Hoạt động nào sâu đây thể hiện Nhà nước đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ

Trong những năm qua, mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, nhưng kết quả hoạt động khoa học và công nghệ (KH - CN) nước ta vẫn chưa đáp ứng được vai trò quốc sách hàng đầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

 Đầu tư cho KH - CN: Huy động mọi nguồn lực để phát triển

 Để KH - CN thực sự trở thành động lực then chốt, vừa qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã ban hành Nghị quyết về “Phát triển KH - CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội cũng sẽ cho ý kiến về Dự án Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi). Để cung cấp thêm thông tin, tư liệu cho các đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước, Báo Đại biểu nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài viết của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân về các nội dung trọng tâm của Dự án Luật KH - CN. Các bài viết đề cập đến 3 vấn đề lớn: đổi mới phương thức đầu tư xã hội cho KH - CN; đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động KH - CN; và chính sách sử dụng, trọng dụng cán bộ KH - CN.

Hoạt động nào sâu đây thể hiện Nhà nước đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ

Tổng đầu tư xã hội cho KH-CN của một quốc gia được tính là tổng kinh phí đầu tư cho hoạt động KH-CN trong một năm từ 3 nguồn: Ngân sách nhà nước (NSNN), hoạt động hợp tác quốc tế (vốn ODA, chương trình hợp tác nghiên cứu,…), và đầu tư của khu vực ngoài nhà nước (các thành phần kinh tế, tổ chức và cá nhân, đặc biệt là doanh nghiệp). Trong nền kinh tế kế hoạch hóa thì NSNN đóng vai trò chủ yếu, vì thế mặc dù Việt Nam đã bắt đầu bước vào nền kinh tế thị trường, chúng ta vẫn mang nặng tư duy dựa vào NSNN và cho đến nay nguồn kinh phí từ NSNN vẫn chiếm khoảng 65% đầu tư xã hội cho KH-CN. Từ khi Luật khoa học và công nghệ được ban hành năm 2000 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, dành 2% tổng chi Ngân sách nhà nước hàng năm (tương đương khoảng 0,5-0,6% GDP) cho KH-CN. Kinh phí thu hút được từ hoạt động hợp tác quốc tế có tăng lên hàng năm thông qua vốn hỗ trợ phát triển ODA và các dự án hợp tác nghiên cứu chung, năm 2011 đã đóng góp khoảng 5% tổng đầu tư xã hội. 30% còn lại là nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước. Tính từ cả 3 nguồn trên, tổng đầu tư của xã hội cho KH-CN trong năm 2011 đạt khoảng 1 tỉ đô la Mỹ, hay khoảng 1% GDP quốc gia.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quốc gia nào có nền KH-CN càng phát triển thì tỉ trọng đầu tư cho KH-CN của khu vực ngoài nhà nước so với NSNN càng lớn, ví dụ ở các nước phát triển như châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản tỉ trọng này thường là 3:1 đến 4:1. Trung Quốc cũng đã đạt được tỉ trọng 3:1 trong năm 2011. NSNN chỉ đảm bảo tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phục vụ lợi ích chung của quốc gia. Điều này đơn giản là vì, dù được Nhà nước quan tâm đến đâu hay hoạt động hợp tác quốc tế tích cực thế nào, thì nguồn lực của cả 2 thành phần này đều có giới hạn, không thể so sánh với tiềm lực dồi dào của khu vực ngoài nhà nước, đặc biệt là của khối doanh nghiệp. Sở dĩ cho đến nay, đầu tư của NSNN vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng đầu tư cho KH-CN là do tư duy bao cấp, kế hoạch hóa vẫn còn nặng nề trong nền kinh tế, đặc biệt là trong khối các doanh nghiệp nhà nước. Đầu tư cho KH-CN để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa chưa gắn liền với lợi ích thiết thân của doanh nghiệp. Nhà nước cũng chưa có chính sách thích hợp để doanh nghiệp phải đầu tư cho phát triển KH-CN. Từ góc độ hợp tác quốc tế, tư duy dựa vào viện trợ, tài trợ của nước ngoài trong hoạt động KH-CN đã đến lúc phải được đổi mới bằng tư duy cùng đầu tư và hợp tác nghiên cứu nhằm thu hút nhiều hơn nguồn đầu tư từ nước ngoài.

Làm thế nào để huy động đầu tư xã hội cho KH - CN

Để huy động đầu tư xã hội cho KH-CN, cần phải có những giải pháp mạnh mẽ để tăng cường đầu tư từ cả 3 nguồn kể trên.

