định: Đã mang tai mang tiếng ở trong trời đất,/ Phcửa ải có danh gì với sông núi… và nhấn mạnh: Chí làm trai nam, bắc, tây, đông/ Cho phỉ sức vùng vẫy trong 4 bể [Chí khí người hùng]. Chí làm trai của Phan Bội Châu thuyết phục lứa tuổi trẻ thời bấy giờ ở sự táo tợn, quyết liệt và cảm hứng lãng mạn nhiệt liệt bay bổng. Với ông, làm trai là phải làm được những điều lạ, tức những việc hiển hách phi thường. Câu thơ thứ nhất khẳng định điều ấy. Câu thơ thứ 2 mang ngữ điệu cảm thán bổ sung cho ý của câu thứ nhất: Kẻ làm trai phải can hệ vào việc xoay chuyển càn khôn, chuyển đổi thời thế chứ chẳng phải chỉ giương mắt ngồi nhìn thời cục thay đổi, yên phận thủ thường, chấp thuận mình là kẻ đứng ngoài. Thực ra, đây là sự nối tiếp khát vọng của đối tượng trữ tình trong bài Chơi xuân: Giang sơn còn thêu dệt mặt đại trượng phu,/ Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. Chân dung đối tượng trữ tình trong bài Lưu biệt lúc xuất dương hiện lên khá rõ qua 2 câu đề. Ấy là 1 con người mang tầm vóc vũ trụ, tự tinh thần rằng mình phải có phận sự đảm trách những trọng trách mập lao. Con người đó dám đương đầu với cả càn khôn, vũ trụ để tự khẳng định mình. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên trên cái mộng công danh bấy lâu thường gắn liền với tam cương, ngũ thường của Nho giáo để vươn đến lí tưởng xã hội bao la và cao cả hơn nhiều. Cảm hứng và ý nghĩ ấy phần nào xuất hành từ lí tưởng trí quân, trạch dân của các nhà Nho thuở trước nhưng mà văn minh hơn vì mang thuộc tính cách mệnh. Theo quy luật, hoá công xoay vần vốn là lẽ thường tình, nhưng mà Phan Bội Châu ủ ấp khát vọng chủ động xoay chuyển càn khôn, chứ ko để cho nó tự chuyển vần. Cũng có tức là ông ko chịu khuất phục trước số mệnh, trước tình cảnh. Lí tưởng văn minh đó đã tạo cho đối tượng trữ tình trong bài thơ 1 tầm vóc mập lao, 1 tư thế hiên ngang, ngạo nghễ thử thách với càn khôn. Hai câu thực trình bày tinh thần về phận sự tư nhân của thi sĩ, cũng là nhà cách mệnh đi đầu trước cuộc đời: Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,Sau này muôn đời, há ko người nào? Câu thứ 3 ko chỉ dễ ợt công nhận sự có mặt của đối tượng trữ tình ở trên đời nhưng mà còn hàm chứa 1 tâm niệm: Sự hiện diện của ta chẳng phải là 1 sự kiện trùng hợp, vô dụng; thành ra, ta phải làm 1 việc gì ấy mập lao, có ích cho đời. Câu thứ tư có tức là nghìn 5 sau, có lẽ nào, chẳng có người nối liền công tác của người đi trước. “Cái tôi công dân” của tác giả đã được đặt ra giữa giới hạn trăm 5 của đời người và nghìn 5 của lịch sử. Sự khẳng định cần có tớ chẳng phải với mục tiêu hưởng lạc nhưng mà là để hiến dâng cho đáng mặt đại trượng phu và lưu danh hậu thế. Câu hỏi tu từ cũng là 1 cách khẳng định mãnh liệt hơn khao khát hiến dâng và nhận thức đúng mực của tác giả: Lịch sử là 1 dòng chảy liên tiếp, cần có sự góp mặt và đảm trách của nhiều lứa tuổi nối liền nhau. Trong 4 câu thơ đầu, những hình ảnh kì vĩ của tự nhiên như càn khôn, trăm 5, muôn đời đã trình bày cảm hứng lãng mạn bay bổng, chính là nguồn cội sức mạnh niềm tin của đối tượng trữ tình. Ở những 5 đầu thế kỉ XX, sau thất bại liên tục của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, 1 nỗi bi lụy, bế tắc đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam yêu nước. Tâm lí yên phận thủ thường lan rộng. Trước tình hình ấy, bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương có ý nghĩa như 1 hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước, cổ vũ mọi người đứng lên chống giặc ngoại xâm. Trong 2 câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào tình cảnh thực tiễn của lịch sử đương thời: Non sông đã chết, sống thêm nhục,Hiền thánh còn đâu học cũng hoài. Lẽ nhục – vinh nhưng mà tác giả đặt ra gắn liền với sự tồn vong của non sông và dân tộc: Non sông đã chết, sống thêm nhục. Ý nghĩa của nó tương đồng với ý kiến: Chết vinh còn hơn sống nhục trong thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX. Câu thơ thứ 5 bộc bạch 1 thái độ dứt khoát, được trình bày bằng tiếng nói đậm khẩu khí người hùng, bằng sự đối lập giữa sống và chết. Ấy là khí tiết cương cường, quật cường của những con người ko cam chịu cuộc đời bầy tớ tủi hổ. Ý thơ mới mẻ mang thuộc tính cách mệnh. Ở câu thứ 6, Phan Bội Châu đã ngay thẳng bộc bạch quan điểm trước 1 thực tiễn đau xót là tác động của nền giáo dục Nho giáo đối với hoàn cảnh sơn hà khi bấy giờ. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho nên nếu cứ bo bo đeo đuổi thì chỉ hoài công vô dụng nhưng mà thôi. Hẳn nhiên, Phan Bội Châu chưa hoàn toàn phủ nhận cả nền học thức Nho giáo, nhưng mà đưa ra 1 thẩm định như thế thì quả là táo tợn đối với 1 người từng là môn đồ của chốn cửa Khổng sân Trình. Dũng khí và nhận thức minh mẫn ấy đầu tiên bắt nguồn từ lòng yêu nước tha thiết và khát vọng cháy bỏng muốn tìm ra trục đường đi mới để đưa sơn hà thoát khỏi cảnh bầy tớ lầm than. Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy tân, nghĩa là học hỏi những tư tưởng cách mệnh mới mẻ và văn minh. Bài thơ ko thuần tuý là chỉ để bộc bạch ý chí nhưng mà thực thụ là 1 cuộc lên đường của đối tượng trữ tình: Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. Các hình ảnh kì vĩ trong 2 cấu kết mang tầm vũ trụ: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả như hòa nhập làm 1 với con người trong tư thế bay lên. Trong nguyên tác, 2 câu 7 và 8 kết hợp với nhau để hoàn chỉnh 1 tứ thơ đẹp: Con người đuổi theo ngọn gió mập qua biển Đông, cả vũ trụ rộng lớn Muôn lớp sóng bạc cùng bay lên [Thiên trùng bạch lãng đồng loạt phi]. Tất cả tạo thành 1 bức tranh hoành tráng nhưng mà con người là trung tâm được chắp cánh bởi khát vọng mập lao, bay bổng lên trên thực tại u tối hà khắc, lồng lộng giữa trời biển mênh mang. Bên dưới đôi cánh đại bàng ấy là muôn trùng sóng bạc dâng cao, bọt tung trắng xóa, chừng như muốn tiếp sức cho con người bay thẳng đến chân mây ước mơ. Hình ảnh đậm chất sử thi này đã thắp sáng niềm tin và hi vọng cho 1 lứa tuổi mới trong thời đại mới. Thực tế thì cuộc ra đi của Phan Bội Châu là 1 cuộc ra đi bí hiểm, tống biệt chỉ có vài 3 đồng đội thân thiện nhất. Dù phía trước chì mới le lói vài tia sáng của mong ước, nhưng mà người ra đi tìm đường cứu nước vẫn hăm hở và đầy tin cậy. Sức thuyết phục, hấp dẫn của bài thơ chính là ở ngọn lửa vồ vập đang bừng cháy trong lòng đối tượng trữ tình. Bài thơ đã thể hiện ảnh tượng người người hùng trong buổi lên đường xuất dương lưu biệt với tư thế kì vĩ, sống ngang tầm vũ trụ. Người người hùng đó tinh thần rất rõ ràng về “cái tôi công dân” và luôn khắc khoải, day dứt trước sự tồn vong của tổ quốc, dân tộc. Bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương được viết theo văn pháp ước lệ và phóng đại, rất thích hợp với mục tiêu khích lệ, cổ vũ. Giọng thơ vừa sâu lắng, da diết, vừa sục sôi, hào hùng, mang âm hưởng tráng ca. Nỗi đớn đau, niềm sáng sủa, vồ vập hành động cùng tư tưởng cách mệnh đã thổi hồn vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh trong bài thơ. Âm hưởng hào hùng của bài thơ có sức biến chuyển, thức tỉnh rất mập đối với mọi người. Đây là bài thơ từ giã nhưng mà cũng là lời kêu gọi, hối thúc lên đường. Tầm vóc bài thơ hoàn toàn cân xứng với tầm vóc của 1 con người được cả dân tộc mến mộ và tin cậy. Trong tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu [1925] tác giả Nguyễn Ái Quốc đã tôn vinh Phan Bội Châu là: bậc người hùng, vị thiên sứ, đấng lao vào vì độc lập được 2 mươi triệu đồng bào trong khoảng bầy tớ tôn sùng. 5. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 4 Những 5 đầu thế kỉ XX, trong khi non sông Việt Nam mất đi chủ quyền, phong trào Cần Vương thất bại thì tư tưởng dân chủ tư sản đã thổi 1 luồng gió mới tới các thanh niên yêu nước. Họ tìm thấy những lí tưởng mới mẻ và ra đi với 1 niềm tin mạnh bạo vào dân tộc. 1 trong những nhà cách mệnh đã có cuộc ra đi hào hùng tương tự là Phan Bội Châu. Trước lúc lên đường sang Nhật Bản, ông đã viết bài thơ “Lưu biệt lúc xuất dương” như 1 lời từ giã. Đây là 1 bài thơ rực rỡ trong kho tàng văn thơ của Phan Bội Châu. “Làm trai phải lạ ở trên đờiHá để càn khôn tự chuyển dời” Hai câu đầu mở ra 1 quan niệm mới về chí làm trai và vị thế của con người trong xã hội. Đã làm đại trượng phu thì phải sống thật phi thường, hiển hách, dám mưu đồ sự nghiệp, dám xoay chuyển “càn khôn”, dám chủ động chống chọi với thách thức chứ ko sống tiêu cực, tẻ nhạt và phổ biến. Con người phải khẳng định được địa điểm của mình trong cuộc đời chứ ko đầu hàng trước số mệnh. Cũng giống như Nguyễn Công Trứ từng dõng dạc: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phcửa ải có danh gì với sông núi”. Như vậy, Phan Bội Châu đã biểu hiện 1 tư tưởng, 1 lẽ sống cao đẹp và văn minh. Từ ấy tác giả tinh thần: “Trong khoảng trăm 5 cần có tớSau này muôn đời, há ko người nào?” Quan niệm mới đã tạo nên nên tinh thần tư nhân gắn với 1 “cái tôi” đầy phận sự trước thời thế. Nhà thơ khẳng định về sứ mạng cao cả, thiêng liêng của mình giữa cuộc đời, tinh thần thâm thúy và phận sự mập lao của bản thân. Không phải chỉ sống 1 cuộc sống nhạt nhòa, bằng lặng nhưng mà phải sống hiến dâng, hiên ngang, hiển hách để đánh dấu tăm tiếng với hậu thế. Câu thơ thứ tư phủ định chính là để khẳng định dứt khoát hơn về lẽ sống của mình. Những hình ảnh thơ bự mập, kỳ vĩ như “càn khôn”, “trăm 5”, “muôn đời” đã góp phần làm nổi trội lên khao khát sống, hiến dâng của tác giả. Không chỉ tinh thần được phận sự của mình, Phan Bội Châu còn biểu hiện thái độ cương quyết của mình trước thời cục: “Non sông đã chết, sống thêm nhụcHiền thánh còn đâu, học cũng hoài” Bằng tình yêu nước cháy bỏng và đôi mắt tinh tế của mình, Phan Bội Châu đã nhận thức rõ hơn về tình hình non sông khi bấy giờ. Lẽ vinh – nhục được đặt ra như 1 nỗi đau đáu của người đại trượng phu trước hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Cũng như những nhà cách mệnh khác, ông cũng trằn trọc về trục đường mai sau của dân tộc, phải làm sao để cứu được non sông. Ông đã tỉnh ngủ trông thấy thực tiễn: non sông mất đi chủ quyền, “hiền thánh” cũng chẳng thể làm gì được. Ở câu này, bản dịch thơ chưa sát lắm so với nguyên tác. Bản nguyên tác đã nói lên thái độ dứt khoát, mạnh bạo của Phan Bội Châu: “Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!”. Không phải ông hoàn toàn mất niềm tin ở học thức Nho giáo nhưng mà ông đã minh mẫn nhìn thu được những giảm thiểu của nó. Ấy 1 phần là nhờ vào sự tác động của tư tưởng dân chủ tư sản được truyền vào nước ta. Đứng trước tình hình ấy, Phan Bội Châu đã dấy lên những khát vọng cuồng nhiệt, quyết liệt: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gióMuôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” Hai câu thơ cuối đã vẽ ra tư thế hiên ngang, hào hùng và ko kém phần lãng mạn của người ra đi tìm đường cứu nước. Những hình ảnh thơ mập lao, kì vĩ liên tiếp hiện ra: “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”,… đã góp phần tô đẹp tư thế và khát vọng của con người buổi lên đường. Tuy nhiên, ở bản dịch thơ vẫn chưa làm nổi trội được hết vẻ đẹp của bức tranh này. “Tiễn ra khơi” chỉ là 1 cuộc tống biệt tầm thường như bao cuộc tống biệt khác, “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” mới trình bày đầy đủ và toàn vẹn 1 bức tranh hoành tráng với hình tượng trung tâm là con người, bao quanh là vũ trụ bao la cùng chắp cánh cho mong ước của con người. Trên thực tiễn, đây là cuộc ra đi khá thầm lặng, bí hiểm, nhưng mà qua bài thơ, tác giả đã trình bày 1 tư thế vô cùng hiên ngang, tự tin vào tiền trình của non sông. Ấy được xem là 1 hình ảnh đẹp trong văn chương, 1 hình ảnh vừa giàu chất sử thi lại vừa hòa quyện với cảm hứng lãng mạn. Bài thơ được bình chọn là 1 trong những thi phẩm có sức hấp dẫn mạnh bạo. Không chỉ với tư tưởng và quan niệm mới mẻ nhưng mà còn những nét nghệ thuật rực rỡ. Thi phẩm được viết với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật thích hợp với việc “nói chí” của Phan Bội Châu. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, mập lao góp phần lột tả toàn vẹn những khát vọng hành động và tinh thần phận sự của tác giả. Giọng thơ linh động, sôi nổi và mạnh bạo. Như vậy, cả bài thơ đã xây dựng được hình tượng người chí sĩ cách mệnh với vẻ đẹp hào hùng lãng mạn. Bằng tâm huyết và tình yêu nước sâu nặng của mình, Phan Bội Châu đã ko chỉ biến thành 1 nhà cách mệnh nhưng mà còn biến thành 1 văn sĩ mập của dân tộc, đáng được thiên hạ sau tôn kính. 6. Phân tích bài Lưu biệt lúc xuất dương ngắn gọn Phan Bội Châu được đề cập là người trước nhất trong lịch sử Việt Nam có tinh thần dùng văn học để chuyển động, tuyên truyền cách mệnh. Ông cũng chính là người khơi dòng cho loại văn học trữ tình chính trị. Trong ấy, bài thơ “Lưu biệt lúc xuất dương” là 1 tác phẩm điển hình. Đây là bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết nhưng mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bè bạn, đồng đội trước khi lên đường sang Nhật Bản 5 1905. “Lưu biệt lúc xuất dương” đã trình bày ý nghĩ mập lao, mới mẻ đầy phận sự của tác giả, trình bày niềm hăm hở, phấn đấu cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”. Chí làm trai đã được đề cập trong văn chương từ thời xa xưa nhưng mà đặc thù được đề cao ở thời gian cơ chế phong kiến, thời gian đạo Nho tăng trưởng mạnh bạo. Nam nhi phải có công danh, sự nghiệp thì mới đáng làm trai. Chẳng vậy nhưng mà trong bài thơ “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão đã viết: “Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết: “Chí làm trai nam, bắc, tây, đôngCho phỉ sức vùng vẫy trong 4 bể”. Muốn biến thành bậc đại trượng phu được mọi người xác nhận thì phải biết nỗ lực, lập được công tích, có được danh vọng, có sức vóc “vùng vẫy” khắp 4 bể để chứng minh tài năng, khả năng của bản thân. Kế thừa tư tưởng đó của Nho giáo, Phan Bội Châu đã đưa ra 1 ý kiến về chí làm trai như 1 tuyên ngôn đầy khí thế: “Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,Khẳng hẹn càn khôn tự vận động”. Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải “lạ”, có tức là phải sống khác mọi người, ko được giống với bất kì người nào để hình thành điểm biệt lập. “Lạ” cũng có tức là điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất. Ấy là lối sống chủ động, ko chùn bước, nản lòng để mặc cho tình cảnh chi phối nhưng mà phải có khả năng để chi phối tình cảnh. Nhân vật trữ tình dám đương đầu với càn khôn, đất trời, vũ trụ để tự khẳng định bản thân, nỗ lực đạt được giấc mộng công danh. Phan Bội Châu ủ ấp khát vọng xoay chuyển được càn khôn chứ ko để “càn khôn tự chuyển dời”. Ông ko đầu hàng, khuất phục trước số mệnh, tình cảnh nhưng mà dùng chính bản lĩnh của mình để chỉnh sửa tình cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của 1 đấng đại trượng phu hiên ngang trong vũ trụ, dám ngão nghệ và thử thách với trời đất. Con người mang tầm vóc mập lao, tầm vóc vũ trụ đó luôn mang trong mình tinh thần, phận sự của tư nhân trước thời cục: “Ư bách niên trung tu hữu ngã,Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy” Trong cuộc đời trăm 5 hữu hạn, Phan Bội Châu muốn hiến dâng sức mình cho non sông, làm nên những công tích phi thường, mập lao để xứng đáng làm 1 đại trượng phu lưu danh vào thiên cổ nghìn 5. Tác giả đã tự khẳng định bản thân mình, đây là cái tôi mang đầy phận sự, chủ động hăng hái chứ chẳng phải cái tôi vị kỉ, chỉ biết lo nghĩ cho ích lợi của tư nhân. Ở 2 câu thực có sự đối nhau hài hòa giữa sự vô biên của thời kì và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu dùng cái phủ định để làm nền, làm nổi trội lên điều ông khẳng định. Ông muốn làm những điều phi thường, lưu lại tăm tiếng của mình trong sử sách để ko hổ hang với chí làm trai nhưng mà mình đã lấy làm lí tưởng sống. Hiến dâng cho đời vừa là trách nhiệm vừa là phận sự của bậc lang quân. Trong 1 trăm 5 hữu hạn đó, người đại trượng phu phải tiến hành được chí làm trai và cũng trong nghìn 5 sau ấy phải để lại được tiếng thơm cho đời. Hai câu thơ như lời hối thúc khơi dậy ý thức lao vào vì nghĩa mập của con người, đặc thù là những thanh niên trai tráng phải góp vô cùng mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc. Gắn với tình cảnh thực tại của non sông, Phan Bội Châu đã nêu lên phận sự nhưng mà người đại trượng phu cần có đối với vận mệnh dân tộc: “Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si” Quốc