Trước hết, với đầu tư từ NSNN, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI đã yêu cầu: duy trì mức tối thiểu 2% tổng chi Ngân sách hàng năm dành cho KH-CN và phấn đấu nâng cao tỉ lệ này khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước tốt hơn. Mặc dù có giá trị tuyệt đối không lớn (khoảng 14.000 tỉ đồng cho năm 2012), nhưng 2% tổng chi NSNN dành cho KH-CN là một tỉ lệ khá cao, thậm chí so với các nước có nền KH-CN phát triển (ngay cả các quốc gia như Mỹ, Nhật bản, châu Âu, tỉ lệ này cũng chỉ 0,3-0,4% GDP quốc gia). Điều này thể hiện sự quan tâm và cố gắng rất lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với KH-CN. Ngay cả khi duy trì ngân sách dành cho KH-CN ở mức 2% thì giá trị tuyệt đối của khoản kinh phí này cũng được tăng lên hàng năm tương ứng với mức tăng của tổng chi NSNN (trung bình 16,5%/năm cho những năm gần đây). Chúng ta sẽ tập trung nguồn NSNN cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng và triển khai các chương trình quốc gia về KH-CN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chú trọng các sản phẩm quốc gia, các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng và đổi mới phương thức cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo nhiệm vụ cho các tổ chức KH-CN công lập.

Đối với hoạt động hợp tác quốc tế, sau khi gia nhập WTO và vượt qua ngưỡng quốc gia kém phát triển, Chính phủ đã quan tâm hơn đến các hoạt động hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài. Chúng ta đã chủ động sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách sự nghiệp khoa học để đối ứng cho các nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu với đối tác nước ngoài thông qua các đề tài nghiên cứu chung theo Nghị định thư. Đây là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với sự thay đổi trong chính sách sử dụng ODA của các nước phát triển. Các quốc gia này đang chuyển dần sang hướng hỗ trợ cho KH-CN và giảm dần hình thức tài trợ hoàn toàn, đòi hỏi sự hợp tác bình đẳng, cùng chia sẻ trách nhiệm để cùng có lợi. Đối với nướác ta, trong hợp tác và hội nhập quốc tế theo chiều sâu, cần có kinh phí của mình để chủ động trong việc đặt vấn đề hợp tác, trong đàm phán, trong tìm kiếm đối tác để giải quyết những vấn đề của Việt Nam một cách hiệu quả nhất. Kết quả là trong 5 năm từ 2006 - 2010, thông qua các nhiệm vụ theo Nghị định thư, số kinh phí phía đối tác bỏ ra để cùng thực hiện với ta đạt 128 triệu đô la Mỹ, trong khi số kinh phí đối ứng cấp từ ngân sách sự nghiệp khoa học là gần 365 tỷ VND (khoảng 19,2 triệu USD). Theo tỷ lệ này, 1 đồng kinh phí ta bỏ ra, huy động được 6,6 đồng của đối tác. Số kinh phí này chưa bao gồm các khoản ‘phi tiền tệ’ khác Việt Nam được thụ hưởng như đào tạo tiến sĩ và thạc sĩ Việt Nam ở nước ngoài, các trang thiết bị nghiên cứu được để lại cho các đơn vị Việt Nam khi kết thúc dự án. Vì vậy, khai thác nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho hoạt động KH-CN sẽ tiếp tục là giải pháp quan trọng trong giai đoạn tới.

Đầu tư từ doanh nghiệp là yếu tố quyết định

Mặc dù đầu tư từ NSNN và hoạt động hợp tác quốc tế trước mắt vẫn có tỉ trọng lớn trong tổng đầu tư xã hội, nhưng khối các doanh nghiệp mới là khu vực có nhiều tiềm lực và tiềm năng nhất để thu hút đầu tư cho KH-CN. Hiện nay, nước ta có hơn 600.000 doanh nghiệp, trong đó có 111 tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước với nguồn lực rất lớn về vốn và nguồn nhân lực (năm 2008, khi xây dựng Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã tính toán rằng, nếu tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đều trích 10% lợi nhuận trước thuế để thành lập quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp, thì tổng vốn các quỹ này thu hút được là 13.500 tỉ đồng, gấp 2 lần đầu tư từ NSNN năm 2008 (7.000 tỉ đồng). Như vậy, chỉ cần tất cả các doanh nghiệp trích 10% thu nhập trước thuế để đầu tư cho KH-CN, chúng ta đã có thể hoàn thành mục tiêu tổng đầu tư xã hội cho KH-CN đạt 1,5% GDP vào năm 2010).

Ngoài ra, trong khi phần lớn kinh phí NSNN được dành cho chi thường xuyên của các tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập và chi đầu tư phát triển, chỉ có hơn 10% là thực sự dành cho hoạt động nghiên cứu, thì tỉ lệ này ở các doanh nghiệp gần như là 100% cho hoạt động nghiên cứu và phát triển do không phải chi thường xuyên (lương và hoạt động bộ máy) từ nguồn dành cho KH-CN. Việc chi tiêu cho KH-CN từ nguồn vốn của doanh nghiệp cũng thuận lợi hơn rất nhiều so với sử dụng NSNN, vốn được quản lý rất chặt chẽ theo Luật NSNN với nhiều thủ tục phức tạp. Hơn thế nữa, việc tham gia vào nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tích cực đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Chính vì những lý do đó mà doanh nghiệp mới là đối tượng chính mà các chính sách của Nhà nước cần hướng tới khi huy động đầu tư cho KH-CN.

Từ năm 2008, việc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho KH-CN đã được quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy nhiên cho đến nay kết quả thu hút đầu tư không đạt được như mong muốn. Nguyên nhân đầu tiên là tư duy của người lãnh đạo doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Sau nhiều năm hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hóa với tính cạnh tranh thấp, các doanh nghiệp đã quen với việc kinh doanh không cạnh tranh và không có nhu cầu cải tiến sản phẩm. Các doanh nghiệp nhà nước ỷ lại vào lợi thế độc quyền mà không quan tâm đến việc đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Khi có nhu cầu đổi mới công nghệ thì thường mua công nghệ của nước ngoài thay vì đầu tư nghiên cứu để làm chủ và sáng tạo ra công nghệ mới. Một số tập đoàn, tổng công ty khi được Nhà nước giao cho các viện nghiên cứu thì không đầu tư, không giao nhiệm vụ nghiên cứu, dẫn tới các viện nghiên cứu này phải tách khỏi doanh nghiệp trở về trực thuộc các Bộ. Nguyên nhân thứ hai là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, mặc dù số lượng doanh nghiệp rất đông đảo, nhưng với doanh thu thấp, năng suất lao động thấp, chi phí hoạt động ngày càng cao, lợi nhuận trước thuế của từng doanh nghiệp là không nhiều. Vì vậy, kể cả khi các doanh nghiệp trích tối đa tỉ lệ mà Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cho phép là 10% lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho hoạt động KH-CN của doanh nghiệp thì giá trị của khoản đầu tư này cũng rất nhỏ, không đủ để đổi mới công nghệ. Trong khi đó, chưa có quy định cho phép các doanh nghiệp có thể tự nguyện trích phần đầu tư này cho quỹ phát triển KH-CN của địa phương nhằm “tích tiểu thành đại”. Cuối cùng là các bất cập trong chính sách của Nhà nước đối với việc huy động đầu tư của các doanh nghiệp cho KH-CN. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực năm 2008 chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc doanh nghiệp phải đầu tư cho KH-CN, và các doanh nghiệp chỉ “được trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế” cho quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp. Sở dĩ có mức trần 10% vì có ý kiến cho rằng, nếu không giới hạn tỉ lệ này thì có thể các doanh nghiệp sẽ trích phần lớn, thậm chí toàn bộ thu nhập trước thuế cho quỹ phát triển KH-CN, như vậy Nhà nước sẽ mất nguồn thu đáng kể từ thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, lo ngại này là không có cơ sở thực tiễn, vì doanh nghiệp nào cũng phải có lợi nhuận sau thuế để đảm bảo tái đầu tư và đời sống người lao động. Hơn nữa, đầu tư cho KH-CN là đầu tư cho phát triển, kể cả khi các doanh nghiệp trích phần lớn lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho KH-CN nhằm đổi mới công nghệ và thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm thì trong dài hạn, khoản đầu tư này sẽ làm tăng nhanh doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp những năm sau đó và qua đó, doanh nghiệp đóng góp nhiều hơn cho NSNN thông qua thuế. Đó cũng chính là giải pháp nuôi dưỡng nguồn thu cho NSNN. Các quy định hiện hành về quản lý quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp cũng chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp sử dụng thuận lợi nguồn kinh phí này, ví dụ quy định nếu doanh nghiệp không sử dụng hoặc sử dụng không đến 70% quỹ sau 5 năm từ năm trích lập thì bị truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên phần không sử dụng cộng thêm lãi phát sinh (với lãi suất kho bạc) từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đó. Và Nhà nước kiểm soát chi đối với 100% kinh phí của quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp như đối với NSNN, trong khi Nhà nước chỉ ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần kinh phí trích lập quỹ, nghĩa là chỉ 25% được coi là NSNN, còn 75% là lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Điều này dẫn tới các doanh nghiệp đều không muốn trích lập quỹ.

Chính vì các hạn chế trên mà sau 4 năm từ khi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực, tình hình thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp cho KH-CN vẫn không được cải thiện nhiều so với trước đây. Giải pháp để khắc phục vấn đề này đã được đề ra một cách hệ thống, đồng bộ trong các văn bản quan trọng mà Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng và trình các cấp thẩm quyền gần đây (Đề án phát triển KH-CN phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do Ban Cán sự Đảng Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương xây dựng và trình Hội nghị Trung ương 6 khóa XI; Dự án Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi), trình Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII; Chiến lược phát triển KH-CN giai đoạn 2011-2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012; Đề án Đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN đã trình Thủ tướng Chính phủ). Trong đó, hai đề xuất quan trọng nhất là: (1) cần phải Luật hóa quy định có tính bắt buộc các doanh nghiệp trích một tỉ lệ tối thiểu lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho KH-CN. Chính phủ quy định tỉ lệ tối thiểu tùy theo quy mô và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, và không hạn chế tỉ lệ trích tối đa; (2) trong trường hợp doanh nghiệp không có điều kiện hoặc chưa có nhu cầu thành lập quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp, thì nguồn kinh phí trích lập được có thể đóng góp cho quỹ phát triển KH-CN của Nhà nước ở địa phương.