gia bị xâm lăng, tổ quốc cũng ko còn nữa thì ta có sống cũng chỉ chuốc lấy sự điếm nhục, ê chề. Sách vở, người có học vấn cũng biến thành bất nghĩa lúc chủ quyền non sông bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên bậc nhất bởi ông tinh thần được thời cục. Sách vở cũng ko có ý nghĩa gì lúc nước mất nhà tan. Việc làm quan trọng và thiết thực nhất khi bấy giờ là tìm được trục đường, hướng đi cho non sông để thoát khỏi sự xâm lăng, bóc lột của thực dân Pháp. Phan Bội Châu là 1 người tình nước và ông cũng mong rằng phong trào Đông du do mình chỉ đạo sẽ gặt hái được nhiều thành tích giúp ích cho sơn hà. Kế bên ấy, 2 câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là khi để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc. 7. Phân tích Xuất dương lưu biệt Phan Bội Châu [1867-1940], ôi cái tên đẹp 1 thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của dân chúng Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là 1 đối tượng lớn lao” [Tôn Quang Phiệt]. Phan Bội Châu là vong linh của các phong trào chuyển động giải phóng Đất nước khoảng 25 5 đầu thế kỉ XX. Tăm tiếng ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tăm tiếng Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, 1 số bài văn tế và vài 3 vở tuồng chan chứa tình yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” [Tố Hữu]. 5 1900, Phan Bội Châu đậu hương nguyên khoa thi Hương trường Nghệ 5 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, 1 tổ chức yêu nước. 5 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Theo chủ trương của Duy Tân hội do chính ông sáng lập, ông mở màn sang Nhật để tìm đường cứu nước. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” ông làm tặng các đồng đội trong buổi đầu lên đường. Có thể nói bài thơ này như 1 mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. “Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu thị tư thế, phấn đấu hăm hở, và những ý tưởng cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước. Hai câu để là 1 tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả: “Sinh vi nam tử yếu hi kìKhẳng hẹn càn khôn tự vận động” Kiêu hãnh mình là đấng đại trượng phu thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên “điều lạ” [yêu hi kì]. Suy rộng ra, là chẳng thể sống phổ biến. Không thể sống 1 cách tiêu cực cho trời đất [càn khôn] “tự chuyển dời” 1 cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ trình bày 1 tư thế, 1 tâm thế đẹp về chí đại trượng phu, tự tin ở chừng độ, tài năng của mình muốn làm nên sự nghiệp bự mập, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong 1 bài thơ khác: “Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,Mở mồm cười tan cuộc oán thù thù”. Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh hết sức sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm thu được cái khẩu khí người hùng của nhà chí sĩ lớn lao. Đấng đại trượng phu muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời, từng nấu nung và tâm niệm theo 1 vần thơ cổ: “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,Lập thân tối hạ thị văn học” [“Tùy viên thi thoại” – Viên Mai] Đấng đại trượng phu muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời đó có 1 “bầu máu hot” sục sôi: “Tôi được trời phú cho bầu máu hot cũng ko tới nỗi ít, khi còn nhỏ đọc sách của cha tôi, mỗi lúc đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành đạo nhân, nước mắt lại tầm tã bé xuống ướt sũng cả giấy…” [Ngục trung thư]. Phần thực, ý thơ được mở mang, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử: “Ư bách niên trung tu hữu ngã,Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy” “Ngã” là ta: “tu hữu ngã” tức là phải có ta trong cuộc đời “1 trăm 5 ” [bách niên trung]. Câu thơ khẳng định, biểu thị niềm kiêu hãnh mập lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” ngàn 5 sau, là lịch sử của non sông và dân tộc há lại ko có người nào [để lại tăm tiếng] ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi trội điều khẳng định. Ấy là 1 ý thơ thâm thúy trình bày vai trò tư nhân trong lịch sử: chuẩn bị đảm trách mọi phận sự nhưng mà lịch sử phó thác. Ý nghĩ đẹp tươi này là sự kế thừa những tư tưởng lớn lao của các vĩ nhân trong lịch sử: “… Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”. [“Hịch tướng sĩ’ – Trần Quốc Tuấn] “… Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. [Văn Thiên Tường] Lấy cái hữu hạn “bách niên” của 1 đời người đối với cái vô biên “thiên tải” của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã hình thành 1 giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu thị 1 phấn đấu và khát vọng trong buổi lên đường. Vì vậy, trên bước đường cách mệnh giải phóng dân tộc, trải qua muôn nghìn thách thức và nguy khốn, ông vẫn quật cường, sáng sủa.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin có ích khác trên phân mục Tài liệu của Ôn Thi HSG VN.

TagsVăn học

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#mẫu #phân #tích #Lưu #biệt #lúc #xuất #dương #hay #nhất

7 mẫu phân tách Lưu biệt lúc xuất dương hay nhất

Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – Hoatieu xin san sẻ tới các bạn dàn ý phân tách Lưu biệt lúc xuất dương và các bài văn mẫu phân tách bài Lưu biệt lúc xuất dương của tác giả Phân Bội Châu hay và cụ thể. Mời các bạn cùng tham khảo.

Top 8 mẫu phân tách bài Phú sông Bạch Đằng siêu hay

1. Dàn ý phân tách bài Lưu biệt lúc xuất dương 1. Mở bài: Trình bày nói chung những nét cốt yếu nhất về cuộc đời và sự nghiệp Phan Bội Châu: Đôi nét về cuộc đời hoạt động cách mệnh và sự nghiệp văn học… Giới thiệu nói chung nội dung và nhấn mạnh tầm quan trọng của bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương: Bài thơ đó là điển hình cho ý thức yêu nước của chính tác giả 2.Thân bài: – Phân tích 2 câu thơ đầu [2 câu đề]: Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu + Tác giả nêu lên quan niệm mới: là đấng đại trượng phu phải sống với khát vọng, mong muốn làm nên điều kì dị : “ yếu hi kì”, ko cam chịu để cho trời đất xoay chuyển mình. ⇒ Tư thế, 1 tâm thế đẹp về chí đại trượng phu phải tin cậy ở chừng độ và tài năng của mình ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai. – Hai câu thực: Khẳng định tinh thần phận sự của tư nhân trước thời cục + Câu 3: “Tu hữu ngã” [phải có trong cuộc đời] → tinh thần phận sự của cái tôi tư nhân trước thời cục, tinh thần rõ vai trò, tầm quan trọng của tư nhân đối với vận mệnh trăm 5. Điều này đối lập với sự tự kiêu tư nhân. + Câu 4: Tác giả lại chuyển giọng nghi vấn “cánh vô thùy” [há ko người nào?] ⇒khẳng định kiên quyết hơn khát vọng sống hiển hách, phi thường, phát huy hết tài năng trí não hiến dâng cho đời. → Tinh thần thâm thúy trình bày vai trò tư nhân trong lịch sử: chuẩn bị đảm trách mọi phận sự nhưng mà lịch sử phó thác. – Hai câu luận : Quan niệm về nguyên lý hành xử mới của Phan Bội Châu trước vận mệnh non sông + Cảnh ngộ non sông: “Non sống đã chết”, non sông đã rơi vào tay giặc + Quan niệm mới mẻ, đối lập với các tín điều xưa cũ: tinh thần về lẽ vinh nhục gắn với sự tồn vong của non sông: “sống thêm nhục : “Hiền thánh còn đâu cũng học hoài” + Người cách mệnh cảm nhận sự tồn vong của mình trong mối quan hệ trực tiếp với sự tồn vong của dân tộc ⇒ hành động linh hoạt, luôn tiếp nhận những tư tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên bậc nhất, đối lập với ý kiến cứu nước bê trệ, lỗi thời của các nhà Nho đương thời. – Hai cấu kết: Tư thế và khát vọng buổi lên đường + Tư thế lên đường của người chí sĩ thật sự hoành tráng: “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ Tiên trùng bạch lãng đồng loạt phi” + Những hình tượng kì vĩ được sử dụng: “trường phong”- ngọn gió dài, mập; “Thiên trùng bạch lãng” [nghìn lớp sóng bạc] ⇒ Tư thế hiên ngang, mong muốn mập lao mang tầm vũ trụ của người cách mệnh. ⇒ Tầm vóc của ý chí con người đã mập lao hơn, ko cam chịu trói mình trong phạm vi, vượt ra ngoài vòng kiểm tỏa III. Kết bài: Khái quát về những nét rực rỡ nghệ thuật đem đến thành công cho tác phẩm.

Khẳng định lại nội dung tư tưởng của tác phẩm và liên hệ về ý chí, khát vọng của con người trong thời đại ngày nay.

2. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 1 Phan Bội Châu [1867-1940], quê tại Làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ngay từ bé ông đã trình bày là mình là 1 người tài giỏi xuất chúng, lại sớm có lòng yêu nước và tinh thần về việc giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu cũng là 1 người mang quan niệm nhập thế hăng hái hết sức thâm thúy, nặng lòng với nghiệp công danh cùng món nợ của phận đại trượng phu. Ông tham dự hăng hái vào nhiều phong trào chống Pháp và sau nhiều lần thất bại rốt cuộc ông đã nhận thức được sự sai trái, yếu kém trong cá tính tổ chức của các phong trào yêu nước thời bấy giờ, từ ấy đề ra chủ trương cứu nước theo trục đường tư sản. Ông nấu nung ý định cho các thanh niên ưu tú của sơn hà sang các nước như Nhật Bản, Trung Quốc để học hỏi rồi trở về tương trợ non sông, còn gọi là phong trào Đông Du, với tên gọi tổ chức là Duy Tân hội. Sự văn minh trong tư tưởng cứu quốc của Phan Bội Châu chừng như đã mở ra 1 trục đường sáng cho cách mệnh Việt Nam giai đoạn đầu, vào những 5 cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, dẫu rằng kết quả ko như mong chờ. Kế bên vai trò là 1 nhà hoạt động cách mệnh tuyệt vời, có nhiều đóng góp bự mập trong công cuộc giải phóng non sông thì Phan Bội Châu còn được biết tới với nhân cách là 1 thi sĩ, nhà văn mập trong nửa đầu thế kỷ 20, với số lượng tác phẩm mập, được xem là người mở màn cho nền văn chương cách mệnh Việt Nam, nhưng mà sau Tố Hữu chính là người đưa nó bước đến đỉnh cao. Lưu biệt lúc xuất dương là 1 bài thơ điển hình cho cá tính sáng tác của Phan Bội Châu, nó ko chỉ thuần tuý là 1 bài thơ trình bày lý tưởng cách mệnh của chí sĩ yêu nước, nhưng mà còn ghi lại mốc quan trọng mở màn công cuộc tìm đường cứu nước theo chủ nghĩa tư bản của thi sĩ. Lưu biệt lúc xuất dương được viết vào 5 1905, trước lúc Phan Bội Châu cùng 1 số thanh niên ưu tú khác lên tàu vượt biển sang Nhật Bản học tập. Tác phẩm có ý nghĩa cổ vũ, khích lệ ý thức cho người ra đi, cùng lúc cũng có tính năng củng cố ý thức, niềm tin, hướng người hầu lại về 1 mai sau tốt đẹp hơn, sáng lạn hơn của non sông. Thể hiện được rõ chí khí làm trai của 1 nhà nho, với ý thức yêu nước thâm thúy, phấn đấu trả món nợ công danh cho đời lúc Đất nước lâm nguy, lịch sử có nhiều bất định. Trong 2 câu thơ đầu tác giả đã trình bày rất rõ ý kiến của mình về chí làm đại trượng phu trong thời đại mới, 1 thời đại đầy bất định, buộc con người ta phải có những chuyển đổi về ý chí để kiến lập 1 trục đường riêng cho bản thân và cho dân tộc, non sông nhưng mà vẫn giữ được khí tiết của 1 nhà nho chân chính, trong vai trò 1 nhà cách mệnh sôi nổi. “Làm trai phải lạ ở trên đờiHá để càn khôn tự chuyển dời” Phan Bội Châu quan niệm rằng thân đại trượng phu “vai 5 tấc rộng, thân mười tấc cao” sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, nghĩa là ko cam chịu cuộc sống tầm thường mờ nhạt, quẩn quanh bên chốn “ao tù nước đọng”, nhưng mà phải tự khiến cho mình có điểm nổi bật, nổi trội phê chuẩn những lý tưởng cao đẹp, những mong ước và hy vọng mập, tráng chí ở 4 phương. Người đại trượng phu phải dám tự thử thách bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được trở lực chi ly, được mất, vượt ra khỏi mọi giới hạn mực thước 1 cách mạnh bạo và can đảm, để đạt được những thành công mập, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác biệt nhưng mà hiếm kẻ làm được. Để “thà 1 phút huy hoàng rồi vụt tắt/Còn hơn le lói suốt trăm 5”, để cuộc đời đại trượng phu sống sao cho xứng với 2 chữ “đại trượng phu”, có hiến dâng cho cuộc đời, trả cho kỳ được món nợ công danh, chớ để hoài phí 1 cuộc đời mờ nhạt bất nghĩa. Cái quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới của Phan Bội Châu tiếp diễn được làm rõ phê chuẩn câu “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh bạo, thái độ hiên ngang, ý muốn thử thách, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời 1 cách quyết liệt và mạnh bạo. Chứ chẳng phải là ý muốn cuộc sống thảnh thơi, chấp thuận sự xếp đặt của tạo hóa, biểu hiện khẩu khí mạnh bạo, ngang tàn của bậc nam nhi, mang khí thế tự tin, táo tợn và hiên ngang hết sức. Ý thơ của Phan Bội Châu ko chỉ nằm ở việc trình bày tráng chí của bản thân nhưng mà kế bên ấy còn mang ý nghĩa cổ vũ các thanh niên trong thời đại mới, biết đứng lên tự lực, tự cường, đeo đuổi lý tưởng cao đẹp, phụng sự cho Đất nước, nâng tầm vóc của bản thân mình ngang tầm vũ trụ, tạo hóa, rũ bỏ cuộc đời phổ biến, quẩn quanh ao vườn, ruộng cá, để kiến thân lập nghiệp. Trong 2 câu thơ tiếp “Trong khoảng trăm 5 cần có tớ/Sau này muôn đời há ko người nào” chính là nhận thức của tác giả về phận sự của người làm trai với non sông, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền. Đặc trưng là trong thời buổi lịch sử dân. tộc có nhiều chuyển đổi, giặc dữ nhăm nhe xâm phạm chủ quyền thì thanh niên lại càng phải biết đứng ra phụng sự cho Đất nước. Tác giả đã vẽ ra khoảng thời kì “trăm 5”, trước là hàm ý chỉ về 1 kiếp người như quan niệm của cha ông ta từ bao đời nay, 1 đời tức chỉ trăm 5. Thứ 2 nữa khoảng thời kì trăm 5 còn là để gợi nhắc về 1 thế kỷ bất định của dân tộc, sự thế đã biết bao lần thay đổi, sự suy vong của cơ chế phong kiến, sự xâm lăng của đế quốc phương Tây khiến dân chúng biết bao phen lầm than. “Trong khoảng trăm 5 cần có tớ” là hàm ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ non sông. Nhưng người làm trai, sức dài vai rộng trong giữa sự xếp đặt của tạo hóa, đã ban cho ta 1 khoảng thời kì đầy bất định, thì bản thân người chí sĩ phải làm sao cho xứng với sự hy vọng của tạo hóa, cũng như xứng đáng với cái danh đại trượng phu của mình. Ví như câu trước là khẳng định tầm quan trọng của đấng đại trượng phu trước thời cục, là sự nhận thức về lý tưởng cũng như vai trò của bản thân với non sông thì câu thơ “Sau này muôn đời há ko người nào?” lại là 1 câu hỏi ngỏ, trình bày sự hy vọng, cũng như sự cổ vũ của tác giả đối với tầng phân khúc lớp các lứa tuổi thanh niên và tương lai nữa. Phan Bội Châu đã dùng chính tráng chí, lý tưởng cao đẹp của mình làm tấm gương sáng, cũng như đặt những bước chân trước nhất cho trục đường cách mệnh đương đại của dân tộc, của thanh niên Việt Nam. Thức tỉnh trong họ những nhận thức về ý thức cách mệnh, lòng yêu nước, tinh thần phận sự của người thanh niên, và sự tự tin chuẩn bị đương đầu với sóng gió của bậc nam nhi. Tới 2 câu thơ luận, Phan Bội Châu lại cho chúng ta thấy tầm nhận thức tiến bộ của 1 nhà nho yêu nước, 1 nhà cách mệnh kiểu mới trước tình hình dân tộc, trước sự suy thoái của cơ chế phong kiến và nền nho học đang dần mất đi vị thế vốn có của mình. “Non sông đã mất sống thêm nhụcHiền thánh còn đâu học cũng hoài” “Non sông đã chết” ấy là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền cương vực và sự suy vong của cơ chế phong kiến, non sông lầm than thế nhưng mà bọn đầu sỏ cầm quyền, những con người đứng đầu 1 non sông lại sợ sệt, chỉ dám chui luồn, nịnh hót đám giặc Tây để níu kéo những tháng ngày gấm vóc lụa, là hữu danh vô thực, còn kệ xác số mệnh dân tộc và non sông. 1 non sông nhưng mà ko có chủ quyền, ko có tự do, triều đình phong kiến chỉ là 1 mớ bù nhìn, thối nát tận xương thì còn cách bên bờ bại vong là mấy bước chân nữa đâu. Thế nên tác giả nói “tổ quốc đã chết” cũng chẳng có gì là ko đúng, đặc thù 1 người với tráng chí, với ý thức yêu nước mạnh bạo như Phan Bội Châu thì đứng trước viễn tượng đó thì quả thực là điếm nhục khôn xiết. Tới câu thơ sau “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, người ta lại càng bái phục cái tư cách và nhận thức của Phan Bội Châu. Bởi vốn dĩ Phan Bội Châu là 1 nhà nho chịu tác động rất mạnh bạo từ nền giáo dục phong kiến từ thuở thiếu thời, thế nhưng mà ông ko như 1 số những nhà nho câu chấp ôm bo bo giấc mộng hão huyền về việc phục hưng những thứ vốn đã cũ kỹ, lỗi thời nhưng mà ngược lại ông lại chính là 1 trong những người trước nhất nhìn thẳng vào vấn đề, vạch trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên do khiến non sông lâm vào trạng thái hèn yếu. Không phủ nhận rằng Nho học quả thật là 1 kho tàng bao la, đem lại cho con người sự giáo dục tốt đẹp, thế nhưng mà nhìn vào bối cảnh hiện nay nó chỉ mang lại những sự ảo vọng ko có thực, ko bổ ích trong việc diệt giặc thù, giành lại chủ quyền dân tộc. Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao lăm lâu đó quả thật là nỗi chua xót hết sức mập của tác giả, nhưng mà với tư cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng phấn đấu của 1 chí sĩ yêu nước, thì ko nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Nhưng với nhân cách người làm trai, ông lại càng phải trình bày vai trò phục hưng Đất nước bằng trục đường đương đại chứ chẳng phải là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua. Từ ấy ta thấy được tâm hồn hào phóng, mạnh bạo và tự do của 1 chí sĩ yêu nước chân chính, chuẩn bị hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau tư nhân vì ích lợi của dân tộc, của non sông, để hoàn trả món nợ công danh. Cuối cùng ở 2 câu thơ kết “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm đến chân mây mới, học hỏi những tri thức mới để trở lại phụng sự cho Đất nước, dân tộc với phong độ hiên ngang và tự tin hết sức. Những hình ảnh “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc” đã gợi ra 1 bối cảnh ko gian bao la, phóng khoáng, trình bày tâm hồn yêu đời, cùng những khát vọng, lý tưởng cao mập muốn vươn ra biển mập của người chí sĩ. Tầm vóc con người phát triển thành kì vĩ, mập lao nổi trội hẳn trên cái nền của tự nhiên bởi sự tự hào, tráng chí hùng mạnh bên trong tâm hồn đối tượng trữ tình. Lưu biệt lúc xuất dương là 1 bài thơ hay, có nội dung và ý nghĩa mập, ko chỉ biểu hiện những khát vọng, lý tưởng cao đẹp của 1 nhà hoạt động cách mệnh thời đại mới, nhưng mà còn là lời cổ vũ cổ vũ, khơi dậy ý thức yêu nước, lòng tự trọng dân tộc, cũng như thức tỉnh sự tự tin, lý tưởng và khát vọng cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh non sông có nhiều bất định. Có thể nói rằng Lưu biệt lúc xuất dương là 1 trong những bài thơ mang thiên hướng trữ tình cách mệnh trước nhất, khơi nguồn cho nền văn chương cách mệnh của dân tộc đạt tới đỉnh cao về sau này. 3. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 2 “Thi dĩ ngôn chí” – thơ để nói chí, tỏ lòng. Cho nên tầm vóc của loại thơ này chung cuộc, lệ thuộc vào tầm vóc của chí. Nhưng chí khí chẳng phải là những bộc phát nhất thời, càng chẳng thể là những chí hướng vay mượn. Chí cần phải được bảo đảm bằng nghiệp. Có thể có những sự nghiệp ko thành, nhưng mà sự dang dở đó cũng chứng tỏ về 1 chí mập đã lao vào, chẳng phải thứ chí suông. Chính nó là sự bảo đảm cho thơ. Vì vậy. thơ sẽ chỉ còn là những lời lẽ phô trương sáo rỗng, là sự phóng đại đao bự búa mập rẻ tiền, ví như ko có 1 chí mập, hơn thế ví như chí mập đó ko gắn với 1 cốt cách mập, 1 cuộc đời mập. Tiếng thơ biểu hiện trực tiếp các chí mập bấy lâu thường gắn với những bậc anh kiệt, những đấng lang quân. Thơ của họ là lời tuyên ngôn của cuộc đời họ. Trước lúc họ tạc con người mình vào trong thơ, thì họ đã tạc con người mình vào núi sông. Người đời thường ví họ như chim hồng, chim hộc và đối lập với những chim sẻ, chim ri. Và trong thơ của mình, họ xuất hiện đúng như những cánh đại bàng vùng vẫy trong mênh mang trời biển. Tư thế của họ là tư thế kì vĩ, tư thế vũ trụ, chẳng “Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu’ [Cấp ngang ngọn giáo bảo vệ sơn hà đã mấy. thu – Phạm Ngũ Lão], thì cũng “Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma” [Bao phen mang gươm báu mài dưới trăng – Đặng Dung], chảng “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư” [Kêu bự 1 tiếng làm lạnh cả hư vô – Không Lộ thiền sư] thì cũng “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô” [Nguyễn Hữu cầu]… như thế dã chứa đựng trong ấy hào khí của cả nòi giống. Nằm trong mạch ngôn chí trực tiếp đó, Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là hùng tâm tráng chí của 1 trong những người con ưu tú nhất của giống nòi giống Việt Nam. Thực ra cái quan niệm làm trai ở trong bài thơ này ko phú của riêng Phan Bội Châu. Nó là quan niệm chung về chí làm trai của nhà Nho thuở trước. Và ít ra ta cũng thấy nó từng vang lên rất mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Song, điều đáng nói chính là ở chỗ, chẳng phải Phan Bội Châu đang ném ra cuộc đời 1 quan niệm lí thuyết như 1 người có ý đồ lập thuyết, nhưng mà ông là người đã sống cái quan niệm đó 1 cách đủ đây trước lúc viết thành thơ. Có nhẽ vì vậy nhưng mà Xuất dương lưu biệt ko chỉ chứa đựng 1 lẽ sống nhưng mà đầu tiên là chứa đựng chân dung 1 con người – 1 con người lỗi lạc, kiệt xuất. Hai câu đề: Làm trai phải lạ ở trên đời,Há để càn khôn tự chuyển dời. Tôi ko nghĩ chữ “lạ” trong bản dịch này đã trình bày được hết cái ý thức của chữ “kì”. Bởi chữ “kì” muốn nhắc đến cái điều: làm trai phải làm được những điều kì dị, kiệt xuất, phi thường. 1 mình chữ “lạ” ko tải hết ý của Phan tiên sinh. Tôi cũng ko nghĩ rằng người dịch dùng 3 chữ “ở trên đời” là đã diễn được thực ý của nguyên tác. “Đời” là 1 ko gian tưởng là rộng nhưng mà hóa ra lại hẹp, bởi nó có xu thế co vào cái khuôn khổ của toàn cầu người thôi. Trong nguyên văn, Phan Bội Châu ko dùng những chữ đó. Chỉ tới câu thứ 2 ta mới thấy yêu tố ko gian hiện ra. Và tức tốc bậc tu mi nam tử theo quan niệm của Phan Sào Nam đã xuất hiện trong tương quan kì vĩ nhất: ko gian vũ trụ. Đấng đại trượng phu sinh ra ở trong vũ trụ này là đương đầu với càn khôn [trời đất], tức là với tất cá những gì mập lao nhất trong vũ trụ này, chứ ko riêng gì toàn cầu người. Vậy là ngay từ 2 câu đề, hình ánh nói chung về 1 bậc anh kiệt đã hiện lên đầy ấn tượng: Ấy chẳng phải là kẻ sống tiêu cực phó mặc đường đời mình cho trời đất, và cũng ko phó mặc cõi đời này cho sự xoay vần của trời đất. Đấng nam tử phải là người chủ động thay đổi cả càn khôn. Cái chí ngang dọc trời đất, chọc trời khuấy nước, cải tạo vũ trụ ấy mới là điều xứng với 1 đời làm đại trượng phu. Quan niệm con người của Phan Bội Châu ở đây là quan niệm con người vũ trụ rất không xa lạ của văn học Nho giáo trung đại. Nếu 2 câu đề gợi ra hình ảnh nam tử trong ko gian kì vĩ, thì 2 câu thực đã tăng trưởng hình ảnh đó trong 1 chiều kích khác: thời kì. Thời gian ở đây cũng là thời kì thuộc tầm cỡ vĩ mô: Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,Sau này muôn đời há ko người nào? Ở câu đề tuy khẩu khí tư nhân đã rõ, nhưng mà quan niệm vẫn là quan niệm chung. Tới đây thì con người tư nhân Phan Bội Châu đã hiện ra ngay trên bề mặt câu chữ. Ông đã tinh thần về vai trò lịch sử của mình thật hùng dũng đầy tự trọng, tự tin. Mình phải biến thành 1 đối tượng chẳng thể thiếu trong cái khoảng thời kì 1 trăm 5 nay. Nói 1 cách khác, ông tự lãnh nhận sứ mệnh của mình: 1 con người nhu yếu của thế kỉ. Đối diện với càn khôn, đối diện với cả thế kỉ, tầm vóc của bậc nam tử này thật là tầm vóc vũ trụ. Không phải ông muốn chiếm lấy 1 chỗ đứng chỉ mất khoảng như 1 kẻ vĩ cuồng háo danh. Nhưng chính là làm nên cái việc trọng đại, kiệt xuất là xoay chuyển càn khôn để làm thay đổi khuôn mặt của thế kỉ. Chữ “tớ” là cách dịch thoát của chữ “ngã“ [tôi]. Dù dịch là tôi, là ta, là “tớ” thì ngã vẫn cứ là cái tinh thần mãnh liệt về tư nhân mình trên cõi nhân gian này. Hình ảnh tác giả xuất hiện trong mênh mang thời kì, lồng lộng ko gian như thế là 1 vẻ đẹp tư nhân thật hoa lệ nguy nga. Phcửa ải thấy rằng, ít có người nào đã tự họa mình trong 1 ko gian và thời kì hoành tráng tương tự! Dầu sao trong 4 câu đầu này mới nhắc đến điều phải “lạ”, nhưng mà chưa nói rõ “việc lạ” cần làm là gì! 4 câu tiếp theo sẽ dần dần làm sáng lên điều ấy. Hai câu luận là 1 sự nhìn nhận phi thường: Non sông đã sống chết thêm nhục,Hiền thánh còn đâu học cũng hoài Câu trên khẳng định: Non sông đã chết! Khi chủ quyền đã về tay kẻ ngoại quốc, thì tổ quốc đã chết. Sống nhưng mà ko có quyền làm chủ là sống nhục. 4 chữ “Giang sơn tử hĩ” chất đầy đớn đau và căm uất. Câu dưới tiếp diễn Hiền thánh đã vắng bóng thì có đọc sách cũng ngu thôi! Tất cả là những lời phủ định dứt khoát, quyết liệt rằng: Còn học đòi sách vở, còn sống ở trong nước thời buổi này là điều điếm nhục đối với 1 trang đại trượng phu. Bởi ấy là đã nhắm mắt nhắm mũi quay lưng cho “càn khôn tự chuyển đi”, là phó mặc mình cho đời xoay vần. Tất cả những gì thiêng liêng xứng đáng với 1 bậc nam tử coi như đã chết. Vì vậy nhưng mà thiết yếu hành động xứng đáng. Hành động xứng đáng, hành động kiệt xuất phi thường đó hiện giờ chính là: Xuất dương. Những câu trên ta thấy cái tôi [ngã] xuất hiện trước “càn khôn”, trước “ Bách niên trung”, “Thiên tải hậu” những chiều kích vĩ của ko gian và thời kì, ở đây, nó tiếp diễn được tô đậm bằng: “Giang sơn” và “Thánh hiền”. Con người đó đương đầu với sơn hà non sông, đương đầu với toàn thể nền học thức. Cho nên, càng về sau chân dung của con người đó, cái tôi đó càng sắc nét với tất cả những gì mập lao nhất. Cái ko gian độc nhất vô nhị có thể chứa đựng được con người đó là vũ trụ. Tới 2 cấu kết thì những nét bút kì vĩ rốt cuộc đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của 1 cuộc đời kiệt xuất: Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. 