Qua các cuộc thảo luận, trao đổi, xuất hiện một vài ý kiến băn khoăn về các đề xuất này. Có ý kiến cho rằng các vấn đề liên quan đến thuế thì nên được quy định trong các luật chuyên ngành về thuế, không nên quy định trong các luật khác để tránh chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, KH-CN đã được Đảng ta khẳng định là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, các quy định về thuế cho hoạt động KH-CN, một lĩnh vực mang tính đặc thù, cũng cần được xây dựng một cách đặc thù trong luật chuyên ngành. Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi), với các quy định cụ thể trên, sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến ngay tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10-11/2012) và dự kiến thông qua vào Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013), đảm bảo việc sớm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về KH-CN đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI). Hơn nữa, thời gian không chờ đợi chúng ta, vì chỉ còn 8 năm cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nếu không ban hành chính sách này kịp thời thì khó đạt được mục tiêu mà Chiến lược phát triển KH-CN giai đoạn 2011-2020 đã đề ra là tổng đầu tư xã hội cho KH-CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015 và 2,0% GDP vào năm 2020.

Cũng có ý kiến cho rằng quy định này chỉ có thể bắt buộc được các doanh nghiệp nhà nước, còn đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước thì chỉ nên khuyến khích họ đầu tư cho KH-CN. Tuy nhiên, với chủ trương phải tiếp tục cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm dưới 50% cổ phần, số lượng doanh nghiệp nhà nước và nguồn lực kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước sẽ giảm tiếp trong thời gian tới. Vì vậy, nếu quy định có tính bắt buộc chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước thì chế tài này không thực sự mạnh mẽ hơn những quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, và không thay đổi được thực trạng huy động đầu tư từ doanh nghiệp như hiện nay. Điều đáng mừng là đa số các chuyên gia, các nhà quản lý, đặc biệt là lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ đã thống nhất với quan điểm cần có chế tài mang tính bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho KH-CN với các tỉ lệ tối thiểu khác nhau do Chính phủ quy định, đảm bảo sự bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Về ý kiến cho rằng phần kinh phí đầu tư cho KH-CN chỉ nên dành cho quỹ của chính doanh nghiệp mà không nên huy động vào quỹ của Nhà nước ở địa phương, vì như vậy là bắt buộc các doanh nghiệp phải chuyển một phần lợi nhuận trước thuế cho một quỹ của Nhà nước khi doanh nghiệp không có nhu cầu đầu tư cho KH-CN: như đã phân tích ở trên, việc trích quỹ trước hết ưu tiên cho chính doanh nghiệp sử dụng để đổi mới công nghệ, tạo sản phẩm mới. Tuy nhiên đối với phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, phần trích được từ lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho KH-CN của các doanh nghiệp này không đủ để tự đổi mới công nghệ của chính họ. Đây là lý do chủ yếu của việc phần lớn các doanh nghiệp vẫn chưa thành lập quỹ phát triển KH-CN của mình. Như vậy, nếu chúng ta bắt buộc các doanh nghiệp phải đầu tư cho KH-CN, nhưng không mở ra một kênh khác để doanh nghiệp tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước thì việc thực hiện các quy định của pháp luật là rất khó khả thi. Việc cho phép các doanh nghiệp có thể đóng góp vào quỹ phát triển KH-CN địa phương còn có tác dụng tập trung vốn đầu tư đổi mới công nghệ cho một số doanh nghiệp chủ lực của địa phương, sau đó quỹ của địa phương có thể lần lượt hỗ trợ đầu tư trở lại cho doanh nghiệp với nguồn kinh phí đủ lớn để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Ngoài ra, theo quy định hiện hành, quỹ của địa phương chỉ được cấp vốn một lần từ NSNN khi mới thành lập. Vốn của quỹ phải được bảo tồn và phát triển thông qua hoạt động. Tuy nhiên, với thực tiễn môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay, các quỹ địa phương rất khó bổ sung thêm kinh phí từ các hoạt động cho vay, tài trợ. Đã có 20 tỉnh, thành phố thành lập quỹ phát triển KH-CN, nhưng nhiều địa phương đang phải đối mặt với khả năng không duy trì được các quỹ này sau một số năm hoạt động do bị mất vốn sau khi tài trợ cho hoạt động nghiên cứu. Chính vì vậy, đóng góp từ các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chính là nguồn duy trì hoạt động cho quỹ phát triển KH-CN địa phương, để qua đó quỹ này có thể đầu tư ngược lại cho các doanh nghiệp khi cần thiết.

Sau khi Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi) được ban hành, cần sớm ban hành các văn bản mới quy định về cơ chế tài chính đối với quỹ của doanh nghiệp trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp trích lập và chi tiêu cho KH-CN từ quỹ của mình. Nhà nước chỉ kiểm soát chi tiêu đối với phần mà doanh nghiệp được hưởng lợi về thuế khi trích lập quỹ. Nếu doanh nghiệp đóng góp cho quỹ của địa phương thì phần đóng góp này cũng phải được miễn thuế như đối với trích lập cho quỹ của doanh nghiệp.

Thời gian gần đây, đã có những tín hiệu rất khả quan trong việc huy động đầu tư cho KH-CN từ các doanh nghiệp, điển hình là Tập đoàn Viễn thông quân đội và Tập đoàn Dầu khí quốc gia. Hai tập đoàn này đã thành lập các viện nghiên cứu và phát triển của mình và trích tỉ lệ tối đa được phép hiện nay là 10% thu nhập tính thuế để đầu tư cho các viện nghiên cứu này (với tổng kinh phí gần 4.500 tỉ đồng, xấp xỉ 30% NSNN chi cho KH-CN năm 2012, tương đương toàn bộ đầu tư của doanh nghiệp cả nước cho KH-CN năm 2011). Tuy nhiên, với các chính sách và quy định hiện hành, số lượng doanh nghiệp chủ động đầu tư cho KH-CN mạnh mẽ như hai tập đoàn trên là rất ít ỏi. Chính 2 tập đoàn kể trên cũng phản ảnh là không thể sử dụng hết nguồn kinh phí này. Để đạt mục tiêu của Chiến lược phát triển KH-CN giai đoạn 2011-2020 và triển khai hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về KH-CN, những giải pháp quyết liệt như đã nêu ở trên là hết sức cần thiết và cần phải được quy định cụ thể ngay trong các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động KH-CN. Có như vậy, KH-CN mới có thêm một nguồn lực to lớn để phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đổi mới cơ chế tài chính Khâu đột phá trong đổi mới hoạt động KH – CN

Cơ chế tài chính còn nhiều bất cập đang là một trong những lực cản đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ (KH-CN). Để tháo gỡ những bất cập đó, ngành KH-CN đang hướng đến việc đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN, trong đó trọng tâm là đổi mới cơ chế tài chính. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cũng đã nhận định: “Đổi mới công tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho hoạt động KH-CN”.

Cơ chế tài chính còn nhiều bất cập

Ở các quốc gia có nền KH-CN phát triển, Nhà nước thực hiện giao quyền tự chủ tối đa cho các nhà khoa học với quy định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân bổ ngân sách và giám sát việc thực hiện. Các nhà khoa học có thể đề xuất đề tài, dự án nghiên cứu bất kỳ khi nào cần thiết, hệ thống quỹ về KH-CN sẽ là nơi đánh giá, lựa chọn các nghiên cứu được đề xuất, sau đó tài trợ kinh phí và theo dõi quá trình thực hiện. Các cơ quan có trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội có quyền kiểm tra chi tiêu, chống tham nhũng, lạm quyền cũng như kiểm tra việc thực hiện quy định của Nhà nước đối với các cơ sở nghiên cứu và đối với các nhà khoa học. Cơ chế này phù hợp với đặc thù sáng tạo của hoạt động KH-CN đó là tính rủi ro (mạo hiểm), tính trễ và tính thực tiễn. Vì thế, người làm khoa học phải được trao quyền tự chủ cao, nhưng kèm theo đó trách nhiệm nặng nề đối với sản phẩm khoa học của họ, thôi thúc họ dành trọn tâm huyết cho nghiên cứu.

Ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về KH-CN nói chung và văn bản liên quan đến cơ chế tài chính cho hoạt động KH-CN nói riêng ngày càng được hoàn thiện. Đã có 8 đạo luật chuyên ngành với gần 300 văn bản hướng dẫn thi hành, tạo lập được hành lang pháp lý tương đối toàn diện cho hoạt động KH-CN. Tuy nhiên, hệ thống văn bản này còn thiếu đồng bộ, chưa cập nhật kịp thời để phù hợp với thực tiễn, tạo ra các vướng mắc cho phát triển KH-CN.