6 câu trên gợi ra những suy nghĩ, những chọn lọc, những sẵn sàng trong tâm lí, trong tư tưởng của 1 con đại bàng. Ở 2 câu này, chúng ta thấy con đại bàng đó đang tung đôi cánh mênh mang của mình bay thẳng ra trùng dương, đương đầu với hết thảy những giông tố bão bùng. Câu thơ gợi ta nhớ tới tư thế của con chim mập trong thư Quận He: “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô”. Nhưng câu thơ của Phan Bội Châu ko còn là 1 hình ảnh ước lệ nữa. Bởi phong trào Đông du nhưng mà ông là người chủ trương, bởi việc xuất dương nhưng mà ông là người cử sự chính là những hành động phi thường của những bậc lang quân chuẩn bị ném đời mình vào muôn trùng sóng bạc ra khơi tìm đường làm sống lại “sơn hà đã chết”, tìm cách xoay chuyển càn khôn. Bài thơ kết bằng câu thơ đầy hùng tâm tráng chí nhưng mà câu thơ dịch chưa thể truyền tải hết được: Thiên trùng bạch lãng đồng loạt phi. Như vậy, làm trang đại trượng phu chẳng phải là bằng mọi cách để lưu danh sử sách, khẳng định tư nhân. Nhưng tư nhân đó phải làm nên việc phi thường, đó là việc kinh bang, tế thế, cứu dân cứu nước. Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu ở đây, 1 lần nữa, giúp ta hiểu được cái cốt cách lớn lao của con người kiệt xuất này. 4. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 3 Phan Bội Châu [1867 – 1940] tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra và mập lên trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần Vương chống Pháp. Chế độ phong kiến suy vong kéo theo sự sụp đổ của cả 1 hệ thống tư tưởng phong kiến già cỗi, lạc hậu. Tình hình ấy đặt ra cho các chí sĩ yêu nước 1 câu hỏi mập: Phcửa ải cứu nước bằng trục đường nào? Trong ko khí ảm đạm bao trùm khắp non sông thời ấy, những tia sáng hi vọng hé rạng qua nguồn sách Tân thư quảng bá tư tưởng cách mệnh dân chủ tư sản của phương Tây với nội dung khác hẳn với các sách thánh hiền thuở trước. Người ta có thể tìm thấy ở ấy những gợi ý quyến rũ về 1 trục đường cứu nước mới, những viễn tượng đầy hẹn hứa cho mai sau. Vì vậy, các nhà Nho đương đại của thời đại như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã đi đầu dấn bước, bất chấp nguy khốn, gian khó. Phan Bội Châu là 1 trong những chí sĩ yêu nước trước nhất mở ra trục đường cho sự nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc theo thiên hướng dân chủ tư sản. Mặc dầu sự nghiệp ko thành, nhưng mà ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lòng yêu nước tha thiết và ý chí chiến đấu kiên trì, quật cường. Sinh thời, Phan Bội Châu ko coi văn học là mục tiêu của cuộc đời mình nhưng mà trong công đoạn hoạt động cách mệnh, ông đã chủ động nắm lấy thứ vũ khí tinh khí sắc bén đó để tuyên truyền, cổ động, cổ vũ ý thức yêu nước của đồng bào ta. Năng khiếu văn học, bầu tâm huyết sục sôi cùng sự trải đời trong bước đường cách mệnh là cơ sở để Phan Bội Châu biến thành 1 nhà văn, thi sĩ mập với những tác phẩm tuyệt vời như: Việt Nam vong quốc sử [1905], Hải ngoại huyết thư [1906], Ngục trung thư [1914], Trùng Quang tâm sử [1913 -1917], Phan Bội Châu niên biểu [1929]… 5 1904, ông cùng các đồng đội của mình lập ra Duy Tân hội. 5 1905, hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để sẵn sàng lực lượng cốt cán cho cách mệnh và tranh thủ sự tương trợ của các thần thế bên ngoài. Trước khi lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để giã từ bè bạn, đồng đội. Phiên âm chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì,Khẳng hẹn càn khôn tự vận động.Ư bách niên trung tu hữu ngã,Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,Thiên trùng bạch lãng đồng loạt phi. Dịch thơ: Làm trai phải lạ ở trên đời,Há để càn khôn tự chuyển dời.Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,Sau này muôn đời, há ko người nào?Non sông đã chết, sống thêm nhục,Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. Bằng giọng thơ nhiệt huyết có sức biến chuyển mạnh bạo, Lưu biệt lúc xuất dương đã khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mệnh Phan Bội Châu, với tư tưởng mới mẻ, táo tợn, bầu tâm huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Bài thơ mở màn bằng việc khẳng định chí làm trai: Làm trai phải lạ ở trên đời,Há để càn khôn tự chuyển dời. Câu thơ chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì. Hai từ hi kì có tức là hiếm, lạ, khác lạ cần được hiểu như những từ nói về thuộc tính mập lao, trọng đại, kì vĩ của công tác nhưng mà kẻ làm trai phải đảm trách. Đây cũng là lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thời phong kiến. Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã nhắc đến tới chí làm trai trong thơ ca. Phạm Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn: Công danh nam tử còn vương nợ,/ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu [Tỏ lòng]. Trong bài Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ khẳng định: Đã mang tai mang tiếng ở trong trời đất,/ Phcửa ải có danh gì với sông núi… và nhấn mạnh: Chí làm trai nam, bắc, tây, đông/ Cho phỉ sức vùng vẫy trong 4 bể [Chí khí người hùng]. Chí làm trai của Phan Bội Châu thuyết phục lứa tuổi trẻ thời bấy giờ ở sự táo tợn, quyết liệt và cảm hứng lãng mạn nhiệt liệt bay bổng. Với ông, làm trai là phải làm được những điều lạ, tức những việc hiển hách phi thường. Câu thơ thứ nhất khẳng định điều ấy. Câu thơ thứ 2 mang ngữ điệu cảm thán bổ sung cho ý của câu thứ nhất: Kẻ làm trai phải can hệ vào việc xoay chuyển càn khôn, chuyển đổi thời thế chứ chẳng phải chỉ giương mắt ngồi nhìn thời cục thay đổi, yên phận thủ thường, chấp thuận mình là kẻ đứng ngoài. Thực ra, đây là sự nối tiếp khát vọng của đối tượng trữ tình trong bài Chơi xuân: Giang sơn còn thêu dệt mặt đại trượng phu,/ Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. Chân dung đối tượng trữ tình trong bài Lưu biệt lúc xuất dương hiện lên khá rõ qua 2 câu đề. Ấy là 1 con người mang tầm vóc vũ trụ, tự tinh thần rằng mình phải có phận sự đảm trách những trọng trách mập lao. Con người đó dám đương đầu với cả càn khôn, vũ trụ để tự khẳng định mình. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên trên cái mộng công danh bấy lâu thường gắn liền với tam cương, ngũ thường của Nho giáo để vươn đến lí tưởng xã hội bao la và cao cả hơn nhiều. Cảm hứng và ý nghĩ ấy phần nào xuất hành từ lí tưởng trí quân, trạch dân của các nhà Nho thuở trước nhưng mà văn minh hơn vì mang thuộc tính cách mệnh. Theo quy luật, hoá công xoay vần vốn là lẽ thường tình, nhưng mà Phan Bội Châu ủ ấp khát vọng chủ động xoay chuyển càn khôn, chứ ko để cho nó tự chuyển vần. Cũng có tức là ông ko chịu khuất phục trước số mệnh, trước tình cảnh. Lí tưởng văn minh đó đã tạo cho đối tượng trữ tình trong bài thơ 1 tầm vóc mập lao, 1 tư thế hiên ngang, ngạo nghễ thử thách với càn khôn. Hai câu thực trình bày tinh thần về phận sự tư nhân của thi sĩ, cũng là nhà cách mệnh đi đầu trước cuộc đời: Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,Sau này muôn đời, há ko người nào? Câu thứ 3 ko chỉ dễ ợt công nhận sự có mặt của đối tượng trữ tình ở trên đời nhưng mà còn hàm chứa 1 tâm niệm: Sự hiện diện của ta chẳng phải là 1 sự kiện trùng hợp, vô dụng; thành ra, ta phải làm 1 việc gì ấy mập lao, có ích cho đời. Câu thứ tư có tức là nghìn 5 sau, có lẽ nào, chẳng có người nối liền công tác của người đi trước. “Cái tôi công dân” của tác giả đã được đặt ra giữa giới hạn trăm 5 của đời người và nghìn 5 của lịch sử. Sự khẳng định cần có tớ chẳng phải với mục tiêu hưởng lạc nhưng mà là để hiến dâng cho đáng mặt đại trượng phu và lưu danh hậu thế. Câu hỏi tu từ cũng là 1 cách khẳng định mãnh liệt hơn khao khát hiến dâng và nhận thức đúng mực của tác giả: Lịch sử là 1 dòng chảy liên tiếp, cần có sự góp mặt và đảm trách của nhiều lứa tuổi nối liền nhau. Trong 4 câu thơ đầu, những hình ảnh kì vĩ của tự nhiên như càn khôn, trăm 5, muôn đời đã trình bày cảm hứng lãng mạn bay bổng, chính là nguồn cội sức mạnh niềm tin của đối tượng trữ tình. Ở những 5 đầu thế kỉ XX, sau thất bại liên tục của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, 1 nỗi bi lụy, bế tắc đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam yêu nước. Tâm lí yên phận thủ thường lan rộng. Trước tình hình ấy, bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương có ý nghĩa như 1 hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước, cổ vũ mọi người đứng lên chống giặc ngoại xâm. Trong 2 câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào tình cảnh thực tiễn của lịch sử đương thời: Non sông đã chết, sống thêm nhục,Hiền thánh còn đâu học cũng hoài. Lẽ nhục – vinh nhưng mà tác giả đặt ra gắn liền với sự tồn vong của non sông và dân tộc: Non sông đã chết, sống thêm nhục. Ý nghĩa của nó tương đồng với ý kiến: Chết vinh còn hơn sống nhục trong thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX. Câu thơ thứ 5 bộc bạch 1 thái độ dứt khoát, được trình bày bằng tiếng nói đậm khẩu khí người hùng, bằng sự đối lập giữa sống và chết. Ấy là khí tiết cương cường, quật cường của những con người ko cam chịu cuộc đời bầy tớ tủi hổ. Ý thơ mới mẻ mang thuộc tính cách mệnh. Ở câu thứ 6, Phan Bội Châu đã ngay thẳng bộc bạch quan điểm trước 1 thực tiễn đau xót là tác động của nền giáo dục Nho giáo đối với hoàn cảnh sơn hà khi bấy giờ. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho nên nếu cứ bo bo đeo đuổi thì chỉ hoài công vô dụng nhưng mà thôi. Hẳn nhiên, Phan Bội Châu chưa hoàn toàn phủ nhận cả nền học thức Nho giáo, nhưng mà đưa ra 1 thẩm định như thế thì quả là táo tợn đối với 1 người từng là môn đồ của chốn cửa Khổng sân Trình. Dũng khí và nhận thức minh mẫn ấy đầu tiên bắt nguồn từ lòng yêu nước tha thiết và khát vọng cháy bỏng muốn tìm ra trục đường đi mới để đưa sơn hà thoát khỏi cảnh bầy tớ lầm than. Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy tân, nghĩa là học hỏi những tư tưởng cách mệnh mới mẻ và văn minh. Bài thơ ko thuần tuý là chỉ để bộc bạch ý chí nhưng mà thực thụ là 1 cuộc lên đường của đối tượng trữ tình: Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. Các hình ảnh kì vĩ trong 2 cấu kết mang tầm vũ trụ: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả như hòa nhập làm 1 với con người trong tư thế bay lên. Trong nguyên tác, 2 câu 7 và 8 kết hợp với nhau để hoàn chỉnh 1 tứ thơ đẹp: Con người đuổi theo ngọn gió mập qua biển Đông, cả vũ trụ rộng lớn Muôn lớp sóng bạc cùng bay lên [Thiên trùng bạch lãng đồng loạt phi]. Tất cả tạo thành 1 bức tranh hoành tráng nhưng mà con người là trung tâm được chắp cánh bởi khát vọng mập lao, bay bổng lên trên thực tại u tối hà khắc, lồng lộng giữa trời biển mênh mang. Bên dưới đôi cánh đại bàng ấy là muôn trùng sóng bạc dâng cao, bọt tung trắng xóa, chừng như muốn tiếp sức cho con người bay thẳng đến chân mây ước mơ. Hình ảnh đậm chất sử thi này đã thắp sáng niềm tin và hi vọng cho 1 lứa tuổi mới trong thời đại mới. Thực tế thì cuộc ra đi của Phan Bội Châu là 1 cuộc ra đi bí hiểm, tống biệt chỉ có vài 3 đồng đội thân thiện nhất. Dù phía trước chì mới le lói vài tia sáng của mong ước, nhưng mà người ra đi tìm đường cứu nước vẫn hăm hở và đầy tin cậy. Sức thuyết phục, hấp dẫn của bài thơ chính là ở ngọn lửa vồ vập đang bừng cháy trong lòng đối tượng trữ tình. Bài thơ đã thể hiện ảnh tượng người người hùng trong buổi lên đường xuất dương lưu biệt với tư thế kì vĩ, sống ngang tầm vũ trụ. Người người hùng đó tinh thần rất rõ ràng về “cái tôi công dân” và luôn khắc khoải, day dứt trước sự tồn vong của tổ quốc, dân tộc. Bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương được viết theo văn pháp ước lệ và phóng đại, rất thích hợp với mục tiêu khích lệ, cổ vũ. Giọng thơ vừa sâu lắng, da diết, vừa sục sôi, hào hùng, mang âm hưởng tráng ca. Nỗi đớn đau, niềm sáng sủa, vồ vập hành động cùng tư tưởng cách mệnh đã thổi hồn vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh trong bài thơ. Âm hưởng hào hùng của bài thơ có sức biến chuyển, thức tỉnh rất mập đối với mọi người. Đây là bài thơ từ giã nhưng mà cũng là lời kêu gọi, hối thúc lên đường. Tầm vóc bài thơ hoàn toàn cân xứng với tầm vóc của 1 con người được cả dân tộc mến mộ và tin cậy. Trong tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu [1925] tác giả Nguyễn Ái Quốc đã tôn vinh Phan Bội Châu là: bậc người hùng, vị thiên sứ, đấng lao vào vì độc lập được 2 mươi triệu đồng bào trong khoảng bầy tớ tôn sùng. 5. Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương – mẫu 4 Những 5 đầu thế kỉ XX, trong khi non sông Việt Nam mất đi chủ quyền, phong trào Cần Vương thất bại thì tư tưởng dân chủ tư sản đã thổi 1 luồng gió mới tới các thanh niên yêu nước. Họ tìm thấy những lí tưởng mới mẻ và ra đi với 1 niềm tin mạnh bạo vào dân tộc. 1 trong những nhà cách mệnh đã có cuộc ra đi hào hùng tương tự là Phan Bội Châu. Trước lúc lên đường sang Nhật Bản, ông đã viết bài thơ “Lưu biệt lúc xuất dương” như 1 lời từ giã. Đây là 1 bài thơ rực rỡ trong kho tàng văn thơ của Phan Bội Châu. “Làm trai phải lạ ở trên đờiHá để càn khôn tự chuyển dời” Hai câu đầu mở ra 1 quan niệm mới về chí làm trai và vị thế của con người trong xã hội. Đã làm đại trượng phu thì phải sống thật phi thường, hiển hách, dám mưu đồ sự nghiệp, dám xoay chuyển “càn khôn”, dám chủ động chống chọi với thách thức chứ ko sống tiêu cực, tẻ nhạt và phổ biến. Con người phải khẳng định được địa điểm của mình trong cuộc đời chứ ko đầu hàng trước số mệnh. Cũng giống như Nguyễn Công Trứ từng dõng dạc: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phcửa ải có danh gì với sông núi”. Như vậy, Phan Bội Châu đã biểu hiện 1 tư tưởng, 1 lẽ sống cao đẹp và văn minh. Từ ấy tác giả tinh thần: “Trong khoảng trăm 5 cần có tớSau này muôn đời, há ko người nào?” Quan niệm mới đã tạo nên nên tinh thần tư nhân gắn với 1 “cái tôi” đầy phận sự trước thời thế. Nhà thơ khẳng định về sứ mạng cao cả, thiêng liêng của mình giữa cuộc đời, tinh thần thâm thúy và phận sự mập lao của bản thân. Không phải chỉ sống 1 cuộc sống nhạt nhòa, bằng lặng nhưng mà phải sống hiến dâng, hiên ngang, hiển hách để đánh dấu tăm tiếng với hậu thế. Câu thơ thứ tư phủ định chính là để khẳng định dứt khoát hơn về lẽ sống của mình. Những hình ảnh thơ bự mập, kỳ vĩ như “càn khôn”, “trăm 5”, “muôn đời” đã góp phần làm nổi trội lên khao khát sống, hiến dâng của tác giả. Không chỉ tinh thần được phận sự của mình, Phan Bội Châu còn biểu hiện thái độ cương quyết của mình trước thời cục: “Non sông đã chết, sống thêm nhụcHiền thánh còn đâu, học cũng hoài” Bằng tình yêu nước cháy bỏng và đôi mắt tinh tế của mình, Phan Bội Châu đã nhận thức rõ hơn về tình hình non sông khi bấy giờ. Lẽ vinh – nhục được đặt ra như 1 nỗi đau đáu của người đại trượng phu trước hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Cũng như những nhà cách mệnh khác, ông cũng trằn trọc về trục đường mai sau của dân tộc, phải làm sao để cứu được non sông. Ông đã tỉnh ngủ trông thấy thực tiễn: non sông mất đi chủ quyền, “hiền thánh” cũng chẳng thể làm gì được. Ở câu này, bản dịch thơ chưa sát lắm so với nguyên tác. Bản nguyên tác đã nói lên thái độ dứt khoát, mạnh bạo của Phan Bội Châu: “Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!”. Không phải ông hoàn toàn mất niềm tin ở học thức Nho giáo nhưng mà ông đã minh mẫn nhìn thu được những giảm thiểu của nó. Ấy 1 phần là nhờ vào sự tác động của tư tưởng dân chủ tư sản được truyền vào nước ta. Đứng trước tình hình ấy, Phan Bội Châu đã dấy lên những khát vọng cuồng nhiệt, quyết liệt: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gióMuôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” Hai câu thơ cuối đã vẽ ra tư thế hiên ngang, hào hùng và ko kém phần lãng mạn của người ra đi tìm đường cứu nước. Những hình ảnh thơ mập lao, kì vĩ liên tiếp hiện ra: “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”,… đã góp phần tô đẹp tư thế và khát vọng của con người buổi lên đường. Tuy nhiên, ở bản dịch thơ vẫn chưa làm nổi trội được hết vẻ đẹp của bức tranh này. “Tiễn ra khơi” chỉ là 1 cuộc tống biệt tầm thường như bao cuộc tống biệt khác, “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” mới trình bày đầy đủ và toàn vẹn 1 bức tranh hoành tráng với hình tượng trung tâm là con người, bao quanh là vũ trụ bao la cùng chắp cánh cho mong ước của con người. Trên thực tiễn, đây là cuộc ra đi khá thầm lặng, bí hiểm, nhưng mà qua bài thơ, tác giả đã trình bày 1 tư thế vô cùng hiên ngang, tự tin vào tiền trình của non sông. Ấy được xem là 1 hình ảnh đẹp trong văn chương, 1 hình ảnh vừa giàu chất sử thi lại vừa hòa quyện với cảm hứng lãng mạn. Bài thơ được bình chọn là 1 trong những thi phẩm có sức hấp dẫn mạnh bạo. Không chỉ với tư tưởng và quan niệm mới mẻ nhưng mà còn những nét nghệ thuật rực rỡ. Thi phẩm được viết với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật thích hợp với việc “nói chí” của Phan Bội Châu. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, mập lao góp phần lột tả toàn vẹn những khát vọng hành động và tinh thần phận sự của tác giả. Giọng thơ linh động, sôi nổi và mạnh bạo. Như vậy, cả bài thơ đã xây dựng được hình tượng người chí sĩ cách mệnh với vẻ đẹp hào hùng lãng mạn. Bằng tâm huyết và tình yêu nước sâu nặng của mình, Phan Bội Châu đã ko chỉ biến thành 1 nhà cách mệnh nhưng mà còn biến thành 1 văn sĩ mập của dân tộc, đáng được thiên hạ sau tôn kính. 6. Phân tích bài Lưu biệt lúc xuất dương ngắn gọn Phan Bội Châu được đề cập là người trước nhất trong lịch sử Việt Nam có tinh thần dùng văn học để chuyển động, tuyên truyền cách mệnh. Ông cũng chính là người khơi dòng cho loại văn học trữ tình chính trị. Trong ấy, bài thơ “Lưu biệt lúc xuất dương” là 1 tác phẩm điển hình. Đây là bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết nhưng mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bè bạn, đồng đội trước khi lên đường sang Nhật Bản 5 1905. “Lưu biệt lúc xuất dương” đã trình bày ý nghĩ mập lao, mới mẻ đầy phận sự của tác giả, trình bày niềm hăm hở, phấn đấu cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”. Chí làm trai đã được đề cập trong văn chương từ thời xa xưa nhưng mà đặc thù được đề cao ở thời gian cơ chế phong kiến, thời gian đạo Nho tăng trưởng mạnh bạo. Nam nhi phải có công danh, sự nghiệp thì mới đáng làm trai. Chẳng vậy nhưng mà trong bài thơ “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão đã viết: “Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết: “Chí làm trai nam, bắc, tây, đôngCho phỉ sức vùng vẫy trong 4 bể”. Muốn biến thành bậc đại trượng phu được mọi người xác nhận thì phải biết nỗ lực, lập được công tích, có được danh vọng, có sức vóc “vùng vẫy” khắp 4 bể để chứng minh tài năng, khả năng của bản thân. Kế thừa tư tưởng đó của Nho giáo, Phan Bội Châu đã đưa ra 1 ý kiến về chí làm trai như 1 tuyên ngôn đầy khí thế: “Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,Khẳng hẹn càn khôn tự vận động”. Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải “lạ”, có tức là phải sống khác mọi người, ko được giống với bất kì người nào để hình thành điểm biệt lập. “Lạ” cũng có tức là điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất. Ấy là lối sống chủ động, ko chùn bước, nản lòng để mặc cho tình cảnh chi phối nhưng mà phải có khả năng để chi phối tình cảnh. Nhân vật trữ tình dám đương đầu với càn khôn, đất trời, vũ trụ để tự khẳng định bản thân, nỗ lực đạt được giấc mộng công danh. Phan Bội Châu ủ ấp khát vọng xoay chuyển được càn khôn chứ ko để “càn khôn tự chuyển dời”. Ông ko đầu hàng, khuất phục trước số mệnh, tình cảnh nhưng mà dùng chính bản lĩnh của mình để chỉnh sửa tình cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của 1 đấng đại trượng phu hiên ngang trong vũ trụ, dám ngão nghệ và thử thách với trời đất. Con người mang tầm vóc mập lao, tầm vóc vũ trụ đó luôn mang trong mình tinh thần, phận sự của tư nhân trước thời cục: “Ư bách niên trung tu hữu ngã,Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy” Trong cuộc đời trăm 5 hữu hạn, Phan Bội Châu muốn hiến dâng sức mình cho non sông, làm nên những công tích phi thường, mập lao để xứng đáng làm 1 đại trượng phu lưu danh vào thiên cổ nghìn 5. Tác giả đã tự khẳng định bản thân mình, đây là cái tôi mang đầy phận sự, chủ động hăng hái chứ chẳng phải cái tôi vị kỉ, chỉ biết lo nghĩ cho ích lợi của tư nhân. Ở 2 câu thực có sự đối nhau hài hòa giữa sự vô biên của thời kì và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu dùng cái phủ định để làm nền, làm nổi trội lên điều ông khẳng định. Ông muốn làm những điều phi thường, lưu lại tăm tiếng của mình trong sử sách để ko hổ hang với chí làm trai nhưng mà mình đã lấy làm lí tưởng sống. Hiến dâng cho đời vừa là trách nhiệm vừa là phận sự của bậc lang quân. Trong 1 trăm 5 hữu hạn đó, người đại trượng phu phải tiến hành được chí làm trai và cũng trong nghìn 5 sau ấy phải để lại được tiếng thơm cho đời. Hai câu thơ như lời hối thúc khơi dậy ý thức lao vào vì nghĩa mập của con người, đặc thù là những thanh niên trai tráng phải góp vô cùng mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc. Gắn với tình cảnh thực tại của non sông, Phan Bội Châu đã nêu lên phận sự nhưng mà người đại trượng phu cần có đối với vận mệnh dân tộc: “Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si” Quốc gia bị xâm lăng, tổ quốc cũng ko còn nữa thì ta có sống cũng chỉ chuốc lấy sự điếm nhục, ê chề. Sách vở, người có học vấn cũng biến thành bất nghĩa lúc chủ quyền non sông bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên bậc nhất bởi ông tinh thần được thời cục. Sách vở cũng ko có ý nghĩa gì lúc nước mất nhà tan. Việc làm quan trọng và thiết thực nhất khi bấy giờ là tìm được trục đường, hướng đi cho non sông để thoát khỏi sự xâm lăng, bóc lột của thực dân Pháp. Phan Bội Châu là 1 người tình nước và ông cũng mong rằng phong trào Đông du do mình chỉ đạo sẽ gặt hái được nhiều thành tích giúp ích cho sơn hà. Kế bên ấy, 2 câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là khi để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc. 7. Phân tích Xuất dương lưu biệt Phan Bội Châu [1867-1940], ôi cái tên đẹp 1 thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của dân chúng Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là 1 đối tượng lớn lao” [Tôn Quang Phiệt]. Phan Bội Châu là vong linh của các phong trào chuyển động giải phóng Đất nước khoảng 25 5 đầu thế kỉ XX. Tăm tiếng ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tăm tiếng Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, 1 số bài văn tế và vài 3 vở tuồng chan chứa tình yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” [Tố Hữu]. 5 1900, Phan Bội Châu đậu hương nguyên khoa thi Hương trường Nghệ 5 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, 1 tổ chức yêu nước. 5 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Theo chủ trương của Duy Tân hội do chính ông sáng lập, ông mở màn sang Nhật để tìm đường cứu nước. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” ông làm tặng các đồng đội trong buổi đầu lên đường. Có thể nói bài thơ này như 1 mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. “Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu thị tư thế, phấn đấu hăm hở, và những ý tưởng cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước. Hai câu để là 1 tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả: “Sinh vi nam tử yếu hi kìKhẳng hẹn càn khôn tự vận động” Kiêu hãnh mình là đấng đại trượng phu thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên “điều lạ” [yêu hi kì]. Suy rộng ra, là chẳng thể sống phổ biến. Không thể sống 1 cách tiêu cực cho trời đất [càn khôn] “tự chuyển dời” 1 cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ trình bày 1 tư thế, 1 tâm thế đẹp về chí đại trượng phu, tự tin ở chừng độ, tài năng của mình muốn làm nên sự nghiệp bự mập, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong 1 bài thơ khác: “Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,Mở mồm cười tan cuộc oán thù thù”. Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh hết sức sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm thu được cái khẩu khí người hùng của nhà chí sĩ lớn lao. Đấng đại trượng phu muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời, từng nấu nung và tâm niệm theo 1 vần thơ cổ: “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,Lập thân tối hạ thị văn học” [“Tùy viên thi thoại” – Viên Mai] Đấng đại trượng phu muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời đó có 1 “bầu máu hot” sục sôi: “Tôi được trời phú cho bầu máu hot cũng ko tới nỗi ít, khi còn nhỏ đọc sách của cha tôi, mỗi lúc đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành đạo nhân, nước mắt lại tầm tã bé xuống ướt sũng cả giấy…” [Ngục trung thư]. Phần thực, ý thơ được mở mang, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử: “Ư bách niên trung tu hữu ngã,Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy” “Ngã” là ta: “tu hữu ngã” tức là phải có ta trong cuộc đời “1 trăm 5 ” [bách niên trung]. Câu thơ khẳng định, biểu thị niềm kiêu hãnh mập lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” ngàn 5 sau, là lịch sử của non sông và dân tộc há lại ko có người nào [để lại tăm tiếng] ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi trội điều khẳng định. Ấy là 1 ý thơ thâm thúy trình bày vai trò tư nhân trong lịch sử: chuẩn bị đảm trách mọi phận sự nhưng mà lịch sử phó thác. Ý nghĩ đẹp tươi này là sự kế thừa những tư tưởng lớn lao của các vĩ nhân trong lịch sử: “… Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”. [“Hịch tướng sĩ’ – Trần Quốc Tuấn] “… Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. [Văn Thiên Tường] Lấy cái hữu hạn “bách niên” của 1 đời người đối với cái vô biên “thiên tải” của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã hình thành 1 giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu thị 1 phấn đấu và khát vọng trong buổi lên đường. Vì vậy, trên bước đường cách mệnh giải phóng dân tộc, trải qua muôn nghìn thách thức và nguy khốn, ông vẫn quật cường, sáng sủa.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin có ích khác trên phân mục Tài liệu của Ôn Thi HSG VN.

TagsVăn học

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#mẫu #phân #tích #Lưu #biệt #lúc #xuất #dương #hay #nhất

Video liên quan

Chủ Đề