Nước ta đã bước vào nền kinh tế thị trường, nhưng hoạt động KH-CN còn chịu nhiều quy định mang nặng tính hành chính, tư duy của thời bao cấp kế hoạch hóa. Trước hết là công tác xây dựng kế hoạch cho các đề tài, dự án KH-CN hàng năm. Việc áp đặt cơ chế kế hoạch hóa cứng nhắc trong xây dựng các nhiệm vụ KH-CN giống như đối với đầu tư xây dựng cơ bản là điều làm giới khoa học bức xúc nhất hiện nay. Mỗi năm các nhiệm vụ KH-CN cấp nhà nước phải được phê duyệt một lần trước ngày 31.7 của năm trước năm kế hoạch, sau đó tổng hợp vào dự toán Ngân sách nhà nước (NSNN), báo cáo Chính phủ và Quốc hội. Sau khi Quốc hội phê chuẩn dự toán NSNN (thường vào tháng 11 hàng năm), Thủ tướng Chính phủ sẽ giao kinh phí thực hiện cho các bộ, ngành, địa phương vào đầu năm của năm kế hoạch. Để phê duyệt được danh mục các nhiệm vụ KH-CN theo cách làm này và xây dựng dự toán kinh phí phải trải qua quy trình phức tạp, mất nhiều thời gian: đề xuất nhiệm vụ; thông qua hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ; xây dựng thuyết minh, dự toán; thông qua hội đồng xét chọn, tuyển chọn, các hội đồng thẩm định nội dung, kinh phí; sau đó là phê duyệt. Quy trình này thường mất khoảng 3 - 9 tháng. Tuy nhiên sau khi các nhiệm vụ được phê duyệt, thường phải chờ 6 - 7 tháng mới được giao kinh phí, vì vậy từ khi hướng dẫn lập kế hoạch đến khi có kinh phí để thực hiện, thường mất 9 -15 tháng (cá biệt như năm 2011 và năm 2012 phải mất hơn 2 năm). Nhiều nhiệm vụ khi được cấp kinh phí đã không còn tính thời sự hoặc không đủ kinh phí để triển khai do lạm phát cao. Điều này không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH-CN, chưa tạo điều kiện cho các nhà khoa học triển khai nghiên cứu kịp thời, hiệu quả.

Cùng với đó, tất cả nhiệm vụ KH-CN khi xây dựng và phê duyệt phải kèm theo dự toán kinh phí chi tiết với các nội dung chi cụ thể theo các định mức được quy định. Đối với những nội dung khoa học nếu không có định mức thì được thực hiện bằng chuyên đề hoặc thuê khoán chuyên môn. Thực tế đối với việc nghiên cứu khoa học, có thể khẳng định không phải tất cả nội dung đều có thể xác định cụ thể được từ trước khi triển khai, ví dụ như cần làm bao nhiêu thí nghiệm, sử dụng hết bao nhiêu nguyên vật liệu để nghiên cứu thành công, v.v. Và nhiều nội dung mang tính sáng tạo trừu tượng không thể có định mức chuẩn được. Hơn nữa, hệ thống định mức thấp và lạc hậu dẫn tới tình trạng các nhà khoa học phải lập dự toán kinh phí bằng cách chia nhỏ nội dung thành hàng trăm chuyên đề để hợp thức hóa chứng từ. Điều này trái với bản chất của hoạt động nghiên cứu là trung thực và làm nản lòng các nhà khoa học.

Một bất cập khác đối với dự toán kinh phí của các nhiệm vụ KH-CN là trong dự toán không có nội dung chi lương và hoạt động bộ máy. Điều này chỉ phù hợp khi tất cả các tổ chức KH-CN đều là tổ chức công lập. Các tổ chức này đã được Nhà nước chi lương và hoạt động bộ máy nên các nội dung chi này không được đưa vào dự toán kinh phí của nhiệm vụ. Tuy nhiên, sau khi Luật khoa học và công nghệ năm 2000 được ban hành, số lượng các tổ chức KH-CN khu vực ngoài nhà nước đã tăng lên một cách nhanh chóng (đến nay đã có trên 900 tổ chức KH-CN thuộc mọi thành phần kinh tế trong tổng số 1.600 tổ chức KH-CN cả nước). Khác với các tổ chức công lập, các tổ chức này không được NSNN đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên. Vì vậy, họ phải tính chi phí tiền lương và hoạt động bộ máy trong dự toán kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH-CN. Điều này gây ra sự mất bình đẳng về dự toán kinh phí giữa các tổ chức KH-CN công lập và ngoài công lập khi tham gia tuyển chọn, xét chọn các nhiệm vụ KH-CN sử dụng NSNN.

Việc điều chỉnh nội dung và kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH-CN phù hợp với thực tế, đảm bảo hiệu quả nghiên cứu cũng là vấn đề phức tạp và gây mệt mỏi cho giới khoa học. Thông tư 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn chế độ khoán kinh phí của đề tài, dự án KH-CN sử dụng NSNN là một bước tiến bộ trong đổi mới cơ chế tài chính, quy định tất cả những nội dung liên quan đến con người đều được khoán, và do chủ nhiệm đề tài, dự án KH-CN quyết định trên cơ sở phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, trên thực tế các kho bạc vẫn kiểm soát chi theo dự toán đã được phê duyệt. Nhà khoa học muốn tạm ứng hoặc quyết toán kinh phí vẫn phải theo đúng các nội dung của dự toán. Khi có biến động về giá hoặc cần thay đổi nội dung nghiên cứu cho phù hợp, thủ tục xin phép điều chỉnh dự toán lại rất mất thời gian và phức tạp, qua nhiều cấp có thẩm quyền, vì thế các nhà khoa học thay vì xin phép điều chỉnh kinh phí đành phải hợp thức hóa chứng từ cho khớp với dự toán đã được phê duyệt.

Thêm vào đó, thủ tục thanh toán, quyết toán đề tài, dự án hiện vẫn rườm rà, phức tạp. Quy định quyết toán theo năm tài chính (kể cả để chuyển nguồn) làm các nhà khoa học phải mất một phần lớn thời gian vào công việc thanh quyết toán. Có nhiều nhiệm vụ, do nhận được kinh phí chậm, chưa kịp triển khai các nội dung theo dự toán đã đến hạn phải làm quyết toán năm. Các định mức tài chính lại không được cập nhật thường xuyên, nhất là trong bối cảnh lạm phát cao hiện nay. Ví dụ, quy định hiện hành hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH-CN có sử dụng NSNN đã được ban hành từ năm 2007 (Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN). Trong khoảng thời gian từ đó đến nay, lương tối thiểu đã tăng gấp 3 lần (từ 350.000đ/tháng lên 1.050.000đ/tháng) nhưng định mức vẫn chưa thay đổi. Với định mức lạc hậu như vậy, việc các nhà khoa học dự một hội thảo khoa học nhưng phải ký 3 - 4 chữ ký để hợp thức hóa khoản thực chi là việc tương đối phổ biến hiện nay. Các cơ quan quản lý về tài chính đều biết rất rõ và mặc nhiên chấp nhận thay vì nhanh chóng đưa ra các định mức phù hợp hơn. Việc thiếu trung thực như vậy trong các hoạt động nghiên cứu khoa học không phải là hiện tượng hiếm và là việc cực chẳng đã, gây tổn thương lớn đến uy tín và lòng tự trọng của giới khoa học. Ngay cả các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước khi tham gia hoạt động nghiên cứu cũng đã phàn nàn về việc này.

Bất cập khác trong cơ chế tài chính liên quan đến việc giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu. Các nhiệm vụ KH-CN có sử dụng NSNN thì về nguyên tắc kết quả sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định Nhà nước giao quyền sở hữu kết quả KH-CN có nguồn gốc NSNN cho các tổ chức, cá nhân, nhưng trên thực tế chúng ta đang thiếu các hướng dẫn cụ thể để thực hiện quy định này, dẫn tới việc các nhà khoa học, không thể chuyển giao kết quả nghiên cứu của mình một cách hợp pháp để ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh, nên phải hợp thức hóa việc bán kết quả nghiên cứu thông qua các hợp đồng kinh tế với giá rẻ, gây thiệt hại cho cả Nhà nước và nhà khoa học. Điều này trên thực tế đã hạn chế việc đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, dẫn tới hiện tượng “bỏ ngăn kéo” nhiều đề tài khoa học.

Cần cấp thiết đổi mới cơ chế tài chính

Quan điểm xây dựng kế hoạch nhiệm vụ KH-CN như đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản hoàn toàn không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH-CN, nếu xét đến tính thời sự, rủi ro và khó định lượng của các nhiệm vụ KH-CN. Ví dụ khi Nhà nước đặt hàng cần nghiên cứu ngay một loại vắcxin phòng bệnh, các nhà khoa học không thể chờ tới 12-18 tháng mới có kinh phí để triển khai. Vì thế, cần nhanh chóng đổi mới công tác xây dựng kế hoạch. Thay vì xây dựng kế hoạch theo năm tài chính hiện nay, các nhiệm vụ KH-CN cần được cấp kinh phí theo tiến độ đề xuất và phê duyệt nhiệm vụ. Để làm được việc này, cơ chế tài chính hiện hành phải được thay bằng cơ chế tài chính áp dụng đối với các quỹ phát triển KH-CN. Trên thực tế, kể từ khi đi vào hoạt động năm 2008, mô hình của Quỹ phát triển KH-CN quốc gia được các nhà khoa học đánh giá rất cao vì có nhiều ưu điểm vượt trội so với cơ chế cấp phát tài chính hiện hành: cấp kinh phí kịp thời với việc phê duyệt nhiệm vụ; không phải quyết toán theo năm tài chính mà theo hợp đồng triển khai nhiệm vụ; cuối năm kinh phí chưa sử dụng hết tự động chuyển nguồn năm sau mà không phải làm thủ tục xin chuyển nguồn. Có ý kiến lo ngại việc cấp kinh phí qua quỹ có thể khó kiểm soát được chi tiêu ngân sách, nhưng cần hiểu rằng quỹ phát triển KH-CN ở Trung ương và địa phương vẫn là quỹ của Nhà nước và có tài khoản ở Kho bạc nhà nước nên NSNN cấp qua quỹ hoàn toàn có thể kiểm soát được, đồng thời phải có quy định chặt chẽ về chế độ báo cáo với cơ quan quản lý tài chính. Đây cũng là cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế, ở các nước phát triển thì quỹ là cơ quan chính thực hiện cấp phát kinh phí cho các đề tài nghiên cứu KH-CN. Để làm tốt việc này, cần thực hiện quy định của Quyết định 1244/QĐ-TTg ngày 25.7.2011 của Thủ tướng Chính phủ, giao quyền xác định tỷ lệ phân bổ NSNN hàng năm cho hoạt động nghiên cứu triển khai (R&D) và cấp kinh phí này vào hệ thống quỹ phát triển KH-CN hoặc cấp qua kho bạc nhưng theo cơ chế quỹ của nhà nước trong lĩnh vực KH-CN. Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức xây dựng và phê duyệt nhiệm vụ theo đặt hàng của Nhà nước và doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Đổi mới và bổ sung nội dung của dự toán kinh phí cũng là một trong những giải pháp quan trọng. Cần đưa chi phí tiền lương và hoạt động bộ máy vào dự toán của nhiệm vụ KH-CN để đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức KH-CN trong và ngoài công lập. Điều này phù hợp với việc thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH-CN công lập và Nghị định 96/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Theo cơ chế này, Nhà nước sẽ không cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các tổ chức KH-CN công lập theo số lượng biên chế như hiện nay mà chuyển sang cấp kinh phí theo nhiệm vụ, bao gồm cả nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của tổ chức KH-CN và nhiệm vụ KH-CN (đề tài, dự án KH-CN các cấp). Hiện thông tư liên tịch hướng dẫn chi tiết vấn đề này đang được Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Tài chính tích cực hoàn thiện để ban hành.

Trước mắt, cần rà soát, cập nhật lại toàn bộ định mức chi cho những công việc có thể định mức theo Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH-CN có sử dụng NSNN như kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, đoàn ra,… Có phương án điều chỉnh định mức tài chính kịp thời theo chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) và mức tiền lương tối thiểu để đảm bảo phù hợp với thực tế. Những nội dung chi không thể có định mức trong hoạt động nghiên cứu khoa học cần phải được giao quyền tự chủ, đảm bảo bù đắp được lao động sáng tạo của các nhà khoa học. Đồng thời, bổ sung một số nội dung chi vào dự toán kinh phí, như: đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, tuyên truyền kết quả nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ sau nghiệm thu, thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài, kinh phí dự phòng. Cùng với đó, phân cấp mạnh hơn nữa thẩm quyền điều chỉnh nội dung và kinh phí của đề tài cho Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính.

Cuối cùng, cần đổi mới thủ tục thanh toán, quyết toán, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà khoa học, hướng đến kết quả và sản phẩm cuối cùng của nhiệm vụ. Nên đổi mới theo hướng khi kết quả được nghiệm thu thì đề tài tự động được quyết toán, vì trên thực tế, các hóa đơn, chứng từ sẽ không có nhiều ý nghĩa khi kết quả của các đề tài, dự án đã đạt được như cam kết trong hợp đồng, nói khác đi cần thí điểm cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc Nhà nước mua trọn gói kết quả nghiên cứu.

Về việc giao quyền sở hữu tài sản trí tuệ có nguồn gốc NSNN, như đã được Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất trong dự thảo Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi), thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền sẽ là đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với những kết quả nghiên cứu được tạo ra từ NSNN. Đại diện chủ sở hữu có quyền giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu cho các tổ chức KH-CN, trong đó ưu tiên tổ chức chủ trì đề tài, dự án. Khi đã được giao quyền sở hữu, tổ chức KH-CN có thể chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp, hay dùng quyền sở hữu tài sản trí tuệ đó như vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp KH-CN. Tất nhiên, cần quy định rõ quy trình, thủ tục giao quyền sở hữu và phân chia lợi ích giữa Nhà nước, tổ chức chủ trì nhiệm vụ KH-CN, và các tác giả của kết quả KH-CN.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã ban hành Nghị quyết mới về phát triển KH-CN, nhấn mạnh đến việc đổi mới cơ chế tài chính trong hoạt động KH-CN như là một trong những giải pháp đột phá để phát triển KH-CN nước ta trong thời kỳ mới. Để triển khai thành công kết quả của Hội nghị Trung ương 6 và đáp ứng sự mong mỏi của cộng đồng các nhà khoa học, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng đối với cơ chế tài chính cho hoạt động KH-CN thông qua Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi) lần này là hết sức cần thiết và sẽ mang lại nhiều thành tựu KH-CN mới, nâng cao hiệu quả của hoạt động KH-CN hiện nay.

Nhân lực khoa học và công nghệ: trọng dụng và tôn vinh

Và hơn ai hết, giới khoa học phải tận dụng được vai trò “quốc sách hàng đầu” của KH-CN, làm việc và sáng tạo cho xứng đáng với sự đãi ngộ của Nhà nước, sự quan tâm của Đảng, để tự khẳng định mình và tạo ra được những sản phẩm khoa học ngang tầm khu vực và thế giới, xứng đáng với mong đợi của đất nước và nhân dân.

Cùng với việc tiếp tục khẳng định khoa học và công nghệ (KH-CN) là quốc sách hàng đầu, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 Khóa XI đã nhận định “Nhân lực KH-CN là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức KH&CN là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức”.

Nghị quyết số 27 Hội nghị Trung ương 7 Khóa X về trí thức cũng khẳng định: “đầu tư cho nhân lực KH-CN, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc”. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH-CN để K